VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VIII (1992-1997) Quyển 4 1996-1997


BÀI PHÁT BIỂU CỦA CHỦ TỊCH QUỐC HỘI NÔNG ĐỨC MẠNH VỀ MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU VÀ CÁCH THỨC TIẾN HÀNH KỲ HỌP THỨ 10, QUỐC HỘI KHÓA IX TẠI CUỘC HỌP
VỚI CÁC TRƯỞNG ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI


(Trước phiên khai mạc kỳ họp thứ 10, Quốc hội
khóa IX, ngày 14-10-1996)

Kính thưa các đồng chí Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội, 

Thay mặt Ủy ban thường vụ Quốc hội, tôi thân ái gửi đến các đồng chí Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội và qua các đồng chí đến tất cả các vị đại biểu Quốc hội lời chúc sức khỏe và hạnh phúc.

Sau đây, tôi xin báo cáo với các đồng chí một số vấn đề về nội dung của kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX và cách thức tổ chức, điều hành kỳ họp.

PHẦN THỨ NHẤT

VỀ DỰ KIẾN CHƯƠNG TRÌNH
 VÀ THỜI GIAN TIẾN HÀNH KỲ HỌP

Kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa IX là kỳ họp cuối năm, lại được tiến hành vào thời điểm trên đất nước ta vừa diễn ra sự kiện chính trị trọng đại là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, ngoài những nhiệm vụ thường xuyên đối với một kỳ họp thường lệ cuối năm, kỳ họp này có trọng trách góp phần thể chế hóa về mặt Nhà nước các quyết định của Đại hội VIII, từng bước đưa nghị quyết của Đại hội vào cuộc sống. Xuất phát từ yêu cầu đó và căn cứ vào tình hình thực tế, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã sớm dự kiến chương trình kỳ họp gửi lấy ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, các cơ quan hữu quan. Sau nhiều phiên họp xem xét việc chuẩn bị các dự án luật, các báo cáo, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã quyết định triệu tập kỳ họp thứ 10 với dự kiến chương trình đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội.

Tại phiên họp vừa qua, sau khi xem xét lần cuối việc chuẩn bị kỳ họp, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy cần trình Quốc hội cho tiếp tục điều chỉnh, bổ sung một số nội dung sau đây trong dự kiến chương trình kỳ họp:

1. Về báo cáo một số công trình xây dựng cơ bản quan trọng được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước: Theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và Luật bảo vệ môi trường, trước đây, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã dự kiến và Chính phủ đã chuẩn bị trình Quốc hội xem xét, quyết định về một số công trình trọng điểm nhưng qua quá trình chuẩn bị, nhận thấy cần có thêm thời gian để tính toán kỹ hơn về mọi mặt, nên xin rút khỏi chương trình kỳ họp này. Đề nghị Quốc hội giao cho Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét kỹ và kịp thời báo cáo với Quốc hội.

2. Về một số dự án luật:

- Đối với Dự án Luật dân tộc và Dự án Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi), trước đây dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến. Đến nay, căn cứ vào tình hình chuẩn bị và quỹ thời gian của kỳ họp, xin đề nghị Quốc hội cho được rút khỏi chương trình để tiếp tục chuẩn bị thêm

- Đối với ba Dự án Luật thuế (trị giá gia tăng, thu nhập công ty, thu nhập cá nhân) trước đây dự kiến trình Quốc hội thông qua nhưng xét thấy, nội dung các dự án này còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu thêm nên tại kỳ họp này chỉ mới trình Quốc hội cho ý kiến.

Cùng với Dự án Luật thương mại, ba Dự án Luật thuế sẽ được chỉnh lý trên cơ sở tiếp thu ý kiến đóng góp của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp này với tinh thần cố gắng trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 11.

3. Sau khi xem xét Tờ trình của Chính phủ về việc cho một số tỉnh được chia, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị cho bổ sung vấn đề này vào chương trình kỳ họp Quốc hội. Nội dung cụ thể sẽ được nêu rõ trong Tờ trình của Chính phủ.

Như vậy, về nội dung trọng tâm của kỳ họp này, bên cạnh các báo cáo chính về kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 1996, năm 1997; tổng quyết toán ngân sách nhà nước vào năm 1995; về nhiệm vụ, kế hoạch 5 năm 1996-2000, các báo cáo thường lệ về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tổng hợp ý kiến cử tri và các báo cáo hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, sẽ có các báo cáo chuyên về vấn đề lĩnh vực đất đai, tiền lương, hoạt động của ngành Ngân hàng, đấu tranh chống tham nhũng... Đây là những báo cáo quan trọng và hết sức cần thiết nhằm cung cấp cho đại biểu thông tin về các lĩnh vực nóng bỏng của cuộc sống để giúp đại biểu xem xét, quyết định các vấn đề trong chương trình nghị sự.

Theo dự kiến, Quốc hội sẽ nghe báo cáo, thảo luận chung và ra các nghị quyết về nhiệm vụ năm 1997, kế hoạch 5 năm 1996-2000, dự toán ngân sách nhà nước năm 1997, phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1995. Đối với các báo cáo chuyên đề và báo cáo hoạt động năm 1996 chủ yếu gửi đến đại biểu Quốc hội nghiên cứu.

Thời gian tiến hành kỳ họp:  Như dự kiến gửi đến các vị đại biểu Quốc hội: khai mạc vào ngày 15-10, kết thúc vào ngày 14-11-1996. Tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ quan tâm cải tiến hơn nữa công tác chỉ đạo điều hành.

PHẦN THỨ HAI

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM
 TRONG NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH KỲ HỌP

A- VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ,
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1996; NHIỆM VỤ,
 NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1997 VÀ KẾ HOẠCH
5 NĂM 1996 - 2000

Tại kỳ họp này, Chính phủ và các cơ quan hữu quan sẽ báo cáo đầy đủ, cụ thể các vấn đề về kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước. Các Đoàn đại biểu Quốc hội cũng đã nghiên cứu trước một bước về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1996 trong 6 tháng đầu năm. Do đó, tại buổi làm việc hôm nay, chúng tôi không điểm lại toàn bộ tình hình thực hiện và phương hướng nhiệm vụ trong các năm tới, mà chỉ đề nghị Quốc hội căn cứ vào các tờ trình, báo cáo trình Quốc hội và thực tế ở các địa phương để tập trung thảo luận, xem xét, tìm ra những giải pháp thích hợp và quyết định những vấn đề cơ bản nhằm "đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau" (Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000 tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng).

Chúng ta đã đi gần hết năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm 1996 - 2000. Đất nước bước vào 5 năm cuối cùng của thế kỷ này với những khả năng và cơ hội lớn hơn nhiều so với 5 năm trước, đồng thời cũng đứng trước thử thách gay gắt hơn trong bối cảnh quốc tế và khu vực đang tiếp tục biến đổi nhanh chóng và sâu sắc trên nhiều mặt.

Với tinh thần đó, khi bàn về các lĩnh vực này, đề nghị các vị đại biểu Quốc hội quan tâm đến những vấn đề lớn sau đây:

I- VỀ KẾ HOẠCH 5 NĂM 1996 - 2000

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: nhìn chung, các mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 được thực hiện vượt mức. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Đã tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, nước ta vẫn đang ở trình độ phát triển rất thấp về kinh tế và công nghệ. Các mặt văn hóa, xã hội vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc.

Nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, xin đề nghị Quốc hội:

1. Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm vừa qua, căn cứ vào những khó khăn, thuận lợi trong 5 năm 1996 - 2000 để xem xét, quyết định nhiệm vụ chung và những nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu là:

- Tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 9 - 10%; đến năm 2000, GDP bình quân đầu người gấp đôi năm 1990 (trong chỉ đạo thực hiện, phấn đấu đạt cao hơn);

- Tăng nhanh khả năng và tiềm lực tài chính của đất nước, lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia;

- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại;

- Giải quyết tốt một số vấn đề xã hội;

- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc;

- Tích cực chuẩn bị và tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000.

2. Trong việc thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, cần xem xét các cân đối và quan hệ tỉ lệ lớn của kế hoạch.

Cần chú ý các biện pháp đạt hiệu quả cao trong việc khai thác và phát huy các nguồn lực. Từ thực tế và kinh nghiệm trong các năm qua, cần bảo đảm huy động tốt nguồn thu và bố trí ngân sách hợp lý, có hiệu quả. Trong việc phân bổ nguồn vốn đầu tư, chú ý một số quan hệ lớn:

- Giữa vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác.

- Giữa các ngành công nghiệp.

- Giữa phát triển kinh tế với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và các vấn đề văn hóa, xã hội...

 3. Quan tâm xem xét cụ thể có quyết định về 11 chương trình và lĩnh vực được nêu ra trong báo cáo của Chính phủ.

4. Tập trung xem xét và quyết định các biện pháp chủ yếu, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.

II- VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
 VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1996

Do kỳ họp Quốc hội tiến hành vào tháng Mười, Chính phủ chỉ mới có điều kiện tổng hợp, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ và ngân sách nhà nước trong 9 tháng đầu năm và ước thực hiện cả năm 1996. Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội căn cứ vào các nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ và ngân sách nhà nước năm 1996 và phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 để xem xét, đánh giá tình hình trong 9 tháng vừa qua; đồng thời định rõ yêu cầu và những biện pháp cần thiết bảo đảm việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 1996 trong những tháng còn lại.

1. Cần đánh giá đúng thực trạng tình hình:

a) Về kết quả thực hiện, mặc dù gần đây thiên tai liên tiếp gây ra những thiệt hại lớn, nhưng tình hình kinh tế xã hội trong 9 tháng đầu năm tiếp tục có những chuyển biến tích cực; mức tăng trưởng khá, nhất là sản xuất nông nghiệp được mùa lớn; công nghiệp tăng so với cùng kỳ năm trước; nhiều sản phẩm chủ yếu tăng nhanh, một số địa phương có nhịp độ phát triển cao hơn mức bình quân chung; thị trường giá cả ổn định; đời sống nhân dân nhìn chung tiếp tục có bước cải thiện; các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, đào tạo vẫn duy trì và phát triển; các hoạt động đối ngoại, quốc phòng, an ninh đều có những tiến bộ...

b) Đồng thời, bên cạnh đó cũng nổi lên nhiều vấn đề không thể xem thường:

- Mấy tháng gần đây, sản xuất - kinh doanh có dấu hiệu chững lại trong khá nhiều ngành, lĩnh vực và các thành phố công nghiệp lớn. Năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế, của từng ngành, lĩnh vực, từng doanh nghiệp còn rất thấp.

Nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu bị ứ đọng, tiêu thụ chậm; hàng ngoại tràn ngập thị trường; nhiều doanh nghiệp phải sản xuất cầm chừng. Sản lượng lương thực hàng hóa khá lớn, nhưng chất lượng chưa cao, tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đều chậm, còn tồn đọng nhiều trong dân. Nhiều nông sản hàng hóa khác như mía, cà phê, cao su... cũng đều khó tiêu thụ, giá cả giảm thấp, nông dân chịu nhiều thiệt thòi.

- Đầu tư phát triển từ tất cả các nguồn, nhất là bằng nguồn trong nước, nguồn tập trung từ ngân sách nhà nước tăng không đáng kể hoặc không tăng. Đầu tư của nước ngoài vào công nghiệp chế biến nông sản gắn với nông nghiệp, vào các vùng có kết cấu hạ tầng yếu kém còn rất hạn chế; thủ tục vẫn còn phiền hà...

- Mức nhập siêu cao, đã vượt chỉ tiêu kế hoạch cả năm 1996, tác động xấu đến cán cân thanh toán. Nhập lậu vẫn nghiêm trọng. Xuất khẩu chưa được đẩy mạnh đúng yêu cầu.

- Tỷ lệ lạm phát giảm mạnh, bên cạnh ý nghĩa tích cực, việc giảm lạm phát liên tục trong bốn tháng gần đây và chỉ số giá giảm nhanh đã có biểu hiện tác động không lợi đến sản xuất - kinh doanh.

- Lãi suất tín dụng tuy đã điều chỉnh bốn lần, nhưng vẫn còn cao, không phù hợp với chỉ số lạm phát. Từ đó, dẫn đến nghịch lý là doanh nghiệp và nền kinh tế thiếu vốn, còn ngân hàng thì ứ đọng vốn. Hoạt động của ngành Ngân hàng tuy đã cố gắng, nhưng vẫn còn nhiều sơ hở, để xảy ra một số vụ tiêu cực gây thất thoát lớn.

- Thu ngân sách đạt thấp nên chưa bảo đảm tốt nhiệm vụ chi. Bội chi ngân sách lớn và tiếp tục tăng. Nợ đến hạn không trả đủ. Tình trạng quản lý ngân sách, tài sản ở nhiều cấp, nhiều ngành và nhiều đơn vị còn lỏng lẻo nên để thất thoát, lãng phí nhiều tiền của của Nhà nước.

- Nhiều vấn đề xã hội bức xúc như việc làm, giáo dục, y tế chưa có chuyển biến mạnh. Đời sống của đồng bào vùng dân tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng bị thiên tai, việc học hành, chữa bệnh của người nghèo còn rất khó khăn. Một bộ phận người hưởng lương bị giảm sút thu nhập thực tế. Bất bình đẳng trong thu nhập và đời sống vẫn gia tăng.

- Cơ chế quản lý xã hội, hệ thống pháp luật tuy đã được cải tiến một bước, nhưng vẫn còn bất cập so với yêu cầu mới. Hiệu lực quản lý nhà nước chưa cao, kỷ cương phép nước chưa nghiêm; việc cải cách hành chính, kiện toàn tổ chức của chính quyền các cấp chưa có tiến bộ đáng kể; việc đổi mới chính sách kinh tế chưa gắn với đổi mới chính sách xã hội. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng chưa đưa lại hiệu quả thiết thực; việc chống buôn lậu tuy đã đạt được một số kết quả, nhưng tình trạng nhập lậu vẫn rất phổ biến với mức độ tinh vi và nghiêm trọng hơn.

2. Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình, cần phân tích rõ nguyên nhân cả về chủ quan và khách quan:

Có thể nói rằng, tuy có một số khó khăn, trở ngại khách quan, nhưng thiếu sót chủ quan trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành từ Trung ương đến cơ sở vẫn là một trong những nguyên nhân chính, làm chậm nhịp độ phát triển, nhất là đối với sản xuất công nghiệp. Trong việc phân tích nguyên nhân, cũng cần làm rõ phần trách nhiệm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội.

3. Nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 1996 theo nghị quyết của Quốc hội, cần đề xuất những giải pháp chủ yếu và cấp bách trong những tháng còn lại của năm 1996, hướng vào việc phát huy những kết quả đã đạt được trong 9 tháng đầu năm, đồng thời tập trung khắc phục những yếu kém, tồn tại đã nêu ở phần trên.

III- VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
 VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1997

Năm 1997 là năm đầu tiên triển khai sâu rộng Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng và năm thứ hai của kế hoạch 5 năm 1996 - 2000. Ủy ban thường vụ Quốc hội tán thành ý kiến của Chính phủ là "kế hoạch năm 1997 tiếp tục được thể hiện và bố trí theo nhiệm vụ tổng quát và những tư tưởng chỉ đạo lớn cho cả thời kỳ 5 năm 1996 - 2000. Những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 1997, một mặt phải thể hiện được tính liên tục của sự tăng trưởng cao và bền vững, mặt khác phải phù hợp với quy hoạch phát triển dài hạn tổng thể kinh tế - xã hội của đất nước, quy hoạch phát triển các ngành, các địa phương và các vùng lãnh thổ".

Với tinh thần ấy, đề nghị Quốc hội quan tâm xem xét một số vấn đề sau đây:

1. Xem xét, quyết định một số chỉ tiêu chủ yếu đã được Chính phủ dự kiến trong báo cáo trình Quốc hội; bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, cân đối của các chỉ tiêu này, vừa chú trọng các chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế, vừa bảo đảm một số chỉ tiêu về xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ...

2. Theo báo cáo của Chính phủ, với vị trí năm 1997 được xác định như trên, một mặt phải xử lý những tồn đọng của năm 1996, làm bù những công việc chưa làm được, mặt khác phải tập trung sức giải quyết năm vấn đề lớn có tính chất toàn diện, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, tài chính, giáo dục - đào tạo, quốc phòng - an ninh, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, v.v.. (điểm 2 mục I trong phần kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1997).

3. Trong khi xem xét, quyết định nhiệm vụ và ngân sách nhà nước năm 1997, đề nghị:

- Chú ý đầy đủ hơn đến vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế để bảo đảm thắng lợi trong cạnh tranh, bảo đảm phát triển vền vững.

- Để quản lý nền kinh tế phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, trong công tác kế hoạch và thống kê phải quan tâm và thể hiện được cơ cấu kinh tế theo các thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân...

- Chú ý xử lý tốt mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng theo hướng tăng tích lũy để đầu tư cho phát triển.

- Huy động vốn từ nhiều nguồn cho đầu tư phát triển.

- Tiếp tục thực hiện xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế và một số lĩnh vực khác có thể làm được để động viên nguồn lực của cả xã hội, cả trong nước cũng như ngoài nước, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của các lĩnh vực này. Có chính sách, cơ chế cụ thể công bố công khai...

- Coi trọng đúng mức việc xây dựng hệ thống thương nghiệp nội địa; củng cố, mở rộng thương nghiệp quốc doanh ở cả thành thị và nông thôn, nhất là ở nông thôn trong khâu cung ứng vật tư và mua lương thực, nông sản của nông dân...

- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế; trong đó chú ý cơ chế quản lý đối với các loại hình doanh nghiệp, các khu công nghiệp, khu chế xuất; cơ chế quản lý tài chính, ngân hàng; tăng cường vai trò và chất lượng kế hoạch hóa phù hợp với cơ chế mới...

- Tiếp tục đổi mới và tăng cường khâu điều hành và tổ chức thực hiện kế hoạch. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm minh các vi phạm theo đúng quy định của pháp luật...

B- CÔNG TÁC XÂY DỰNG PHÁP LUẬT

I- VỀ CÁC DỰ ÁN LUẬT TRÌNH THÔNG QUA

1. Luật thẩm quyền, thủ tục và trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật:

Việc thông qua Luật này là yêu cầu cấp thiết hiện nay nhằm lập lại trật tự kỷ cương trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, khắc phục tình trạng ban hành văn bản không đúng thẩm quyền, chồng chéo, mâu thuẫn; đồng thời, bảo đảm để các văn bản được ban hành có chất lượng, sát thực tế, đúng với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, có khả năng thực thi trong cuộc sống. Về cơ bản, Dự án Luật được chuẩn bị tốt. Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị các đại biểu Quốc hội quan tâm cho ý kiến về một số vấn đề cơ bản sau đây:

a) Về phạm vi điều chỉnh: Ủy ban thường vụ Quốc hội tán thành đề nghị của Chính phủ: Dự án Luật này chỉ quy định thẩm quyền, thủ tục và trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Trung ương như Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; còn đối với văn bản của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp thì giao cho Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.

b) Thẩm quyền ban hành nghị định của Chính phủ: Hiện nay, ngoài việc ban hành nghị định quy định chi tiết thi hành các luật, pháp lệnh và nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan thuộc thẩm quyền thành lập của Chính phủ, Chính phủ còn ban hành một loại nghị định mà xét về nội dung thì cần được quy định bằng một văn bản luật hoặc pháp lệnh, nhưng chưa đủ điều kiện ban hành. Do đó, trong thời gian trước mắt, ngoài luật, pháp lệnh, Chính phủ vẫn cần ban hành loại nghị định này để điều chỉnh một số vấn đề nhằm kịp thời đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; đồng thời phải phấn đấu từng bước giảm dần cả loại nghị định này của Chính phủ cũng như pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội để tập trung vào việc ban hành luật.

c) Văn bản liên tịch giữa các tổ chức chính trị - xã hội với cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Hiện nay, một số tổ chức chính trị - xã hội như Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Xét về chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức chính trị - xã hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy cần tiếp tục duy trì hình thức văn bản liên tịch giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội nói trên và coi đây là một hình thức văn bản quy phạm pháp luật.

d) Văn bản của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Theo Dự thảo Luật thì nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, quyết định, chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là các văn bản quy phạm pháp luật. Đề nghị cần xác định rõ chỉ những văn bản hướng dẫn việc áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát, xét xử đã được quy định tại Điều 23 của Luật tổ chức Quốc hội mới là văn bản quy phạm pháp luật.

2. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi):

Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (được ban hành năm 1987 và sửa đổi, bổ sung hai lần vào năm 1990 và 1992) cùng với các văn bản dưới luật và các văn bản pháp luật có liên quan đã tạo khung pháp lý cần thiết cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành và trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới, Luật đầu tư nước ngoài đã bộc lộ những điểm thiếu sót hoặc có những điều không còn phù hợp. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật này nhằm tạo môi trường pháp lý hấp dẫn hơn nữa để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng cường sự hội nhập kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy: Dự án Luật đã kế thừa những nguyên tắc cơ bản và nhiều quy định đúng đắn của Luật hiện hành đã được thực tế kiểm nghiệm và tán thành phạm vi sửa đổi, bổ sung thể hiện trong Dự thảo Luật; đồng thời, đề nghị Quốc hội tập trung xem xét một số vấn đề chính sau đây:

a) Về lĩnh vực địa bàn đầu tư: Dự thảo Luật quy định cụ thể những lĩnh vực địa bàn khuyến khích đầu tư và không cấp phép đầu tư nước ngoài. Đây là những quy định cần thiết phù hợp với thực tế nhằm khẳng định chủ quyền của Nhà nước ta và để nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn được phép.

b) Về các tổ chức Việt Nam được liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài: Đề nghị vẫn giữ lại quy định của Luật hiện hành "Các tổ chức kinh tế tư nhân Việt Nam được hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài trong lĩnh vực và điều kiện do Chính phủ quy định" (Điều 3 của Luật hiện hành) và bổ sung thêm các tổ chức như bệnh viện, trường dạy nghề, viện nghiên cứu, trường học trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, công nghệ, khoa học tự nhiên được hợp tác liên doanh với nước ngoài và giao cho Chính phủ quy định cụ thể về vấn đề này trên cơ sở Luật đầu tư nước ngoài.

c) Về khu công nghiệp: Cần xác định rõ ba loại khu công nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư, do các nhà đầu tư trong nước đầu tư và do các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài cùng đầu tư. Trong Luật này không quy định việc đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam vào khu công nghiệp.

d) Về các loại hợp đồng xây dựng công trình hạ tầng: Đề nghị quy định cho phép nhà đầu tư nước ngoài ký với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam các hợp đồng theo các hình thức: xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, xây dựng - chuyển giao; giao cho Chính phủ căn cứ vào những nguyên tắc quy định trong Luật để quy định cụ thể việc đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài theo các loại hợp đồng này.

e) Về vấn đề góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất của bên Việt Nam: Để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật hiện hành, đề nghị trong Luật này chỉ quy định chung cho phép bên Việt Nam được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, còn những vấn đề cụ thể để pháp luật về đất đai quy định: đồng thời, giữ các quy định của Luật hiện hành cho phép bên Việt Nam góp vốn bằng nguồn tài nguyên, mặt nước, mặt biển.

f) Về thuế: Đề nghị trong điều kiện hiện nay, chỉ quy định việc hoàn thuế lợi tức cho phần lợi nhuận tái đầu tư đối với các dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư và giao cho Chính phủ quy định tỷ lệ hoàn thuế căn cứ vào lĩnh vực, địa bàn, hình thức và thời hạn đầu tư.

g) Về vấn đề chuyển giao công nghệ: Tinh thần chung là cần có quy định khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ càng sớm càng tốt. Thời hạn chuyển giao đối với mỗi dự án được các bên thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng đầu tư.

h) Về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài: Ủy ban thường vụ Quốc hội nhất trí với quan điểm của Chính phủ là cần quy định đơn giản hóa các thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài; tập trung quyền cấp giấy phép đầu tư vào cơ quan quản lý nhà nước là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đồng thời tùy theo tính chất và quy mô dự án có thể phân cấp cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất có đủ điều kiện cấp giấy phép trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch của Trung ương và giao cho Chính phủ quy định cụ thể về vấn đề này.

II- VỀ CÁC DỰ ÁN LUẬT TRÌNH XIN Ý KIẾN

1. Các dự án luật thuế:

Hệ thống các luật, pháp lệnh về thuế được ban hành từ năm 1991 trở lại đây đã góp phần bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước ngày một tăng, thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phát triển, trở thành một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc quản lý, điều tiết vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế, góp phần kiềm chế và đẩy lùi lạm phát.

Tuy nhiên, qua thực tiễn triển khai thi hành cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống thuế hiện hành cũng đã bộc lộ những nhược điểm như thu trùng lặp, chưa bao quát hết các nguồn thu, còn phức tạp trong việc tính thuế, thu thuế do có nhiều thuế suất khác nhau... Bên cạnh đó, từ khi Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do (AFTA), cam kết thực hiện Chương trình ưu đãi thuế quan (CEFT), chuẩn bị tham gia Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và Tổ chức Thương mại toàn cầu (WTO) thì việc tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thuế là điều cần thiết nhằm khắc phục các nhược điểm nói trên, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khuyến khích phát triển sản xuất - kinh doanh, bảo đảm công bằng trong thực hiện chính sách thuế, tăng thu cho ngân sách nhà nước và góp phần để nước ta hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Với tinh thần đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội tán thành đề nghị của Chính phủ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến về các dự án Luật thuế trị giá gia tăng (VAT), Luật thuế thu nhập công ty và Luật thuế thu nhập cá nhân.

Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị các vị đại biểu Quốc hội tập trung thảo luận, cho ý kiến về những nội dung chủ yếu sau đây:

a) Đối với Dự án Luật thuế trị giá gia tăng: Là các vấn đề về phạm vi, đối tượng chịu thuế, phương pháp tính thuế và mức thuế suất.

b) Đối với Dự án Luật thuế thu nhập công ty: Là các vấn đề về tên gọi của Luật, đối tượng chịu thuế, thu nhập chịu thuế và mức thuế suất.

c) Đối với Dự án Luật thuế thu nhập cá nhân: Là các vấn đề về tên gọi của Luật, đối tượng chịu thuế, thu nhập chịu thuế, biểu thuế và mức thu nhập khởi điểm chịu thuế.

2. Dự án Luật thương mại:

Ủy ban thường vụ Quốc hội tán thành đề nghị của Chính phủ về việc cần sớm ban hành Luật thương mại nhằm thể chế hóa đường lối, chính sách, cơ chế quản lý đối với các hoạt động thương mại của Đảng và Nhà nước ta, tạo môi trường pháp lý cần thiết bảo đảm quyền tự do hoạt động thương mại của tổ chức, cá nhân, bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng, đồng thời bảo đảm sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đề nghị các vị đại biểu Quốc hội tập trung cho ý kiến về: đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Luật, phạm vi áp dụng của Luật, quản lý nhà nước đối với các hoạt động thương mại, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật thương mại.

III- ĐIỀU CHỈNH, BỔ SUNG CHƯƠNG TRÌNH
 XÂY DỰNG PHÁP LUẬT

Từ sau kỳ họp thứ 8 đến nay, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã phối hợp với Chính phủ và các cơ quan hữu quan, tập trung chỉ đạo việc triển khai thực hiện chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc chuẩn bị các dự án Luật trình Quốc hội và thông qua được một số pháp lệnh tồn đọng trong chương trình nhiều năm nay. Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy: so với yêu cầu đối với công tác lập pháp và chương trình xây dựng pháp luật đã được Quốc hội quyết định thì số lượng luật,  pháp lệnh được trình xem xét, thông qua đạt tỷ lệ còn thấp. Tuy nhiên, quá trình triển khai thi hành Bộ luật dân sự, một số đạo luật mới ban hành; phát triển kinh tế - xã hội theo đường lối đổi mới, việc tổng kết nhiệm kỳ của Quốc hội khóa IX, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng cũng đặt ra hàng loạt vấn đề đòi hỏi phải sớm được điều chỉnh bằng pháp luật. Trong bối cảnh đó, trên cơ sở đề nghị của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân có quyền trình dự án luật và kiến nghị về luật, trong đó có các đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thảo luận, cân nhắc và quyết định trình Quốc hội xem xét, điều chỉnh chương trình xây dựng pháp luật theo hướng xác định những vấn đề mà Quốc hội khóa IX có khả năng xây dựng và cần thiết ban hành, dự kiến những vấn đề bức xúc cần sớm được xây dựng thành văn bản pháp luật để kiến nghị với Quốc hội khóa tới.

C- MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC

1. Về vấn đề chia tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:

Trước yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như từng địa phương, theo đề nghị của Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tại kỳ họp này Quốc hội sẽ xem xét việc chia lại địa giới hành chính các tỉnh, thành phố: Bắc Thái, Vĩnh Phú, Hải Hưng, Hà Bắc, Nam Hà, Quảng Nam - Đà Nẵng, Minh Hải, Long An, Sông Bé và đổi tên tỉnh Thừa Thiên - Huế. Về phương án cụ thể, Chính phủ sẽ có tờ trình để Quốc hội thảo luận, quyết định. Ủy ban thường vụ Quốc hội trân trọng đề nghị các vị đại biểu Quốc hội thảo luận, cân nhắc kỹ các phương án để góp phần bảo đảm yêu cầu đề ra.

2. Về việc quyết định một số nhân sự cao cấp của Nhà nước:

Tại kỳ họp này, theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Quốc hội sẽ xem xét một số vấn đề về nhân sự của Nhà nước. Đối với từng vấn đề cụ thể, theo thẩm quyền đã được Hiến pháp quy định, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Quốc hội sẽ có tờ trình để Quốc hội xem xét, quyết định.

PHẦN THỨ BA

VỀ CÁCH THỨC TIẾN HÀNH KỲ HỌP

Kỳ họp này có nhiều nội dung quan trọng đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, tìm cách cải tiến phương pháp làm việc, từ cách làm việc của Quốc hội, các Đoàn và các vị đại biểu Quốc hội đến cách điều hành của Đoàn Chủ tịch nhằm bảo đảm phát huy cao nhất sự đóng góp trí tuệ của Quốc hội và những quyết định tại kỳ họp.

1. Về bố trí chương trình:

Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội tập trung vào những nội dung trọng tâm của kỳ họp. Đó là những vấn đề Quốc hội sẽ xem xét để ra nghị quyết, là các dự án luật sẽ được thông qua. Việc bố trí chương trình cũng theo tinh thần này. Cụ thể là Quốc hội sẽ nghe báo cáo tại Hội trường, trao đổi ở Tổ, thảo luận tại Hội trường các báo cáo chính về nhiệm vụ và ngân sách nhà nước năm 1996, năm 1997, kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, về các dự án luật; nghe báo cáo tại Hội trường và trao đổi ở Tổ về điều chỉnh chương trình xây dựng pháp luật đến hết nhiệm kỳ khóa IX và Tờ trình Dự thảo Nghị quyết về giải quyết các quan hệ giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01-7-1991. Các báo cáo khác xin gửi đến đại biểu Quốc hội nghiên cứu để kết hợp thảo luận chung tại Hội trường về nhiệm vụ và ngân sách nhà nước. Đối với các báo cáo công tác của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, theo thông lệ được trình bày tại Hội trường, nhưng để tiết kiệm thời gian, lần này xin gửi đại biểu Quốc hội nghiên cứu và bố trí trao đổi ở Tổ. Các nội dung về nhân sự và điều chỉnh địa giới hành chính sẽ trình bày tại Hội trường, trao đổi ở Đoàn, tiến hành thủ tục bỏ phiếu (đối với vấn đề nhân sự) và thông qua các nghị quyết.

2. Về cách thức tiến hành kỳ họp:

a) Cũng như các kỳ họp gần đây, việc bố trí tiến hành trao đổi ở Tổ, ở Đoàn không đi sâu vào nội dung mà chỉ để thống nhất những vấn đề cần đưa ra thảo luận ở Hội trường. Tại kỳ họp này, dự kiến bố trí thảo luận ở Hội trường là chính. Tuy nhiên, do thời gian dành cho mỗi nội dung không nhiều, nên chỉ nêu ra những vấn đề trọng tâm, những vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau để các Đoàn, các Tổ thống nhất đi sâu thảo luận ở Hội trường. Đồng thời, cần cải tiến cách ghi biên bản trao đổi ở Tổ, ở Đoàn, để bảo đảm việc phản ánh đầy đủ, chính xác ý kiến của đại biểu và tạo thuận lợi cho việc tập hợp, tổng hợp và tiếp thu ý kiến để chỉnh lý văn bản.

b) Để tổ chức tốt việc thảo luận và thông qua các văn bản pháp luật, nghị quyết, trên cơ sở ý kiến đã thống nhất qua trao đổi ở Đoàn, ở Tổ, Quốc hội chỉ tập trung thảo luận những vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Trong điều hành thảo luận, cần kiên quyết bám sát trọng tâm, biểu quyết dứt điểm từng vấn đề đã được thống nhất. Khi tiến hành thông qua, trên cơ sở các vấn đề đã thống nhất cho biểu quyết nhanh gọn từng nội dung, tránh để phiên họp thông qua thành phiên họp thảo luận lại.

c) Ủy ban thường vụ Quốc hội tiếp tục duy trì hình thức xin ý kiến đại biểu Quốc hội bằng phiếu, coi đây là bước quan trọng để đi đến thống nhất các vấn đề Quốc hội sẽ quyết định. Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo việc chuẩn bị nội dung phiếu xin ý kiến và cách làm để đạt kết quả thiết thực; đồng thời, đề nghị các vị đại biểu Quốc hội nghiên cứu, cho ý kiến kịp thời đối với các nội dung được ghi trong phiếu xin ý kiến, chủ động phát hiện, đề xuất vấn đề để Ủy ban thường vụ Quốc hội có thời gian chỉ đạo việc tiếp thu, tránh tình trạng đến khi thông qua văn bản lại nêu ra ý kiến mới, làm cho việc điều hành trở nên khó khăn.

Thưa các đồng chí Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội,

Trên đây là một số ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội về nội dung và cách thức tiến hành kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa IX. Thay mặt Ủy ban thường vụ Quốc hội, tôi trân trọng đề nghị các đồng chí Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội phát huy tinh thần trách nhiệm của người đại biểu nhân dân, tập trung thảo luận, góp nhiều ý kiến thiết thực để góp phần bảo đảm thành công của kỳ họp quan trọng này.

 

 

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội