LỊCH SỬ QUỐC HỘI VIỆT NAM (1976 - 1992)


KẾT LUẬN 

Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa II, III, IV, V, hoạt động trong bối cảnh đất nước có chiến tranh, nhân dân ta phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, đó là: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Quốc hội đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng của nhân dân, vì lợi ích tối cao của dân tộc, đáp ứng kịp thời yêu cầu khẩn trương của đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh.

Mùa Xuân năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành được thắng lợi. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất. Nhưng, trong tiến trình cách mạng, giữa hai miền vẫn còn những chỗ khác nhau cần phải xóa bỏ từng bước. Lúc này, nhiệm vụ đặt ra cho cả nước là phải tiếp tục hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. “Thực hiện thống nhất đất nước về mặt Nhà nước tức là chính thức hóa sự nghiệp thống nhất Tổ quốc”.

Để thực hiện thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, tại Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc (11-1975), đại biểu hai miền Nam - Bắc đã cùng thống nhất xác định: Việc quan trọng trước mắt là: “Cần tổ chức sớm cuộc tổng tuyển cử trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam để bầu ra Quốc hội chung cho cả nước... Quốc hội đó sẽ xác định thể chế nhà nước, bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và quy định Hiến pháp mới của nước Việt Nam thống nhất”[1].

Đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân hai miền Nam -Bắc, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị về việc lãnh đạo cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước. Cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất được tổ chức ngày 25-4-1976. Đây là lần thứ hai cuộc tổng tuyển cử được tổ chức trong cả nước sau lần đầu tổ chức ngày 6-1-1946. Cuộc tổng tuyển cử đã thành công tốt đẹp, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để nhân dân ta tiến tới hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất đã thông qua Nghị quyết về tên gọi của Quốc hội được bầu trong cuộc tổng tuyển cử ngày 25-4-1976 là Quốc hội khoá VI, nhằm thể hiện tính liên tục của Nhà nước qua các giai đoạn đấu tranh cách mạng. Quốc hội quyết định lấy tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm khẳng định Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa.

Trải qua 16 năm (1976-1992), Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ khóa VI đến khóa VIII hoạt động trong thời kỳ cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội với những thuận lợi đan xen những khó khăn thử thách. Thuận lợi cơ bản là non sông đã thu về một mối, nhân dân được hưởng độc lập, tự do, cả nước cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, đất nước đang phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thử thách. Trên bình diện thế giới, nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa bị cắt giảm, các thế lực thù địch tăng cường bao vây, cấm vận, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện, sâu sắc, dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Ở trong nước, hậu quả của cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước để lại, cùng với đó là các cuộc chiến tranh xảy ra ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, khiến cho nền kinh tế - xã hội của đất nước những năm cuối thập kỷ 70 và nửa đầu thập kỷ 80 thế kỷ XX lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, tưởng chừng như không thể vượt qua.

Trước những khó khăn, thách thức đó, đổi mới trở thành vấn đề bức thiết của cuộc sống. Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đề ra, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã nỗ lực phấn đấu, từng bước đưa đất nước vượt qua khó khăn thử thách, giành được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực.

Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội từ khóa VI đến khóa VIII đã hoàn thành nhiệm vụ trọng đại của mình trong việc quyết định những vấn đề có liên quan đến vận mệnh của đất nước. Đại biểu Quốc hội khóa VI, VII, VIII do cử tri của cả nước bầu ra là hình ảnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đại diện tiêu biểu của các đảng phái yêu nước và cách mạng; các đoàn thể quần chúng, các giai cấp và tầng lớp nhân dân, lực lượng vũ trang, các dân tộc thiểu số, các nhân sĩ trí thức yêu nước đã thể hiện quyết tâm phấn đấu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Dấu ấn đầu tiên có ý nghĩa quan trọng, tạo tiền đề cho hoạt động của Quốc hội trong thời kỳ mới là cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cả nước đã tổ chức thành công. Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI - Quốc hội chung cả nước là “sự biểu thị hùng hồn ý chí của toàn dân ta đối với việc xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa”[2], là thắng lợi của lòng quyết tâm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”[3] . Thắng lợi đó còn chứng tỏ sự giác ngộ chính trị của các tầng lớp nhân dân và thể hiện sức mạnh đoàn kết của nhân dân ta là vô địch.

Việc Quốc hội khóa VI quyết định về tên nước, quy định Quốc kỳ, Quốc huy, Thủ đô và Quốc ca của nước Việt Nam thống nhất; quyết định bầu các cơ quan cao cấp và các chức vụ lãnh đạo cấp cao của nhà nước... đã mở ra một trang mới trong công cuộc xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa. Cùng với thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước, thành công của kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VI đã đánh dấu sự thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Từ đây, cả nước bước vào thực hiện nhiệm vụ chiến lược chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện Điều 50 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959, Quốc hội khóa VI đã tập trung sửa đổi, bổ sung và thông qua Hiến pháp 1980 - Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Hiến pháp 1980 ra đời chính là sự thể chế hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng. Việc ghi vào Hiến pháp những vấn đề cơ bản trong đường lối cách mạng của Đại hội IV không chỉ có tác dụng động viên, cổ vũ mà chủ yếu làm cho đường lối của Đảng trở thành ý chí tập thể của nhân dân, có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ để tổ chức nhân dân phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.

Theo quy định tại Điều 83 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Hiến pháp 1980, Quốc hội khóa VII đã quy định tổ chức của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; bầu và bãi miễn Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Nhà nước; Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Bộ trưởng; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, các ủy ban nhà nước; xét báo cáo công tác của Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân vạch địa giới hành chính các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các đơn vị hành chính tương đương; quyết định đại xá; quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quyết định giao cho các tổ chức xã hội thực hiện một số nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý của Nhà nước; phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước quốc tế theo đề nghị của Hội đồng Nhà nước.

Hoạt động theo Hiến pháp 1980, chức năng và nhiệm vụ của Quốc hội được xác định đầy đủ và cụ thể hơn. Theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế và văn hóa, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quốc hội có 15 nhiệm vụ và quyền hạn, trong đó có những quyền rất quan trọng như: xây dựng Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, xây dựng luật và sửa đổi luật... Hiến pháp còn quy định Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi thấy cần thiết. Khác với Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 quy định Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hội đồng Nhà nước, thông qua Chủ tịch Hội đồng, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Hội đồng Nhà nước có 21 nhiệm vụ và quyền hạn tương tự như quy định của Hiến pháp 1959 đối với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhưng có sự ràng buộc và chặt chẽ hơn trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Trong nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội các khóa VI, VII, ngoài việc thông qua Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước như: Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân..., lần đầu tiên Quốc hội ban hành Bộ luật hình sự (1985) gồm 280 điều quy định về tội phạm và hình phạt, Luật hôn nhân và gia đình (1986) gồm 57 điều trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, thể hiện bước phát triển đáng kể trong hoạt động lập pháp của Quốc hội.

Cũng như Quốc hội khóa VI, thành công lớn nhất của Quốc hội khóa VIII là đã sửa đổi, bổ sung và thông qua Hiến pháp 1992. So với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 đã có sự điều chỉnh quan trọng là lập lại chế định Chủ tịch nước là cá nhân một người và thành lập Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Điều đặc biệt là quy định “Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết” trong Hiến pháp 1980 đã bị bãi bỏ. Việc ra đời Hiến pháp 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới đã góp phần thể chế hóa toàn diện đường lối của Đảng, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới, nhằm xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

Quốc hội khóa VIII (1987-1992), Quốc hội của giai đoạn khởi đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, nhiều đạo luật quan trọng thể chế hóa chính sách kinh tế mới lần đầu tiên được Quốc hội ban hành như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987), Luật doanh nghiệp tư nhân (1990). Đó là những đạo luật quan trọng thể chế hóa đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. Lần đầu tiên các luật này thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và quyền thành lập công ty và doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra, Quốc hội còn ban hành các luật thuế như: Luật thuế doanh thu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế lợi tức, Bộ luật hàng hải, Luật hàng không dân dụng... Hội đồng Nhà nước cũng đã ban hành nhiều pháp lệnh điều chỉnh các mặt khác nhau của đời sống xã hội.

Nếu như Quốc hội khóa VI mới thông qua một đạo luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 5 pháp lệnh thì Quốc hội khóa VII đã ban hành 10 luật, Hội đồng Nhà nước ban hành 15 pháp lệnh. Đến nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII, Quốc hội đã ban hành 2 bộ luật, 29 luật; Hội đồng Nhà nước ban hành 39 pháp lệnh. Cùng với sự tăng lên về số lượng, chất lượng các luật và pháp lệnh ngày càng được nâng cao, nội dung và phạm vi điều chỉnh cũng toàn diện hơn. Trong đó, có một số luật đã bước đầu phát huy hiệu quả, góp phần thiết thực vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa -xã hội...

Để bảo đảm cho hoạt động của Nhà nước đúng pháp luật vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện chức năng giám sát, Quốc hội các khóa VI, VII, VIII tiến hành giám sát việc thi hành Hiến pháp, pháp luật nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; giám sát việc thực hiện các chính sách kinh tế mới của Đảng và Nhà nước; giám sát việc thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm; giám sát các chương trình, mục tiêu quốc gia về kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh; giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp; giám sát việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí...

Hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện thông qua hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Nội dung giám sát được xây dựng thành các chuyên đề theo chức năng, nhiệm vụ của các ủy ban của Quốc hội và tình hình thực tế của các địa phương trong cả nước. Số lượng các đợt giám sát tăng lên qua từng nhiệm kỳ và chất lượng giám sát được nâng lên theo hướng thực chất hơn, nhằm kịp thời phát hiện những hạn chế, tiêu cực trong quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao. Mỗi vấn đề giám sát đều được Hội đồng Dân tộc các ủy ban của Quốc hội kiến nghị bằng văn bản trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Nhà nước và gửi đến Hội đồng Chính phủ, Hội đồng Bộ trưởng, các ngành, các cấp có liên quan để nghiên cứu, giải quyết.

Mặc dù, hoạt động giám sát đã được tăng cường và đổi mới, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, hiệu quả thấp. Nhiều vấn đề bức xúc về kinh tế, văn hóa, xã hội được nhân dân quan tâm chưa được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Nhà nước đặt lên bàn nghị sự. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Nhà nước chưa theo dõi, đôn đốc, kiểm tra chặt chẽ việc thi hành pháp luật và các nghị quyết của Quốc hội. Công tác giám sát còn mang nặng tính hình thức, chưa đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân.

Trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, trước những yêu cầu và nhiệm vụ mới, đòi hỏi Quốc hội khóa VI phải xem xét, cân nhắc và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, như phê chuẩn kế hoạch kinh tế -xã hội hằng năm và đặc biệt là kế hoạch dài hạn 5 năm lần thứ hai (1976-1980). Thực hiện kế hoạch do Quốc hội phê duyệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân và toàn quân đã nỗ lực phấn đấu từng bước nâng cao hiệu lực Nhà nước về tổ chức và quản lý kinh tế, quản lý văn hóa - xã hội, nhanh chóng xây dựng và kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp ở miền Nam, tiếp tục hoàn thiện bộ máy chính quyền các cấp ở miền Bắc. Như vậy, sức mạnh to lớn của đất nước thống nhất đang được phát huy trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội và thể hiện nổi bật qua hai cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc. Với thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nhân dân ta không chỉ bảo vệ được nền độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mà còn làm tròn nghĩa vụ quốc tế với nhân dân Campuchia và nhân dân Lào anh em, góp phần tích cực vào việc bảo vệ độc lập dân tộc và hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á.

Tuy nhiên, trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước do chỉ tiêu đề ra quá cao so với khả năng thực tế, thiếu căn cứ khoa học nên đã gây ra những khó khăn trong sản xuất, xây dựng và phân phối, lưu thông dẫn đến lãng phí lớn về sức người, sức của, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, nhất là những người hưởng lương. Trên mặt trận kinh tế, đất nước ta đang đứng trước nhiều vấn đề gay gắt, sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh, thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng xã hội, dẫn đến đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn.

Trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985), Quốc hội khóa VII đã cẩn trọng hơn khi xem xét, quyết định các chỉ tiêu phát triển kinh tế -xã hội, bảo đảm phù hợp với khả năng và hoàn cảnh thực tiễn của đất nước; đồng thời, kịp thể chế hóa đường lối chính sách kinh tế mới của Đảng và Nhà nước như: Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (1981) về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong sản xuất nông nghiệp, Chỉ thị 25, 26 -CP của Chính phủ trong sản xuất công nghiệp, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa V) về giải quyết vấn đề giá - lương - tiền. Trong suốt nhiệm kỳ, Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã tăng cường giám sát các vấn đề liên quan đến quản lý kinh tế - xã hội và tập trung hoạt động chất vấn vào việc đánh giá những sai lầm, khuyết điểm trong việc thực hiện chính sách giá -lương -tiền; từ đó, đề ra những biện pháp khắc phục, góp phần thực hiện chủ trương đổi mới từng phần về kinh tế của Đảng và Nhà nước.

Bước sang những năm đầu của thập kỷ 80 thế kỷ XX, mặc dù các thế lực thù địch luôn tìm cách phá hoại về nhiều mặt; thực tế trong công tác chỉ đạo quản lý kinh tế và phân phối lưu thông còn những hạn chế, “sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và về tổ chức thực hiện[4] nên sản xuất gặp phải những khó khăn gay gắt, phân phối lưu thông rối ren, quan hệ sản xuất lỗi thời, đời sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là cán bộ công nhân viên chức và lực lượng vũ trang gặp nhiều khó khăn. Trong đó, thiếu sót lớn nhất là chưa thực hiện được mục tiêu cơ bản “ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân”[5]. Nhưng, nhờ sự cố gắng của các tầng lớp nhân dân, nên nước ta vẫn đạt được một số thành quả bước đầu đáng ghi nhận: Sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,9%, sản xuất công nghiệp tăng 9,5%, thu nhập quốc dân tăng 6,4%, phương thức khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp đã đem lại hiệu quả rõ rệt, mở lối ra cho việc củng cố quan hệ sản xuất ở nông thôn.

Đặc biệt, sau thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, công tác bảo vệ an ninh, chính trị cùng với việc thực hiện tốt nhiệm vụ quốc tế với Lào và Campuchia đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị và liên minh chiến lược giữa ba nước trên bán đảo Đông Dương, “tạo cho sự nghiệp cách mạng nước ta những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên[6].

Bước vào thời kỳ đổi mới, vị trí, vai trò của Quốc hội ngày càng được nâng cao. Phát huy những thành quả và kinh nghiệm của Quốc hội các khóa trước, Quốc hội khóa VIII đã chủ động, sáng tạo trong đổi mới về tư duy, tạo những bước tiến quan trọng cả về tổ chức và hoạt động, góp phần tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quốc hội chủ động hơn trong việc xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

Các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội, chính sách tài chính tiền tệ, dự toán và phân bổ ngân sách nhà nước, quyết định chủ trương đầu tư xây dựng các công trình quan trọng quốc gia, chính sách dân tộc, tôn giáo, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phê chuẩn điều ước quốc tế... cơ bản phù hợp với chủ trương của Đảng và ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Bên cạnh đó, Quốc hội, Hội đồng Nhà nước cũng đã góp nhiều ý kiến thiết thực với thường trực Hội đồng Bộ trưởng, các bộ, ban, ngành về các giải pháp khắc phục khó khăn, giải quyết các vấn đề nóng bỏng về chống lạm phát, về tài chính tiền tệ, phân phối lưu thông, vấn đề đời sống và việc làm của người lao động...

Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, sau hơn 5 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, nền kinh tế - xã hội của đất nước đã có sự chuyển biến tích cực. Thành tựu nổi bật là từ chỗ thiếu lương thực phải nhập của nước ngoài (năm 1988 phải nhập 45 vạn tấn lương thực), đến năm 1989 trở đi, Việt Nam đã bảo đảm đủ lương thực và bắt đầu xuất khẩu gạo. Hàng tiêu dùng phong phú, lưu thông giữa các vùng thuận lợi.

Lạm phát được kiềm chế một bước, chỉ số tăng giá hằng tháng giảm từ 20% năm 1980 xuống còn 4,4% năm 1990. Đời sống của một bộ phận cán bộ, nhân dân được ổn định và cải thiện một bước. Dân chủ hóa xã hội được tăng cường. Chấn chỉnh một bước cơ bản về công tác tổ chức. Thực hiện tốt chính sách đối ngoại, đổi mới bước đầu quan hệ với Liên Xô theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, phù hợp với lợi ích của nhân dân mỗi nước. Thúc đẩy quan hệ bình thường hóa với Trung Quốc, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới. “Những tiến bộ bước đầu về kinh tế, đời sống, về dân chủ hóa xã hội cùng với những thành tựu trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại... đã góp phần quan trọng khôi phục một bước niềm tin của nhân dân vào tiền đồ chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng ta. Đó là nhân tố có ý nghĩa quyết định giúp nước nhà giữ được ổn định chính trị trước những tác động phức tạp của tình hình quốc tế và trong nước”[7].

Hoạt động trong bối cảnh phức tạp của tình hình quốc tế và trong nước, cùng với hoạt động đối ngoại của Nhà nước, Quốc hội các khóa VI, VII, VIII luôn quan tâm đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nghị viện, tranh thủ sự giúp đỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa và sự đồng tình, ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Việc rút hết quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước (1989) đã đập tan âm mưu xuyên tạc và phá vỡ sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch.

Trước cơn bão táp chính trị ở Liên Xô và Đông Âu, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước bước đầu có sự đổi mới dựa trên cơ sở lấy quan hệ hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi là nguyên tắc hoạt động cơ bản đã mở ra một trang mới trong quan hệ đối ngoại với các đối tác truyền thống. Nỗ lực bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991) là bước đột phá trong chính sách đối ngoại, tạo tiền đề để Việt Nam hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới.

Trong quá trình 16 năm hoạt động (1976-1992), Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu và các đại biểu Quốc hội đã từng bước đổi mới trong lề lối làm việc, nhằm bảo đảm cho Quốc hội thực hiện tốt chức năng xây dựng pháp luật, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và tổ chức các hoạt động giám sát. Quan hệ hoạt động của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước với Hội đồng Bộ trưởng, với Tòa án nhân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cũng như quan hệ giữa Hội đồng Nhà nước với Hội đồng Dân tộc và các ủy ban thường trực của Quốc hội ngày càng chặt chẽ, tạo điều kiện để Quốc hội vươn lên gánh vác trọng trách mà nhân dân giao phó.

Là cơ quan đại diện cao nhất hoạt động vì quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, Quốc hội đã sử dụng quyền lực tối cao mà nhân dân giao phó, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ lịch sử trọng đại, từng bước đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách trên hành trình tìm tòi con đường đổi mới. Những thành công của Quốc hội trong việc đưa đất nước từng bước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đã góp phần xây dựng cơ sở, nền tảng để đưa đất nước bước vào thời kỳ đổi mới sâu rộng, đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo tiền đề xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa - Nhà nước của dân, do dân và vì dân, phấn đấu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 

 

[1] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Văn kiện Quốc hội toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 166.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 37, tr. 501 - 502.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 612.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 47, tr. 548.
[5] [6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 47, tr. 547, 546.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 51, tr. 37.