VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 4 1996-1997


BÀI PHÁT BIỂU
CỦA CHỦ TỊCH QUỐC HỘI NÔNG ĐỨC MẠNH
 TẠI CUỘC HỌP VỚI CÁC TRƯỞNG ĐOÀN
 ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI

(Trước phiên khai mạc kỳ họp thứ 3,
 Quốc hội khóa IX, ngày 15-6-1993)

Kính thưa các đồng chí Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội,

Theo dự kiến chương trình, sáng thứ tư, ngày 16-6-1993, kỳ họp thứ 3 của Quốc hội khóa IX sẽ khai mạc.

Để góp phần nâng cao hiệu quả của kỳ họp, với trách nhiệm là cơ quan tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các cuộc họp Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội kính mời các đồng chí Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội đến dự cuộc họp này để cùng trao đổi về một số nội dung cơ bản trong chương trình kỳ họp và bàn các biện pháp tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả chương trình đã đề ra.

Thưa các đồng chí,

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1993 và về công tác xây dựng pháp luật năm 1993, ngay từ đầu năm 1993, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã xác định trọng tâm của kỳ họp thứ 3 là công tác lập pháp và tại kỳ họp này, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua một số văn bản pháp luật quan trọng, bức xúc, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đổi mới tổ chức hoạt động của các cơ quan của Quốc hội. Do đó, trong 6 tháng qua, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã có sự phối hợp chặt chẽ với Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan, huy động sự đóng góp tích cực của nhân dân, của các ngành, các cấp cùng với sự đóng góp của các đại biểu Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và sự cố gắng khẩn trương của Văn phòng Quốc hội trong việc chuẩn bị cho kỳ họp này. Phải nói đây là một kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng và có sự đổi mới trong việc chuẩn bị và tiến hành kỳ họp. Đến nay, theo dự kiến, tại kỳ họp này, Quốc hội đã có điều kiện để xem xét, thông qua 9 dự án luật, 5 dự án quy chế và cho ý kiến về 2 dự án luật nằm trong chương trình xây dựng pháp luật năm 1993. Quốc hội cũng sẽ nghe Chính phủ báo cáo và cho ý kiến về việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1993 trong 6 tháng đầu năm và đề ra các chủ trương, biện pháp nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng pháp luật trong 6 tháng còn lại của năm 1993. Quốc hội cũng sẽ nghe Ủy ban thường vụ Quốc hội báo cáo tổng hợp các kiến nghị của cử tri để làm căn cứ cho việc xem xét, quyết định các vấn đề trong chương trình của kỳ họp.

Để kỳ họp Quốc hội đạt hiệu quả cao, thay mặt Ủy ban thường vụ Quốc hội, tôi xin đề nghị các đồng chí Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội quan tâm một số vấn đề sau đây:

I- Nắm vững nội dung cơ bản và mục đích yêu cầu của các dự án luật, các dự thảo quy chế; thảo luận, tranh luận thẳng thắn để xây dựng được những quy định cụ thể, phù hợp và tạo được sự nhất trí cao nhằm thông qua các văn bản pháp luật có chất lượng, đúng đường lối chính sách của Đảng, phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 1992, đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ

Theo dự kiến tại kỳ họp này, Quốc hội sẽ thông qua Luật đất đai (sửa đổi), Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp, Luật dầu khí, Luật xuất bản, Luật sửa đổi, bổ sung các Luật thuế (doanh thu, tiêu thụ đặc biệt, lợi tức và xuất khẩu, nhập khẩu), Luật về thẩm quyền và trình tự ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, và sẽ cho ý kiến về Dự án Luật doanh nghiệp nhà nước và Dự án Luật phá sản doanh nghiệp nhằm chuẩn bị trước một bước cho việc xem xét thông qua hai dự án luật này vào kỳ họp cuối năm 1993. Việc xem xét, cho ý kiến hoặc thông qua các dự án luật này là nhằm đáp ứng yêu cầu bức xúc trong việc quản lý điều hành đất nước và đòi hỏi của cuộc sống.

Cũng tại kỳ họp này, nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Quốc hội về tổ chức hoạt động của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, Quốc hội sẽ thông qua các quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội.

Với tinh thần ấy, tôi xin nêu một số vấn đề cơ bản đối với từng dự án luật như sau:

1. Về Dự án Luật đất đai (sửa đổi):

Căn cứ vào Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp năm 1992 và trên cơ sở ý kiến đóng góp của các cấp, các ngành, các đại biểu Quốc hội và của đông đảo nhân dân cả nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã xem xét kỹ và cho ý kiến chỉnh lý nhiều lần về Dự án Luật này. Nay, xin nêu một số vấn đề quan trọng sau đây để các vị đại biểu Quốc hội xem xét:

a) Trước hết, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng, Dự án Luật này cần khẳng định nguyên tắc rất cơ bản và quan trọng về đất đai mà Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: "đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý", không một tổ chức, cá nhân nào có quyền sở hữu ruộng, hoặc viện bất cứ lý do lịch sử nào để đòi quyền sở hữu đó.

Để bảo đảm cho đất đai có người làm chủ cụ thể, được sử dụng có hiệu quả, bảo đảm công bằng và ổn định xã hội, chúng ta chủ trương giao ruộng đất cho nông dân sử dụng lâu dài: nông dân được quyền thừa kế, cho thuê, chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp theo quy định của pháp luật.

Những quyền nói trên là khá rộng rãi và đủ để khuyến khích nông dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh, sử dụng đất có hiệu quả, nhưng không phải là quyền sở hữu. Nếu người sử dụng đất không làm tròn nghĩa vụ của mình, vi phạm các quy định của pháp luật về đất đai thì có thể bị Nhà nước thu hồi.

Về quyền chuyển nhượng, phải theo đúng quy định của pháp luật, được cấp chính quyền có thẩm quyền kiểm tra và xác nhận, nhưng cũng không gò ép người muốn chuyển nhượng phải chuyển nhượng cho Nhà nước, vì điều đó sẽ ngăn cản việc phát triển giao dịch trực tiếp giữa nông dân với nhau, tạo ra khâu trung gian và dễ nảy sinh tiêu cực.

Về quyền thế chấp, được thế chấp tại ngân hàng của Nhà nước quyền sử dụng đất để vay vốn sản xuất. Các quyền khác, Dự án Luật đã ghi cụ thể.

b) Về thời hạn giao đất ổn định lâu dài, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng: cần quy định thời hạn đủ dài và phân biệt tùy theo loại đất trồng cây ngắn ngày hay cây lâu năm. Dự án Luật quy định: thời hạn giao đất đối với cây hàng năm và nuôi trồng thủy sản là 20 năm; đất trồng cây 50 năm (cũng có ý kiến cho rằng nên theo chu kỳ của các loại cây). Khi hết thời hạn, người sử dụng đất vẫn có nhu cầu, có đủ điều kiện và sử dụng đất có hiệu quả, chấp hành đúng pháp luật, thì được Nhà nước tiếp tục giao để sử dụng.

c) Việc quy định mức tích tụ (hạn điền) đất nông nghiệp trồng cây hằng năm của mỗi hộ để sử dụng ổn định lâu dài là cần thiết, để ngăn ngừa tình trạng người sống bằng nghề nông không còn ruộng đất, người mua quyền sử dụng đất không phải để sản xuất mà để buôn bán, phát canh, thu tô, do đó, Dự án Luật ghi mức hạn điền đối với mỗi hộ là không quá 2 hoặc 3 ha do Chính phủ quy định đối với từng địa phương. Trường hợp có những hộ đã tự canh tác từ 5 ha trở lên, mà không thuê nhân công thì Chính phủ hướng dẫn thực hiện phù hợp với đặc điểm từng vùng và có giải pháp thích hợp đối với những người đang canh tác số ruộng đất trên mức hạn điền để họ tiếp tục sử dụng.

Riêng đối với đất đồi, núi trọc, đất khai hoang lấn biển để sản xuất - kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Luật đất đai lần này chưa nên quy định hạn điền để khuyến khích việc đầu tư, khai thác; đồng thời, giao Chính phủ nghiên cứu để có chính sách và quy định hợp lý, bảo đảm cả yêu cầu trước mắt và lâu dài.

d) Về quỹ đất dự trữ để lại cho xã, cũng còn ý kiến khác nhau, thực tế hiện nay có nơi không có nhu cầu để lại quỹ này, những nơi để lại thì theo mức khác nhau, việc sử dụng cũng có một số tiêu cực. Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Luật nên quy định có quỹ đất này, nhưng không phải đồng loạt bắt buộc địa phương nào cũng phải có mà tùy nhu cầu cụ thể, địa phương quyết định có để lại hay không, nếu để thì cũng không quá 5% tổng quỹ đất của xã và việc sử dụng phải theo đúng Luật đất đai và các quy định hướng dẫn của Chính phủ.

2. Về Dự án Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp:

Nói chung, Dự án Luật được nhân dân hoan nghênh và đồng tình; Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến chỉnh lý lại bản Dự án, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin nhấn mạnh 2 vấn đề quan trọng nhất của Dự án Luật này là quy định mức thuế và vấn đề giảm thuế, miễn thuế:

a) Phải xây dựng được một Dự án Luật thể hiện tư tưởng vừa "khoan sức dân" vừa bảo đảm nguồn thu của Nhà nước với mức huy động ghi thu là 1.100.000 tấn, mức huy động cần đạt là 900.000 tấn và với tinh thần nguồn thu thuế sử dụng đất nông nghiệp cũng chỉ đầu tư lại cho nông nghiệp.

b) Dự án Luật quy định mức thuế đối với đất trồng cây hàng năm và nuôi trồng thủy sản hạng một là 550 kg/ha và giảm tương ứng đối với các hạng khác. Mức thuế đối với đất trồng cây lâu năm bằng từ 1 đến 1,2 lần so với cây hàng năm trên đất cùng hạng. Riêng cây ăn quả lâu năm trồng trên đất trồng cây hằng năm, mức thuế bằng 1,3 lần trên đất hạng 1, 2, 3 và bằng 1 lần trên đất hạng 4, 5, 6 nhằm hạn chế việc chuyển đất tốt trồng cây hằng năm vào trồng cây lâu năm; đồng thời, vẫn khuyến khích phát triển cây ăn quả lâu năm trên các loại đất xấu trồng cây hằng năm. Đất trồng cây lấy gỗ thu thuế bằng 5% giá trị sản lượng gỗ khai thác và chỉ thu khi thu hoạch. Quốc hội sẽ thảo luận về thời gian ổn định mức thuế nói trên là 5 năm hay 10 năm.

c) Vấn đề quan trọng đáng quan tâm thảo luận để đi tới nhất trí là việc tăng thêm thời gian giảm thuế, miễn thuế đối với đất khai hoang, phục hóa trong các trường hợp khác nhau; mức giảm thuế, miễn thuế khi bị thiệt hại do thiên tai địch họa; việc đưa chính sách xã hội vào Dự án Luật này trong tình hình hiện nay không còn sự trợ giúp của các tập thể hợp tác xã nông nghiệp đối với các đối tượng chính sách như: thương binh, gia đình liệt sĩ và gia đình có công với cách mạng cũng là vấn đề cần được Quốc hội xem xét quyết định.

