VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 4 1996-1997


BÀI PHÁT BIỂU
CỦA CHỦ TỊCH QUỐC HỘI NÔNG ĐỨC MẠNH
VỀ MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU VÀ CÁCH THỨC
CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH KỲ HỌP THỨ 7,
QUỐC HỘI KHÓA IX TẠI CUỘC HỌP
VỚI CÁC TRƯỞNG ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI


(Trước phiên khai mạc kỳ họp thứ 7,
Quốc hội khóa IX, ngày 27-3-1995)

Thưa các đồng chí,

Thay mặt Ủy ban thường vụ Quốc hội, tôi xin chào mừng và chúc sức khỏe các đồng chí và các vị đại biểu Quốc hội về dự kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa IX.

 Để góp phần nâng cao hiệu quả kỳ họp, Ủy ban thường vụ Quốc hội kính mời các đồng chí tới dự cuộc họp này để cùng trao đổi về một số vấn đề thuộc nội dung và cách thức tiến hành kỳ họp.

A- VỀ CHƯƠNG TRÌNH  KỲ HỌP

Trên cơ sở tiếp thụ ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa IX và gửi đến các vị đại biểu Quốc hội. So với dự kiến chương trình đã gửi các vị đại biểu Quốc hội trước đây, bản dự kiến chương trình lần này rút bớt phần thông qua chương trình xây dựng pháp luật từ sau kỳ họp thứ 7 đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX; chuyển việc thông qua Luật khoáng sản sang hình thức cho ý kiến. Đồng thời, như thường lệ, sẽ có báo cáo tổng hợp ý kiến của cử tri cả nước kiến nghị với Quốc hội và các báo cáo hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao từ sau kỳ họp thứ 6 của Quốc hội đến nay.

Sở dĩ có sự thay đổi nói trên là vì:

1. Tuy Chính phủ đã chuẩn bị và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội bản dự kiến chương trình xây dựng pháp luật từ năm 1996 đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX, nhưng sau khi trao đổi, cân nhắc, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy cần phải có thêm thời gian để chuẩn bị kỹ hơn, bảo đảm trình Quốc hội một dự kiến chương trình xây dựng pháp luật vừa có tính khả thi, vừa đáp ứng được yêu cầu từng bước xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, nhất quán, thể chế hóa đường lối của Đảng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và chương trình đó phải được xây dựng trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Quy chế xây dựng luật, pháp lệnh do Hội đồng Nhà nước ban hành năm 1988.

2. Cần có thêm thời gian để nghiên cứu, xác định chiến lược về tài nguyên khoáng sản; trên cơ sở đó, xây dựng Dự án Luật khoáng sản đáp ứng yêu cầu bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản một cách tốt nhất, tiết kiệm và đạt hiệu quả cao; ngăn chặn những hành động làm tổn hại đến tài nguyên khoáng sản và môi trường sinh thái.

B- VỀ MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA KỲ HỌP

I- VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
VÀ BÁO CÁO TÌNH HÌNH THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẤT ĐAI

1. Về Dự án Luật doanh nghiệp nhà nước

Việc ban hành Luật doanh nghiệp nhà nước là một yêu cầu cấp bách hiện nay, nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho các loại hình doanh nghiệp nhà nước hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm phù hợp với cơ chế thị trường, đồng thời có sự quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp. Vì lẽ đó, Dự án Luật này cần phải có những quy định mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp, phát huy quyền làm chủ của người lao động trong doanh nghiệp, tạo động lực cho doanh nghiệp tiếp tục ổn định và phát triển; mặt khác khẳng định quyền cơ bản của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu đối với vốn và tài sản của doanh nghiệp; bảo đảm mục đích cuối cùng là vốn và tài sản của Nhà nước được bảo toàn và phát triển, doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả phát huy vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân.

a) Về khái niệm doanh nghiệp nhà nước:  Ủy ban thường vụ Quốc hội tán thành cách xác định doanh nghiệp nhà nước trong Dự án Luật: doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước quy định (Điều 1).

Như vậy, doanh nghiệp nhà nước bao gồm doanh nghiệp kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận và các tổ chức kinh tế của Nhà nước làm nhiệm vụ kinh tế - xã hội (doanh nghiệp công ích) với vốn do Nhà nước đầu tư trong doanh nghiệp là 100% hoặc chiếm đa số cổ phần hoặc có cổ phần chi phối. Tuy vậy, về vấn đề này cũng còn có ý kiến cho rằng chỉ nên xác định là doanh nghiệp nhà nước đối với tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý để hoạt động kinh doanh.

b) Về tổ chức quản lý doanh nghiệp: thành lập Hội đồng quản trị ở các tổng công ty và các doanh nghiệp nhà nước độc lập:

Thành viên của Hội đồng quản trị là những người có đủ tiêu chuẩn đức, tài, được tuyển chọn theo đúng quy trình; chọn người tại doanh nghiệp là chính. Hội đồng quản trị làm chức năng đại diện cho chủ sở hữu vốn và tài sản của doanh nghiệp. Quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm Hội đồng quản trị phải gắn bó chặt chẽ với quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ sở hữu và của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị và giám đốc đồng nhận vốn của Nhà nước, có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Hội đồng quản trị tự chịu trách nhiệm về quyết định chủ trương, phương hướng hoạt động kinh doanh; giám đốc chịu trách nhiệm điều hành, tổ chức thực hiện.

c) Các Bộ chủ quản, Ủy ban nhân dân các cấp cần tập trung làm tốt hơn việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

d) Việc thành lập tổng công công ty trước hết phải xuất phát từ yêu cầu phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đối với lĩnh vực đặc biệt quan trọng, Nhà nước quyết định việc thành lập tổng công ty và các thành viên tham gia. Đối với lĩnh vực khác, việc tổ chức các tổng công ty, việc gia nhập và tách ra của các doanh nghiệp thành viên phải trên cơ sở tự nguyện của các doanh nghiệp thành viên.

đ) Thu nhập của thành viên, Hội đồng quản trị và ban giám đốc vừa phải căn cứ vào ngạch bậc hành chính của mỗi người, vừa phải phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có tính đến tương quan hợp lý với mức tăng thu nhập bình quân của người lao động và phải được đại hội cổ đông hoặc đại hội công nhân, viên chức chấp nhận và cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn. Sau khi làm đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, lập quỹ đầu tư phát triển các quỹ khác theo quy định, các doanh nghiệp được chia lợi nhuận còn lại cho cổ phần (nếu doanh nghiệp đóng cổ phần hóa) và cho người lao động theo cống hiến của mỗi người vào kết quả kinh doanh. Khuyến khích người lao động dùng thu nhập này góp cổ phần vào doanh nghiệp.

e) Về sự lãnh đạo của Đảng đối với doanh nghiệp nhà nước:

Nên quy định rõ trong Luật vấn đề "Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

2. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hàng không dân dụng Việt Nam:

a) Về nội dung quản lý nhà nước đối với ngành Hàng không dân dụng:

Trong nội dung  sửa đổi, bổ sung lần này có nhiều vấn đề liên quan đến thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước khác như quản lý việc xuất, nhập khẩu tàu bay, các trang, thiết bị phục vụ hàng không; việc xây dựng các chế độ phí và lệ phí cảng hàng không, sân bay; quản lý hoạt động khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường trong hoạt động hàng không dân dụng; quản lý và thẩm định các dự án hợp tác, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực hàng không... Vì vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị cần quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước về hàng không dân dụng, cũng như việc phối hợp giữa cơ quan này với các cơ quan quản lý nhà nước hữu quan khác. 

b) Về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về hàng không dân dụng tại cảng hàng không, sân bay:

Hoạt động quản lý tại cảng hàng không, sân bay có đặc thù riêng. Vì vậy, cần quy định chức năng của cơ quan quản lý nhà nước về hàng không tại cảng hàng không, sân bay là thay mặt Nhà nước kiểm tra việc thi hành pháp luật ở cảng và thu lệ phí sử dụng cơ sở hạ tầng ở khu vực cảng.

c) Về hợp tác liên doanh với nước ngoài trong vận chuyển hàng không dân dụng:

Việc cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp, vận chuyển hàng không cần quy định chặt chẽ. Trong Luật, không quy định mức góp vốn của các bên khi hợp tác liên doanh trong vận chuyển hàng không, nhưng vấn đề này sẽ phải được thỏa thuận khi ký hợp đồng và hợp đồng liên doanh cụ thể (tỷ lệ vốn trong nước, ngoài nước, lĩnh vực liên doanh...) do Thủ tướng phê duyệt, bảo đảm để ngành Hàng không Việt Nam có tỷ lệ vốn chi phối trong liên doanh.

d) Về tổ chức cơ quan quản lý nhà nước ngành Hàng không dân dụng:

Thực tế cho thấy, ngành Hàng không dân dụng là một ngành kinh tế - kỹ thuật đặc thù và rất quan trọng, có liên quan chặt chẽ đến quốc phòng, an ninh quốc gia, cho nên việc tổ chức cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về hàng không dân dụng trực thuộc Chính phủ là phù hợp. Tuy nhiên, trong Luật này và trong các nghị định tiếp theo của Chính phủ, cần phân định rõ việc gì do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định và việc gì có thể ủy quyền cho cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về hàng không dân dụng trực thuộc Chính phủ quyết định.

3. Dự án Bộ luật dân sự:

Đại biểu Quốc hội đã cho ý kiến về Dự án Bộ luật tại kỳ họp thứ 5 và tiếp tục nghiên cứu, cho ý kiến trong đợt lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp theo kế hoạch của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đây là Bộ luật lớn, có phạm vi điều chỉnh rất rộng, bao quát nhiều lĩnh vực của đời sống hàng ngày. Đề nghị Quốc hội, tại kỳ họp này chưa đi sâu vào các chương, điều mà tập trung cho ý kiến về một số vấn đề cơ bản, quan trọng sau đây:

a) Nên đưa toàn bộ các quy định về hôn nhân và gia đình vào Bộ luật dân sự hay chỉ quy định những nguyên tắc cơ bản có liên quan đến dân sự.

b) Ngoài hai loại chủ thể truyền thống của quan hệ pháp luật dân sự là cá nhân và pháp nhân, dự thảo Bộ luật quy định hộ gia đình và tổ hợp tác là hai chủ thể đặc biệt trong các quan hệ dân sự có phù hợp không?

c) Các hình thức sở hữu và nội dung, giới hạn quyền sở hữu được quy định trong Dự thảo Bộ luật đã phù hợp chưa? Sở hữu công nghiệp và quyền tác giả nên như Dự thảo hay quy định thành chương riêng trong phần về quyền sở hữu?

d) Khái niệm hợp đồng dân sự; việc cầm cố, thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự; vấn đề tín chấp, việc bồi thường thiệt hại do viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tố tụng gây ra.

e) Mức độ, phạm vi cụ thể hóa 5 quyền của người sử dụng đất; nội dung cụ thể của các quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê và thế chấp quyền sử dụng đất được thể hiện trong Dự thảo.

g) Khái niệm di sản, các hàng thừa kế theo pháp luật; thừa kế quyền sử dụng đất.

Trên cơ sở Tờ trình của Chính phủ, báo cáo thẩm tra của Ủy ban pháp luật và báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp bước đầu của nhân dân, các ngành, các cấp, Quốc hội sẽ thảo luận tại Hội trường về từng vấn đề trên đây. Căn cứ vào kết quả thảo luận, phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội và kết quả tập hợp, tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân, Dự thảo Bộ luật dân sự sẽ được chỉnh lý để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 8.

4. Dự án Luật tổ chức Tòa án hành chính:

Những năm gần đây, việc phát huy dân chủ và công khai được mở rộng, khiếu nại và tố cáo của công dân tăng lên đáng kể, song việc giải quyết còn rất hạn chế do thiếu cơ chế giải quyết hữu hiệu. Tình hình đó đặt ra yêu cầu cấp bách cần tổ chức cơ quan tài phán hành chính để giải quyết kịp thời và có hiệu quả các khiếu nại của công dân và tổ chức đối với các quyết định của cơ quan hành chính nhà nước. Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng đã xác định cần: "Xúc tiến việc thiết lập hệ thống Tòa án hành chính để xét xử các khiếu kiện của dân đối với các quyết định hành chính".

Việc tổ chức Tòa án hành chính là một vấn đề mới ở nước ta nên cơ quan soạn thảo có nhiều khó khăn trong quá trình nghiên cứu xây dựng Dự án Luật. Qua ba phiên họp xem xét về Dự án Luật này, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy cần phải nghiên cứu, thảo luận kỹ về nhiều mặt như: phạm vi thẩm quyền, mô hình tổ chức... của Tòa án hành chính, trong đó nổi lên vấn đề mô hình tổ chức. Có thể tổ chức Tòa án hành chính theo hai phương án:

- Tổ chức Tòa án hành chính thành một hệ thống thuộc Thủ tướng Chính phủ, nhưng độc lập với các Bộ và Ủy ban nhân dân các cấp.

- Tổ chức Tòa án hành chính trong hệ thống Tòa án nhân dân.

Tờ trình của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Ủy ban pháp luật sẽ trình bày cụ thể, nêu rõ nhưng ưu điểm, nhược điểm của từng phương án để Quốc hội xem xét, cho ý kiến.

Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội trên cơ sở xem xét chung về Dự án Luật này, tập trung thảo luận để chọn mô hình thích hợp. Trên cơ sở quyết định mô hình, sẽ nghiên cứu cụ thể phương án tổ chức Tòa án hành chính ở mấy cấp, phạm vi thẩm quyền xét xử của Tòa án hành chính đến đâu, xác định vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính cũng như việc xem xét, xác định chức năng nhiệm vụ của Thanh tra Nhà nước sau khi có Tòa án hành chính.

Nếu Quốc hội quyết định tổ chức Tòa án hành chính trong hệ thống Tòa án nhân dân thì chỉ cần sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân và sau đó giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về thủ tục tố tụng hành chính. Việc chuẩn bị phương án này đơn giản hơn phương án 1, nếu xét thấy có thể được, đề nghị Quốc hội xem xét và cho thông qua Dự án Luật này vào cuối kỳ họp.

Nếu Quốc hội quyết định tổ chức Tòa án hành chính thành hệ thống thuộc Thủ tướng Chính phủ thì cơ quan soạn thảo tiếp tục chuẩn bị để trình Quốc hội thông qua vào kỳ họp thứ 8.

5. Dự án Luật khoáng sản:

Như đã trình bày, để xem xét thông qua Dự án Luật này cần có Chiến lược tài nguyên khoáng sản. Tuy nhiên, có một số vấn đề cụ thể còn có ý kiến khác nhau cũng cần được Quốc hội xem xét, cho ý kiến một bước để chỉnh lý trình Quốc hội tại kỳ họp sau.

Hiện vẫn còn một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau:

a) Về cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản và Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản nhà nước:

Dự thảo Luật chỉ ghi tổng quát là cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản, còn việc xác định cơ quan đó thuộc Chính phủ hay thuộc Bộ do Chính phủ quyết định theo thẩm quyền quản lý thống nhất của mình. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng đây là cơ quan rất quan trọng về quản lý tài nguyên khoáng sản, nên trong Luật cần ghi rõ là cơ quan trực thuộc Chính phủ. Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy: nếu Chính phủ có thể xác định ngay cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản để ghi vào Luật này thì tốt hơn, như trường hợp đã xử lý đối với ngành Hàng không dân dụng Việt Nam trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hàng không dân dụng Việt Nam.

Về Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản nhà nước: có ý kiến đề nghị cần quy định rõ Hội đồng này là một tổ chức tư vấn giúp Chính phủ trong việc đánh giá trữ lượng tài nguyên khoáng sản. Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy cần thiết phải tổ chức cơ quan này và chỉ nên xác định tổ chức và chức năng của nó sau khi Chính phủ đã quyết định về tổ chức của cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản.

b) Về thủ tục cấp giấy phép hoạt động khoáng sản:

- Về việc cấp giấy phép cho Nhà đầu tư nước ngoài và trong nước hoạt động khoáng sản, hầu hết ý kiến góp ý kiến đều đề nghị phải quy định theo hướng giảm bớt phiền hà. Ủy ban thường vụ Quốc hội tán thành ý kiến này và đề nghị cần quy định rõ trong Luật cơ quan chính được quyền cấp giấy phép và các cơ quan chức năng khác phải tuân thủ quy trình "một cửa".

- Trong việc cấp phép khai thác nhỏ, ý kiến còn khác nhau là nên giao cho chính quyền địa phương hay tập trung cho cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản. Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, để quản lý chặt chẽ tài nguyên khoáng sản, chỉ nên giao cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, còn các khoáng sản kim loại hoặc đá quý dù ở quy mô nhỏ cũng do cơ quan lý nhà nước về khoáng sản ở Trung ương cấp giấy phép.

c) Về vấn đề thừa kế, chuyển nhượng giấy phép hoạt động khoáng sản:

Việc quy định các vấn đề về thừa kế và chuyển nhượng giấy phép hoạt động khoáng sản là rất phức tạp, đòi hỏi phải phù hợp với Pháp lệnh thừa kế, Luật đất đai, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật khuyến khích đầu tư trong nước và với cả Bộ luật dân sự sắp ban hành. Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị chưa ghi các quyền này vào Luật mà để văn bản dưới luật quy định hướng dẫn cho từng trường hợp cụ thể, nhằm tránh sơ hở và phù hợp với các văn bản pháp luật khác.

d) Về việc lập quỹ bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa cho phép khai thác:

Dự thảo Luật có quy định việc giao cho Chính phủ lập quỹ bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa cho phép khai thác từ một phần tiền thuế thu được trong hoạt động khai thác khoáng sản. Hiện nay, việc bảo vệ tài nguyên chưa khai thác còn bị buông lỏng, còn thiếu các điều kiện vật chất để tổ chức việc bảo vệ mỏ chưa khai thác. Vì vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng việc lập quỹ bảo vệ tài nguyên khoáng sản là cần thiết, nhằm khuyến khích việc bảo vệ các mỏ chưa được phép khai thác.

e) Về thuế tài nguyên khoáng sản:

Dự thảo Luật không quy định cụ thể thuế suất thuế tài nguyên, mà đưa ra thuế tài nguyên mới, khác với thuế tài nguyên theo Pháp lệnh hiện hành. Dự thảo quy định: Thuế tài nguyên khoáng sản được tính trên sản lượng khoáng sản thương phẩm thực tế khai thác được và theo giá bán. Nếu quy định như vậy, khả năng thu sẽ lớn hơn so với thuế cũ trên cùng 1% thuế suất. Sau khi cân nhắc, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy nên quy định vấn đề này trong Luật thuế sửa đổi để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về thuế ở nước ta.

6. Báo cáo tình hình thi hành pháp luật đất đai:

Trong thời gian qua, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các địa phương đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức triển khai thi hành Luật đất đai. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, cũng còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục xem xét, xử lý, trong đó nổi lên:

- Vấn đề cấp giấy phép chứng nhận quyền sử dụng đất;

- Vấn đề thực hiện trách nhiệm của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và chính quyền các cấp trong việc bảo vệ đất nông nghiệp;

- Vấn đề chỉ đạo thực hiện quy định quỹ đất 5%;

- Vấn đề thực hiện quản lý nhà nước về đất đai;

- Vấn đề tiếp tục ban hành văn bản pháp luật và giải thích luật, pháp lệnh về đất đai.

Để góp phần xử lý những vấn đề trên đây, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị tại kỳ họp này, Quốc hội sẽ nghe báo cáo của Chính phủ tại Hội trường, thảo luận tại Tổ. Trên cơ sở ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ nghiên cứu, để tiếp tục triển khai thực hiện những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình trong việc thi hành pháp luật về đất đai.

Liên quan đến lĩnh vực này, gần đây, dư luận nhân dân rất quan tâm và đã có đại biểu Quốc hội chất vấn về việc vi phạm Pháp lệnh bảo vệ đê điều ở Thủ đô Hà Nội. Các phương tiện thông tin đại chúng đã nêu khá đầy đủ về các vi phạm và việc triển khai các biện pháp xử lý; đồng thời Chính phủ sẽ báo cáo rõ thêm khi trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, nên đề nghị không có báo cáo riêng về vấn đề này.

II- VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1994 VÀ VIỆC TRIỂN KHAI
 THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ NHIỆM VỤ
 VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1995

Tại kỳ họp này, Quốc hội sẽ dành một số thời gian để nghe và thảo luận báo cáo bổ sung của Chính phủ về thực hiện nhiệm vụ và ngân sách nhà nước năm 1994; việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ và ngân sách nhà nước năm 1995.

1. Về tình hình thực hiện nhiệm vụ và ngân sách nhà nước năm 1994:

Tại kỳ họp thứ 6, Chính phủ đã báo cáo với Quốc hội về khả năng hoàn thành và hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra. Trên cơ sở đó, Quốc hội thảo luận, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1994 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ năm 1995. Đến nay, nhìn chung, tình hình thực hiện các chỉ tiêu và mục tiêu chủ yếu của năm 1994 cũng như kế hoạch năm 1995 so với báo cáo đã trình Quốc hội chưa có gì thay đổi lớn.

Về kinh tế: tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8,8% so với năm 1993, đạt mức tối đa của số ước tính; giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 13,5%; tổng sản lượng nông - lâm nghiệp tăng 4%; kim ngạch xuất khẩu đạt 3,6 tỷ USD, tăng 20,8%, như số ước tính; kim ngạch nhập khẩu đạt 5 tỷ USD (tăng 0,5 tỷ USD so với số ước tính) tăng 27,4%...

Về các mặt khác: ổn định chính trị được giữ vững, quốc phòng - an ninh tiếp tục được củng cố, các vấn đề văn hóa - xã hội được quan tâm giải quyết một bước, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.

2. Về việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ và ngân sách nhà nước năm 1995:

Năm nay, do Quốc hội quyết định các nhiệm vụ và ngân sách nhà nước sớm hơn so với các năm trước, nên ngay từ đầu năm, Chính phủ đã kịp thời giao kế hoạch chính thức cho các Bộ, ngành và các địa phương.

Nhìn chung, qua mấy tháng thực hiện, các chỉ tiêu nhiệm vụ năm 1995 do Quốc hội đề ra đã bước đầu được triển khai có hiệu quả. Nền kinh tế tiếp tục có mức tăng trưởng khá. Công nghiệp trung ương và đặc biệt là công nghiệp địa phương có bước phát triển mới với tốc độ cao (tháng Giêng: 13,5%; tháng Hai: 14,1%).

Tuy nhiên, trên thực tế đang nổi lên một số vấn đề cần phải quan tâm giải quyết, nhất là vấn đề lạm phát. Năm 1994, tỷ lệ lạm phát là 14,4%, chỉ tiêu đề ra là 10%. Năm 1995, Quốc hội quyết định kiềm chế lạm phát ở mức 10%; nhưng mới trong hai tháng đầu năm, tỷ lệ lạm phát đã lên tới 7,3%. Đến nay, theo dự đoán, tỷ lệ lạm phát có thể còn cao hơn. Tình hình này cho thấy, việc phấn đấu giữ tỷ lệ lạm phát trong cả năm 1996 ở mức 10% là một nhiệm vụ nặng nề.

Mặc dù thực hiện chỉ tiêu này là một việc hết sức khó khăn, nhưng vì yêu cầu của nhiệm vụ ổn định tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, tạo đà cho bước phát triển trong những năm tiếp theo, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội tập trung thảo luận để đề ra những giải pháp hữu hiệu nhất, với quyết tâm cao, thực hiện bằng được việc kiềm chế lạm phát ở mức 10%.

Xin nhấn mạnh một số biện pháp chính sau đây:

- Kiên quyết thực hiện mức thu, chi theo tổng dự toán ngân sách nhà nước năm 1995 đã được Quốc hội quyết định và mức phân bổ thu, chi ngân sách cho các Bộ, ngành và các địa phương. Phải tìm biện pháp bồi dưỡng nguồn thu, tăng thu và chống thất thu; bảo đảm nguyên tắc thu đến đâu, chi đến đó; nếu không thu đủ phải cắt chi theo tỉ lệ tương ứng.

- Bằng mọi biện pháp giữ giá lương thực, bảo đảm cánh kéo hợp lý giữa giá lương thực và giá vật tư nông nghiệp. Trong năm 1995, giữ mức tiền lương hiện hành.

- Đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu, tiến tới cân bằng xuất, nhập khẩu; không nhập siêu để tiêu dùng. Nhập siêu để phục vụ cho sản xuất phát triển cũng cần được xem xét kỹ.

- Phát động toàn dân chống lãng phí, thực hành tiết kiệm theo Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 (tháng 12 năm 1993) về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu; trước hết là trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, lực lượng vũ trang. Các cơ quan Trung ương phải gương mẫu thực hiện chủ trương này.

Xuất phát từ tình hình đã trình bày trên đây, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị, tại kỳ họp này, Quốc hội không ra Nghị quyết về việc điều chỉnh hoặc bổ sung các nhiệm vụ và giải pháp lớn của năm 1995. Trên cơ sở ý kiến của Quốc hội, Chính phủ, các ngành, các cấp tiếp tục chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đã đề ra.

C- VỀ CÁCH THỨC TIẾN HÀNH
 VÀ CHỈ ĐẠO,  ĐIỀU HÀNH KỲ HỌP

Tiếp thu ý kiến đóng góp của đại biểu Quốc hội về việc rút kinh nghiệm tại các kỳ họp trước, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị:

1. Về việc họp tổ, họp đoàn và thảo luận tại Hội trường:

Tại kỳ họp này, dự kiến Quốc hội sẽ dành thời gian thảo luận tại Hội trường là chính; họp Tổ chủ yếu nhằm chuẩn bị cho việc thảo luận tại Hội trường. Riêng phần họp đoàn, chỉ trao đổi về dự kiến chương trình và rút kinh nghiệm về kỳ họp.

Theo ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội, cần cố gắng nâng cao hiệu quả của việc thảo luận tại Hội trường, tập trung vào những vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau, giảm bớt những ý kiến tản mạn, trùng lặp hoặc quá dài.

2. Về việc chuẩn bị và thông qua các nghị quyết:

- Về công tác xây dựng pháp luật: căn cứ vào nội dung các dự án thuộc chương trình kỳ họp và ý kiến đại biểu Quốc hội, có thể có nghị quyết về các luật được thông qua hoặc các dự án được cho ý kiến. Căn cứ vào đề nghị của Đoàn Thư ký kỳ họp, của các Uỷ ban thẩm tra và các Ban soạn thảo, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ xem xét và trình Quốc hội phương án cụ thể về vấn đề này.

- Về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1994 và triển khai thực hiện nhiệm vụ năm 1995 theo các nghị quyết của Quốc hội: căn cứ vào báo cáo của Chính phủ, ý kiến của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban, Ủy ban thuờng vụ Quốc hội nhận thấy tuy không ra nghị quyết về vấn đề này, nhưng cần có hình thức phù hợp để bảo đảm thực hiện có hiệu quả những kết luận của Quốc hội tại kỳ họp.

3. Về chất vấn và trả lời chất vấn:

Để góp phần nâng cao chất luợng của việc trả lời chất vấn, đề nghị các đại biểu Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội căn cứ vào nội dung kỳ họp, các báo cáo của Chính phủ, ý kiến của cử tri để nêu các vấn đề cần chất vấn Chính phủ và các cơ quan khác, đồng thời gửi sớm đến Đoàn Thư ký kỳ họp. Trên cơ sở bản tổng hợp ý kiến chất vấn của đại biểu Quốc hội, Ủy ban thuờng vụ Quốc hội sẽ quyết định những vấn đề cần trả lời tại Hội trường và những vấn đề có thể trả lời bằng văn bản gửi tới đại biểu Quốc hội. Các cơ quan, cá nhân nhận đuợc chất vấn cần nghiên cứu, chuẩn bị và trả lời trực tiếp vào những nội dung mà đại biểu chất vấn.

4. Về chỉ đạo, điều hành kỳ họp:

Ủy ban thường vụ Quốc hội cố gắng cải tiến công tác chỉ đạo điều hành; phối hợp chặt chẽ với Chính phủ và các cơ quan hữu quan khác để chuẩn bị tốt nội dung chuơng trình kỳ họp; kịp thời xin ý kiến chỉ đạo của cơ quan lãnh đạo Đảng, nhằm bảo đảm việc thể hiện những quan điểm cơ bản trong các dự án luật và đề ra được các biện pháp  hữu hiệu thực hiện tốt nhiệm vụ, ngân sách nhà nước năm 1995. Đồng thời, tập trung chỉ đạo những công việc cụ thể như tập hợp, tổng hợp ý kiến đóng góp; chuẩn bị các vấn đề gợi ý thảo luận tại Tổ, tại Hội trường, nội dung phiếu lấy ý kiến; điều hành các phiên họp, v.v., và quan tâm đúng mức đến việc xử lý tình hình nhân dân khiếu tố trong thời gian tiến hành kỳ họp.

Chiều nay 27-3-1995, tại phiên họp trù bị, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ trình Quốc hội thông qua dự kiến chương trình, cách bố trí chương trình làm việc và cách thức làm việc tại kỳ họp. Đề nghị Quốc hội cho phép Ủy ban thường vụ Quốc hội, như các kỳ họp trước, khi thật cần thiết, được điều chỉnh lịch làm việc cụ thể và báo cáo với Quốc hội.

Kính thưa các đồng chí,

Chúng ta đã sớm chuẩn bị về mọi mặt cho kỳ họp thứ 7, đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội với Chính phủ và các cơ quan hữu quan khác; kịp thời xin ý kiến Bộ Chính trị về những vấn đề cần thiết và bước đầu đã triển khai thực hiện kế hoạch lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp về Dự án Bộ luật dân sự. Các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội cũng đã khẩn trương tổ chức các hoạt động tiếp xúc với cử tri; xem xét, cho ý kiến về các nội dung thuộc chương trình kỳ họp. Tuy nhiên, việc chuẩn bị vẫn còn nhiều khó khăn, thiếu sót; nhiều tài liệu chưa được gửi đến đại biểu Quốc hội theo đúng thời gian quy định; nhiều vấn đề thuộc nội dung chương trình kỳ họp vẫn còn phải tiếp tục nghiên cứu, xử lý ..., Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị các vị đại biểu Quốc hội phát huy tinh thần dân chủ, tập trung trí tuệ, công sức, góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả kỳ họp.

Sau cuộc họp này, đề nghị các Đoàn đại biểu Quốc hội cho ý kiến về chương trình và cách thức tiến hành kỳ họp, chuẩn bị cho việc Quốc hội thông qua tại phiên họp trù bị vào 16 giờ 30 chiều nay.

Xin chúc các đồng chí và các vị đại biểu Quốc hội mạnh khỏe. Chúc kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa IX thành công tốt đẹp.

Xin chân thành cảm ơn các đồng chí.

 

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội