Phát huy những giá trị lịch sử, chính trị, pháp lý của Hiến pháp 1946 trong sự nghiệp đổi mới hiện nay


Báo cáo đề dẫn hội thảo

TS. Ngô Đức Mạnh*

Giám đốc Trung tâm Thông tin, Thư viện
 và Nghiên cứu khoa học

 

Kính thưa các quý vị đại biểu Quốc hội,

Thưa các vị khách quý,

Ngay sau khi giành được độc lập, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó có nhiệm vụ xây dựng tổ chức nhà nước, tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội để ấn định cho Việt Nam một Hiến pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”[1]. Và tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa I tổ chức ở Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội, Quốc hội đã bầu ra Ban dự thảo Hiến pháp đầu tiên, gồm 11 vị, như Trần Duy Hưng, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Đình Thi, Cù Huy Cận, Nguyễn Thị Thục Viên, Đào Hữu Dương... Bác Hồ kiêm Trưởng ban dự thảo Hiến pháp. Tám tháng sau, vào ngày mồng 9 - 11 - 1946, tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với sự nhất trí của 240/242 đại biểu dự họp.

Hơn 60 năm đã trôi qua, dù chưa được công bố nhưng bản Hiến pháp 1946 đã đặt nền tảng chính trị, pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam mới. Từ đó đến nay, tư tưởng của bản Hiến pháp 1946 đã được tiếp thu và kế thừa trong quá trình xây dựng các bản Hiến pháp tiếp theo của nước ta.

Có thể nói rằng, Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém bất kỳ bản hiến pháp nào trên thế giới. Đây là bản Hiến pháp mẫu mực trên nhiều phương diện. Hiến pháp 1946 thể hiện rõ tư tưởng pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi câu chữ trong đó đều “vang vọng tiếng dân”[2]. Về mặt kỹ thuật lập pháp, Hiến pháp 1946 là một bản hiến văn hết sức ngắn gọn, súc tích. Toàn bộ bản hiến văn chỉ gồm 70 điều. Trong đó có những điều chỉ vẻn vẹn có một dòng.

Tháng 11-2006 vừa qua là thời điểm mà Hiến pháp 1946 tròn 60 năm. Nhân kỷ niệm 60 năm ra đời bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc, và trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang nghiên cứu để đề ra các chủ trương, biện pháp tiếp tục đổi mới cơ cấu, tổ chức bộ máy nhà nước, tiến hành sửa đổi các luật tổ chức trong thời gian tới đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi của công cuộc đổi mới và hội nhập, Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu khoa học, Văn phòng Quốc hội tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Phát huy những giá trị chính trị, pháp lý của Hiến pháp 1946 trong sự nghiệp đổi mới hiện nay”.

Mục đích của cuộc Hội thảo là nhằm làm rõ giá trị lịch sử, pháp lý và chính trị của bản Hiến pháp 1946; sự kế thừa nội dung Hiến pháp năm 1946 trong các bản hiến pháp sau này, và đưa ra những kiến nghị, đề xuất trong việc phát huy những giá trị của Hiến pháp 1946 đối với một số vấn đề liên quan đến các kiến nghị gần đây về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và sửa đổi Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ trong thời gian sắp tới.

Thưa các quý vị đại biểu,

Thưa các vị khách quý,

Giá trị của Hiến pháp 1946 là một đề tài rộng mà chúng ta khó có thể trao đổi, thảo luận một cách thấu đáo trong khuôn khổ một hội thảo khoa học. Do đó, trong cuộc Hội thảo hôm nay, tôi xin trân trọng đề nghị các quý vị đại biểu tập trung thảo luận về một số vấn đề lớn sau đây:

Thứ nhất, tư tưởng của Hồ Chí Minh về nền lập hiến Việt Nam. Hiến pháp 1946 gắn với tư tưởng về nền lập hiến Việt Nam của Người đã được hình thành từ trước đó. Trong Việt Nam yêu cầu ca, Bác viết: “Bảy xin hiến pháp ban hành/Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”[3]. Và trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác khẳng định: “chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”. Tư tưởng này bắt nguồn từ một tâm hồn yêu nước nồng nàn kết hợp với những tri thức tiến bộ của các nền dân chủ mà Người đã có dịp đi qua trong chặng đường 30 năm hoạt động cách mạng của mình.

Thứ hai, Hiến pháp 1946 với tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân. Tư tưởng này được thể hiện không chỉ trong Lời nói đầu Hiến pháp 1946 về việc lập ra nền dân chủ cộng hoà[4] mà còn được thể hiện rõ trong nhiều điều của Hiến pháp 1946. Chẳng hạn, “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam”[5]; “Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu” [6]; “nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình bầu ra”[7]; “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia” [8]; “Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra”; “Nghị viện nhân dân họp công khai, công chúng được vào nghe”; “những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”. Tư tưởng dân chủ của Hiến pháp 1946 đã được các bản hiến pháp sau này của nước ta kế thừa sâu sắc, song, các nội dung cụ thể của tư tưởng dân chủ trong Hiến pháp này, như quyền phúc quyết của người dân đối với Hiến pháp và những vấn đề quan hệ đến vận mệnh quốc gia thì vẫn luôn có tính thời sự trong thời điểm hiện nay.

Thứ ba, về tư tưởng pháp quyền. Có nhiều chuyên gia đã cho rằng, Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp thể hiện tư tưởng pháp quyền một cách rõ nét nhất trong các bản hiến pháp của nước ta từ trước tới nay. Mặc dù trong bản Hiến pháp hiện hành, việc xây dựng nhà nước pháp quyền đã được ghi nhận một cách chính thức, song không phải vì thế mà nó đã thể hiện rõ tinh thần pháp quyền. Pháp quyền là những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ. Hiến pháp 1946 thể hiện tư tưởng pháp quyền một cách sâu sắc khi quy định về quốc hội lập hiến và quyền phúc quyết của người dân; quy định và bảo đảm các quyền của công dân; thiết kế bộ máy nhà nước có sự phân chia giữa các nhánh quyền lực và kiểm soát chặt chẽ lẫn nhau, trong đó nhấn mạnh đến tính độc lập của hệ thống toà án… Rõ ràng tư tưởng pháp quyền trong Hiến pháp 1946 là rất tiến bộ và cần được tiếp tục phát huy trong thời điểm hiện tại.

Thứ tư, về mô hình tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp 1946. Có thể nói, Hiến pháp này đã tiếp thu có chọn lọc các hiến pháp dân chủ và tiến bộ của các nước, đồng thời đã Việt hóa một cách tối đa cho phù hợp với điều kiện của nước ta. Điểm nổi bật của mô hình tổ chức quyền lực theo Hiến pháp 1946 là việc áp dụng nguyên tắc phân chia giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp; đề cao vai trò của nghị viện và chức năng giám sát Chính phủ; đề cao tính độc lập của hệ thống tòa án; thiết kế chính phủ “lưỡng đầu” với vai trò đứng đầu hành pháp của Chủ tịch nước và vẫn duy trì chức danh Thủ tướng Chính phủ; phân quyền rõ nét và hợp lý cho chính quyền địa phương…

Một là về Nghị viện, cho đến nay chỉ có duy nhất Hiến pháp 1946 đã thực sự do một Quốc hội lập hiến thông qua. Theo quy định của Hiến pháp 1946, nước ta không có Quốc hội mà chỉ có Nghị viện nhân dân với nhiệm kỳ ba năm. Sau khi thông qua Hiến pháp, Quốc hội sẽ tự giải tán để tổ chức bầu Nghị viện nhân dân. Nghị viện nhân dân không thể tự mình sửa đổi Hiến pháp. Ngoài thẩm quyền ưng chuẩn và phế bỏ các sắc luật do Chính phủ đệ trình, Nghị viện nhân dân trong Hiến pháp 1946 có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Nội các. Và nội hàm của quyền giám sát của Nghị viện cũng được hiểu rất phù hợp với thông lệ ở các nước là “giám sát Chính phủ”.

Hai là, Hiến pháp1946 không có quy định định nghĩa về chế định Chủ tịch nước. Song từ các quy định về cách thức thành lập và thẩm quyền thì Chủ tịch nước là người vừa đứng đầu Nhà nước vừa đứng đầu Chính phủ. Sự độc đáo chính là ở chỗ trong cơ chế nhà nước xã hội chủ nghĩa, chức năng nguyên thủ không do cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân - Xô viết tối cao thực hiện theo nguyên tắc nguyên thủ tập thể mà do một cá nhân nắm giữ theo mô hình của các nước áp dụng nguyên tắc tam quyền phân lập.

Ba là, tính độc lập xét xử của tòa án. Điều 63, Hiến pháp 1946 quy định cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm có: Tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Quy định này đã phá vỡ được sự phụ thuộc của tòa án vào chính quyền địa phương trên cơ sở nguyên tắc phân cấp quản lý nhà nước theo lãnh thổ. Điều 69 quy định: “trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”. Như vậy, tính độc lập xét xử của Tòa án trong Hiến pháp 1946 đạt được nhờ hai yếu tố: (i) các tòa được thiết kế không theo cấp hành chính và (ii) sự độc lập của thẩm phán khi xét xử.

Những đặc điểm về tổ chức bộ máy trên đây cũng chính là những điểm mà trong dịp kỷ niệm 60 năm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhiều nhà khoa học lịch sử - pháp lý - chính trị đã đánh giá cao tính ưu việt của bản Hiến pháp 1946 trong vấn đề thiết kế mô hình tổ chức quyền lực nhà nước và là những vấn đề mà chúng ta cần phải nghiên cứu một cách sâu sắc để có thể kế thừa và phát huy hơn nữa.

Thứ năm, Hiến pháp 1946 với những quy định về quyền con người và bảo đảm quyền công dân. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, các quyền tự do dân chủ của con người được đạo luật cơ bản ghi nhận và bảo đảm, cũng lần đầu tiên người dân lao động Việt Nam được xác nhận có tư cách công dân của một nước độc lập, có chủ quyền. Nội dung của quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của công dân nhằm mục tiêu bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Ba nguyên tắc xây dựng Hiến pháp 1946 là đoàn kết toàn dân, đảm bảo các quyền tự do, dân chủ và thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Trong số bảy chương của bản Hiến pháp thì chương về “Nghĩa vụ và quyền lợi công dân” được xếp thứ hai, gồm 18 điều, trong đó có 16 điều trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam.

Điều đáng nói ở đây là các quyền của người dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm. Hiến pháp 1946 do Quốc hội lập hiến ban hành và chính vì vậy có giá trị bảo đảm rất cao. Nếu nhà nước ghi nhận và bảo đảm thì quyền chủ động là thuộc nhà nước. Còn Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thì nhà nước không có quyền chủ động ở đây vì Hiến pháp được ban hành bởi Quốc hội lập hiến và người dân có quyền phúc quyết Hiến pháp (Điều 21, 70 Hiến pháp 1946).

Thứ sáu, về cơ chế bảo hiến ở nước ta. Cho đến nay, khái niệm bảo hiến thường được hiểu là sự kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp như là nền tảng của hệ thống pháp luật quốc gia, bảo đảm các quyền hiến định, mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước. Khái niệm cơ chế bảo hiến vì vậy cũng có nội hàm rộng hơn, bao gồm toàn bộ các thiết chế, nguyên tắc và biện pháp tổ chức và thực hiện các hoạt động giải thích Hiến pháp; kiểm tra và giám sát hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân; phát hiện và giải quyết các vấn đề phát sinh về thẩm quyền giữa cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền...

Bảo hiến và cơ chế bảo hiến là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay. Do đó, những tư tưởng bảo hiến của bản Hiến pháp đầu tiên như Hiến  pháp do Quốc hội lập hiến ban hành, Nghị viện không có thẩm quyền sửa đổi hiến pháp… và những vấn đề của bảo hiến trong giai đoạn hiện nay cũng là vấn đề mà Hội thảo cần tập trung thảo luận.

Thứ bảy, là vấn đề sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp được Hiến pháp 1946 quy định theo nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân. Theo đó, Điều 70 quy định bên cạnh các thủ tục như phải được 2/3 số nghị viên đề nghị… thì “Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Quy định này của Hiến pháp 1946 do những hoàn cảnh nhất định chưa được kế thừa trong các bản hiến pháp sau này. Thời gian qua, chúng ta đã tiến hành việc công bố Dự thảo Hiến pháp để nhân dân tham gia thảo luận, góp ý kiến. Tuy nhiên, việc lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo Hiến pháp nói riêng và dự thảo văn bản pháp luật nói chung trong thời gian qua vẫn còn chưa thật sự hiệu quả. Và vì vậy, việc nghiên cứu về “quyền phúc quyết” Hiến pháp của người dân trong Hiến pháp 1946 là điều rất có ý nghĩa.

*

*         *

Trên đây là những vấn đề có tính đề dẫn cho cuộc Hội thảo “Phát huy những giá trị lịch sử, chính trị, pháp lý của Hiến pháp 1946 trong sự nghiệp đổi mới hiện nay”. Chúng tôi hy vọng rằng những vấn đề này sẽ được các đại biểu Quốc hội, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn tham gia Hội thảo thảo luận và trao đổi thẳng thắn, nhiệt tình để có thể thu nhận được những thông tin, những kiến nghị bổ ích.

Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của quý vị đại biểu, các vị khách quý và chúc Hội thảo của chúng ta thành công!


 

*. Hiện nay là Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội nhiệm kỳ XII.

[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.4, tr.8.

[2]. PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa, Trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ.

[3]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.1, tr.438.

[4]. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1982 và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.7. (Người trích nhấn mạnh).

[5]. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1982 và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992), Sđd, tr.8.

[6]. Dẫn trên, tr.11.

[7]. Dẫn trên, tr.11.

[8]. Dẫn trên, tr.11.