3. Về các Dự án Luật sửa đổi, bổ sung các Luật thuế (thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, nhập khẩu):

Các Dự án Luật nói trên đã được Quốc hội khóa VIII ban hành năm 1989 nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế. Quá trình thực hiện, bên cạnh những mặt được, mặt tốt, cũng bộc lộ những điểm không phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, có nhiều bất hợp lý gây khó khăn cho sản xuất - kinh doanh; mặt khác, còn có nhiều sơ hở, dẫn đến tiêu cực, đòi hỏi phải sớm sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, việc sửa đổi, bổ sung lần này chỉ tập trung vào một số điểm hết sức cần thiết nhằm khắc phục những chỗ bất hợp lý, có nhược điểm và sơ hở trong các luật thuế hiện hành để qua đó khuyến khích phát triển sản xuất, tăng cường quản lý vĩ mô của Nhà nước và bảo đảm nguồn thu của ngân sách. Đồng thời, phải khẩn trương nghiên cứu để xây dựng các dự án luật thuế nhằm sửa đổi một cách cơ bản về chính sách thuế của Nhà nước ta trong thời gian sắp tới.

Về nội dung, Ủy ban thường vụ Quốc hội cơ bản tán thành với các quy định trong các dự án, nhưng cũng đề nghị Quốc hội xem xét và cho ý kiến.

4. Về Dự án Luật dầu khí:

Dầu khí là tài nguyên chiến lược quan trọng của nước ta, cần thiết phải có đạo luật để điều chỉnh việc khai thác, sử dụng và bảo vệ có hiệu quả phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và phù hợp với quy ước quốc tế về lĩnh vực dầu khí. Là đạo luật chuyên ngành, phạm vi điều chỉnh của Luật là các hoạt động thăm dò, khai thác, sử dụng và bảo vệ có hiệu quả nguồn dầu khí; khẳng định toàn bộ tài nguyên dầu khí ở đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước Việt Nam cho phép và khuyến khích các tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài tiến hành các hoạt động dầu khí theo quy định của Luật này. Dự án Luật cũng quy định rõ về quyền tuyên bố các vùng cấm hoạt động dầu khí của Chính phủ; về việc chuẩn y hợp đồng dầu khí thuộc quyền của Chính phủ Việt Nam; về thuế suất tài nguyên... Qua thảo luận, vấn đề nổi lên còn có ý kiến khác nhau về Dự án Luật này là tổ chức cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động dầu khí. Về vấn đề này, Ủy ban thường vụ Quốc hội tán thành quy định tại Điều 39 của Dự án Luật. Tuy nhiên, đề nghị Quốc hội thảo luận để quy định rõ hơn và cụ thể hơn về việc quản lý nhà nước đối với dầu khí. Trên cơ sở đó, những văn bản dưới luật cần quy định rõ hơn chức năng của cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan quản lý sản xuất - kinh doanh về dầu khí.

5. Về Dự án Luật xuất bản:

Việc ban hành Luật xuất bản lần này nhằm thể chế hóa Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác văn hóa, văn nghệ, tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy sự nghiệp xuất bản phát triển; bảo đảm quyền sáng tạo, quyền được công bố xuất bản tác phẩm của công dân, tổ chức; đồng thời nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, lập lại trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực xuất bản. Từ yêu cầu nêu trên, Dự án Luật xuất bản cần định rõ: mục đích của hoạt động xuất bản là góp phần phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước, nâng cao dân trí, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới và về nội dung cần quy định rõ một số vấn đề lớn, quan trọng sau đây:

1. Hoạt động xuất bản là hoạt động trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng, không phải hoạt động có tính chất đơn thuần kinh doanh.

2. Kế thừa Sắc luật số 003/SL quy định về chế độ xuất bản năm 1957, trong Dự án Luật đã xác định: "Nhà nước không kiểm duyệt tác phẩm trước khi xuất bản, trừ trường hợp cần thiết do Chính phủ quy định" nhằm bảo đảm quyền tự do công bố tác phẩm của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, lực lượng vũ trang dưới hình thức xuất bản phẩm.

3. Chỉ có cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được phép thành lập nhà xuất bản; không có nhà xuất bản tư nhân. Tư nhân chỉ tham gia ở khâu in, nhân bản, phát hành.

Các nhà xuất bản có trách nhiệm tạo điều kiện xuất bản kinh bổn và các tác phẩm tôn giáo, tác phẩm của công dân và các tổ chức.

4. Xây dựng hệ thống thanh tra chuyên ngành về xuất bản để tăng cường chức năng quản lý nhà nước, lập lại trật tự kỷ cương trong hoạt động xuất bản.

6. Về Dự án Luật về thẩm quyền và trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật:

Việc ban hành văn bản luật này nhằm đưa công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật vào kỷ cương, nền nếp; góp phần quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Vì vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị các đại biểu Quốc hội dành sự quan tâm thích đáng cho việc xác định văn bản quy phạm pháp luật, xác định các hình thức văn bản quy phạm pháp luật; cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trình tự và trách nhiệm của các cơ quan trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Cần chú ý đúng mức đến việc xác định quyền hạn, nhiệm vụ của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền và việc thực hiện quyền giám sát đối với các văn bản của các cơ quan khác.

Về vấn đề văn bản của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, theo Hiến pháp năm 1992 và Luật Công đoàn, trong thời gian qua, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được giao một số nhiệm vụ mang tính chất quản lý nhà nước và trên thực tế đã ban hành một số thông tư có quy phạm pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội và bảo hộ lao động. Trong điều kiện hiện nay, chưa nên sửa Luật Công đoàn, do đó, cũng cần khẳng định các văn bản loại này của Tổng Liên đoàn Lao động là văn bản quy phạm pháp luật.

7. Về Dự án Luật doanh nghiệp nhà nước và Luật phá sản doanh nghiệp:

Trong chương trình xây dựng pháp luật năm 1993, Quốc hội đã dự kiến sẽ thông qua 2 dự án luật tại kỳ họp này. Sau khi nghe cơ quan soạn thảo trình bày, ý kiến thẩm tra của Ủy ban kinh tế và ngân sách, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thảo luận và nhận thấy rằng: trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hiện nay, việc sớm ban hành 2 đạo luật này đang được đặt ra một cách bức xúc nhằm tạo cơ sở pháp lý và bảo đảm cơ chế quản lý để thống nhất các doanh nghiệp hoạt động đúng pháp luật. Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng: Dự án Luật doanh nghiệp nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là điều kiện vật chất, là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều hành, quản lý nền kinh tế phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa, phải thể hiện được tinh thần đổi mới kinh tế quốc doanh cả về quản lý nhà nước và quản lý sản xuất - kinh doanh và trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực hiện trong thời gian qua.

Tuy nhiên, trong quá trình thảo luận Dự án Luật này đã đặt ra một loạt những vấn đề về lý luận và thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu, xử lý. Đối với Dự án Luật doanh nghiệp nhà nước: xác định và phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước và quản lý sản xuất - kinh doanh; xác định chủ sở hữu doanh nghiệp; phạm vi chức năng, quyền hạn của giám đốc xí nghiệp. Đối với Dự án Luật phá sản doanh nghiệp, nổi lên là vấn đề tính khả thi của Luật trong khi chưa có Tòa án kinh tế; trình tự, thủ tục xét xử và tuyên bố phá sản, cách thức xử lý doanh nghiệp nhà nước phá sản... Vì vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội sẽ cho ý kiến một bước về 2 dự Luật này tại kỳ họp thứ 3, làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu, chỉnh lý trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp cuối năm.

8. Về các Dự án Quy chế:

Nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo tinh thần của Hiến pháp năm 1992, cụ thể hóa các quy định của Luật tổ chức Quốc hội về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã triển khai xây dựng các Dự án Quy chế về hoạt động của các cơ quan của Quốc hội và hoạt động của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội.

Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị các Đoàn dành thời gian cho việc thảo luận về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau đã nêu trong tờ trình của từng Dự án; cho ý kiến về việc nên xây dựng một hay hai quy chế đối với Quy chế về đại biểu và Đoàn đại biểu Quốc hội; Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.

II- Trên cơ sở những kết quả đạt được và chưa đạt được trong việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1993 trong 6 tháng qua, đánh giá đúng thực trạng tình hình, phân tích rõ những ưu điểm, khuyết điểm, tồn tại, nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất được các biện pháp hữu hiệu trong việc tiếp tục thực hiện nhiệm vụ trong sáu tháng cuối năm 1993

Chúng ta vui mừng nhận thấy rằng, phát huy những thành tựu đã đạt được trong năm 1992, với tinh thần nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong việc thực hiện nhiệm vụ năm 1993, tình hình đất nước trong những tháng đầu năm có nhiều chuyển biến: sản xuất công nghiệp và nông nghiệp phát triển; việc xây dựng các chương trình quan trọng đã được tập trung đúng mức; xuất nhập khẩu tăng; giá cả không có biến động lớn; thu và chi ngân sách có tiến bộ; quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng thêm một bước, việc thu hút đầu tư nước ngoài tiếp tục có chiều hướng thuận lợi; việc triển khai thực hiện chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình, giải quyết việc làm, phát triển khoa học - kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 đã và đang thu được những kết quả bước đầu; đời sống xã hội được giữ vững, trật tự an ninh có chiều hướng tiến bộ.

Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội nước ta còn đứng trước những khó khăn, tồn tại lớn; đó là vấn đề thị trường, nhất là thị trường nước ngoài chưa được mở rộng, sức mua còn quá thấp; nhiều xí nghiệp đình trệ sản xuất vì bị hàng lậu cạnh tranh, vì thiếu vốn. Hoạt động tài chính, nhất là giá cả vẫn còn yếu tố đáng lo ngại; việc điều chỉnh giá xăng dầu và giá một số mặt hàng trong cùng một lúc vào thời điểm tháng 5-1993 vừa qua, là chưa được cân nhắc kỹ; việc xử lý bội chi ngân sách còn nhiều khó khăn; thất thu thuế và khê đọng thuế còn lớn; các cơ chế chính sách nhằm tăng thu chưa được ban hành kịp thời; hoạt động ngân hàng còn chậm đổi mới. Điều đáng quan tâm là đời sống của nhân dân, nhất là vùng dân tộc thiểu số, miền núi còn nhiều khó khăn. Tệ nạn xã hội có chiều hướng phát triển; cuộc đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu chuyển biến còn chậm; tình hình trật tự trị an có lúc, có nơi còn diễn ra phức tạp, việc thực hiện chế độ tiền lương mới triển khai còn chậm...

Để Quốc hội có điều kiện xem xét báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Quốc hội về nhiệm vụ năm 1993, Thủ tướng Chính phủ sẽ có báo cáo chung về tình hình thực hiện nhiệm vụ trong 6 tháng đầu năm. Ngoài ra, có các báo cáo bổ sung gửi đại biểu về tình hình phân bổ và thực hiện thu chi ngân sách trong 6 tháng đầu năm; tình hình đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu; tình hình triển khai thực hiện chế độ tiền lương mới; tình hình an ninh, và công tác đối ngoại trong 6 tháng đầu năm. Trên cơ sở các báo cáo của Chính phủ, đề nghị các đại biểu Quốc hội nghiên cứu và thảo luận, đề ra những biện pháp thiết thực cho việc tiếp tục thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trong những tháng còn lại, dành thời gian đi sâu phân tích những vấn đề kinh tế - xã hội mà cử tri cả nước hết sức quan tâm như đã trình bày ở trên.

Ngoài các nội dung nói trên, cũng tại kỳ họp này Quốc hội sẽ xem xét Tờ trình của Ủy ban thường vụ Quốc hội về 2 vấn đề sau đây:

- Quyết định điều chỉnh chương trình xây dựng pháp luật năm 1993 chuẩn bị Dự án Luật tổ chức Tòa án kinh tế để có thể thông qua vào kỳ họp cuối năm cùng với việc thông qua Luật phá sản doanh nghiệp (ý kiến của Chính phủ), hoặc đề nghị Quốc hội giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh tổ chức Tòa án kinh tế (ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội).

- Đề nghị Quốc hội bầu cử bổ sung một Phó Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội, một Ủy viên Hội đồng dân tộc và một Ủy viên Ủy ban đối ngoại của Quốc hội.

Về vấn đề chất vấn tại kỳ họp này, dự kiến chương trình cũng dành một buổi để Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trả lời các chất vấn của đại biểu Quốc hội sau khi các đại biểu Quốc hội thảo luận ở Đoàn về tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội năm 1993 trong 6 tháng đầu năm và các báo cáo bổ sung. Nội dung chất vấn của các đại biểu Quốc hội đề nghị chỉ tập trung vào nội dung của kỳ họp Quốc hội.

Căn cứ nội dung chất vấn, Chủ tịch Quốc hội là người quyết định những vấn đề các cơ quan được chất vấn cần trả lời ngay tại phiên họp toàn thể ở Hội trường tại kỳ họp này, những vấn đề các cơ quan trả lời bằng văn bản đến đại biểu Quốc hội nêu chất vấn, hoặc trả lời trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, hay trả lời vào kỳ họp sau.

III- Xây dựng chương trình làm việc hợp lý, khoa học; cải tiến và đổi mới phương pháp xem xét các dự án pháp luật, các báo cáo nhằm đáp ứng mục đích, yêu cầu của kỳ họp và bảo đảm thực hiện chương trình đã đề ra

1. Xác định đúng trọng tâm của kỳ họp, xây dựng cho được chương trình làm việc hợp lý:

Như trên tôi đã trình bày, trọng tâm của kỳ họp này là xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, ngay từ trọng tâm chung đó, chúng ta cần xác định được nội dung cơ bản, nhất là độ phức tạp của từng dự án để bố trí thời gian và phương pháp thảo luận thích hợp, xem xét kỹ vấn đề trước khi biểu quyết thông qua. Trong dự kiến bố trí chương trình kỳ họp sẽ ưu tiên thời gian thảo luận và thông qua các dự án pháp luật trong đó chú ý đến Dự án Luật đất đai (sửa đổi) là văn bản có nhiều vấn đề đáng quan tâm nhất. Mặt khác, do các dự án đã được gửi trước đến đại biểu Quốc hội, các Đoàn đã có trao đổi trước một bước nên tại kỳ họp này, thời gian trao đổi ở Tổ, ở Đoàn bố trí ít hơn, coi đây là bước chuẩn bị để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của thảo luận ở Hội trường, còn dành thời gian thích đáng cho các phiên họp toàn thể. Với tinh thần đó, dự kiến thời gian bố trí cho mỗi dự án trao đổi ở Đoàn, ở Tổ là một buổi (trừ Luật đất đai hai buổi); thảo luận ở Hội trường hai buổi (trừ Luật đất đai bốn buổi) và thông qua trong một buổi (trừ Luật đất đai hai buổi). Về các Dự án Quy chế, dự kiến bố trí thời gian thảo luận ở Đoàn và ở Hội trường về Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Quy chế hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, còn các Dự án Quy chế khác chỉ thảo luận ở Đoàn, sau đó trình Quốc hội thông qua.

Đối với các dự án, báo cáo xin ý kiến đại biểu Quốc hội (kể cả luật và báo cáo của Chính phủ) chỉ bố trí thời gian trao đổi ở Đoàn mà không thảo luận ở Hội trường; ý kiến đóng góp của các đại biểu Quốc hội sẽ được tổng hợp gửi đến các cơ quan hữu quan để nghiên cứu, tiếp thụ. Riêng báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1993, và các báo cáo bổ sung sẽ có báo cáo tổng hợp ý kiến thảo luận ở Đoàn trình bày tại phiên họp toàn thể và trên cơ sở đó đề nghị Thủ tướng Chính phủ phát biểu về việc tiếp thụ ý kiến đóng góp của đại biểu. Các báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chỉ gửi đến đại biểu Quốc hội để xin ý kiến mà không báo cáo tại phiên họp toàn thể và không bố trí thời gian thảo luận.

Từ cách đặt vấn đề như vậy, các nội dung trong chương trình sẽ được sắp xếp theo từng phần, có xen kẽ để có thời gian tổng hợp ý kiến, nghiên cứu tiếp thụ ý kiến, chỉnh lý các dự án trình Quốc hội. Tại phiên họp trù bị chiều nay (15-6), Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ trình Quốc hội thông qua dự kiến chương trình, bố trí chương trình và phương pháp làm việc; đồng thời, đề nghị Quốc hội cho phép Ủy ban thường vụ Quốc hội được điều chỉnh tiến độ thực hiện cụ thể khi thật cần thiết và báo cáo với đại biểu Quốc hội trên tinh thần bảo đảm những nội dung chính đã trình Quốc hội.

2. Cải tiến phương pháp làm việc của Quốc hội nhằm nâng cao chất lượng xem xét, quyết định các nội dung trong chương trình kỳ họp:

Trong việc thảo luận ở Đoàn, ở Tổ cũng như ở Hội trường đối với các dự án luật, báo cáo và các dự án khác, đề nghị tập trung vào những vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau. Trước khi kết thúc thảo luận về từng vấn đề, cần có biểu quyết để làm căn cứ chỉnh lý dự án. Trong quá trình thảo luận, tranh luận, Đoàn thư ký có thể gửi phiếu thăm dò ý kiến đại biểu Quốc hội trước khi nêu vấn đề biểu quyết tại phiên họp toàn thể ở Hội trường. Điều quan trọng là cần tổng hợp một cách đầy đủ ý kiến của đại biểu Quốc hội, nghiên cứu một cách nghiêm túc để báo cáo với Quốc hội, trên cơ sở đó tiếp thụ chỉnh lý các dự án pháp luật hoặc gửi đến các cơ quan có báo cáo trình Quốc hội.

Thưa các đồng chí,

Kỳ họp thứ 3 của Quốc hội khóa IX với chương trình làm việc rất nặng, lại diễn ra trong điều kiện còn có nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, về ăn ở, đi lại..., nhưng để đáp ứng yêu cầu của kỳ họp, lòng mong mỏi của cử tri và với trách nhiệm của người đại biểu nhân dân, tôi đề nghị các vị đại biểu Quốc hội hãy khắc phục khó khăn, tập trung sức lực và trí tuệ của mình trong việc tham gia xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần làm cho kỳ họp của chúng ta thành công tốt đẹp.

Ngay sau cuộc họp này, đề nghị các Đoàn đại biểu Quốc hội họp để cho ý kiến về nội dung chương trình và cách thức tiến hành kỳ họp Quốc hội. Các ý kiến đóng góp của các Đoàn, các đại biểu Quốc hội, đề nghị phản ảnh cho Đoàn thư ký để kịp tổng hợp trình Quốc hội thông qua tại phiên họp trù bị vào 16 giờ cùng ngày.

Xin kính chúc các đồng chí Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội mạnh khỏe, chúc kỳ họp thứ 3 của Quốc hội khóa IX thành công tốt đẹp.

Xin chân thành cảm ơn các đồng chí và đề nghị các đồng chí cho ý kiến!

 

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội