Nhà nước của dân, do dân, vì dân từ hiến pháp 1946
đến thực tiễn nhà nước ta hiện nay
GS.TS. Phạm Ngọc Quang
Hội đồng Lý luận Trung ương
Trong Lời nói đầu Hiến pháp 1946 đã khẳng định: “Cuộc Cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hoà”. Đó là lời khẳng định đanh thép về bản chất chế độ chúng ta - một chế độ do nhân dân làm chủ.
Dân chủ, như chúng ta biết, trước hết là hình thức tổ chức quyền lực nhà nước dựa trên nguyên tắc: “Toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân”. Nguyên tắc đó phải được xác định dứt khoát trong Hiến pháp. Bởi vậy, trong khi xác định nhiệm vụ trung tâm sau khi giành được chính quyền là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và “kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”, Hiến pháp 1946 đã xem việc “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” là một trong ba nguyên tắc cơ bản cần nắm vững khi xây dựng Hiến pháp cách mạng của chúng ta.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc đó, tinh thần “Nhà nước của dân, do dân, vì dân” được thể hiện đậm nét trong Hiến pháp 1946. Chẳng hạn, “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam”; “Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu”; “nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình bầu ra”; “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”; “Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra”; “Nghị viện nhân dân họp công khai, công chúng được vào nghe”; “những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”; …
Từ những điều được ghi nhận trong Hiến pháp này có thể thấy, tinh thần nhà nước của dân, do dân, vì dân bao gồm một số nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, nhà nước đó do nhân dân lập ra thông qua tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu và kín;
Hai là, nhà nước đó hoạt động theo nguyên tắc vì lợi ích của nhân dân, “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”;
Ba là, mọi hoạt động của Nhà nước phải đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân;
Bốn là, nhân dân có quyền tỏ tín nhiệm hay bất tín nhiệm đối với Chính phủ; “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”;
Năm là, tự nó, mọi cơ quan nhà nước không có quyền; mọi quyền lực mà Nhà nước có được đều do nhân dân uỷ quyền cho nó.
Trong 60 năm qua, kể từ khi có Hiến pháp 1946, những nguyên tắc cơ bản đó luôn đóng vai trò chỉ đạo chúng ta trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước. Dù trong điều kiện hoà bình hay chiến tranh, các cuộc tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu và kín để lập ra Quốc hội, Quốc hội bầu ra các chức danh chủ chốt nhất của Nhà nước vẫn được tiến hành nghiêm túc và đúng thời hạn (trừ một số năm kháng chiến chống thực dân Pháp). Với mức độ nhất định, những ngày bầu cử đó đã thực sự là ngày hội của nhân dân. Trong khi hoạch định chủ trương, chính sách cơ bản của mình, Nhà nước đã đi từ nhân dân để rồi trở về với nhân dân; Nhà nước đã dựa vào nhân dân để xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách của mình. Vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước từng bước được cơ chế hóa, thể chế hoá với những hình thức ngày càng phong phú, đa dạng. Việc lấy ý kiến tín nhiệm của nhân dân đối với một số chức danh chủ chốt trong bộ máy nhà nước bước đầu được triển khai với những kết quả nhất định…Tuân thủ nguyên tắc trong chế độ ta, nhân dân là chủ thể duy nhất của mọi quyền lực, chúng ta không tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân quyền, mà theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất trong tay nhân dân, nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ các cơ quan nhà nước khác nhau để thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Chúng ta cũng đã có những bước tiến quan trọng trong việc thực hiện đổi mới nền hành chính quốc gia trên cả bốn phương diện: thể chế hành chính, bộ máy hành chính, đội ngũ cán bộ – công chức hành chính và tài chính công; làm cho Nhà nước ta ngày một gần dân, thân dân hơn. Việc công khai hoá, minh bạch hoá, hiện đại hoá tổ chức và hoạt động của Nhà nước, từng bước hình thành Chính phủ điện tử… đã tạo ra những điều kiện thuận lợi rất cơ bản để phục vụ nhân dân, để nhân dân có thể kiểm tra, giám sát tốt hơn đối với mọi cơ quan công quyền cũng như để Nhà nước nắm bắt kịp thời ý nguyện của nhân dân.
Đánh giá tổng quát thành quả đổi mới Nhà nước, Đại hội X của Đảng khẳng định: “Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy”.
Bước tiến trong đổi mới Nhà nước đã mang lại sự khởi sắc đáng kể của nền dân chủ. Dân chủ đại diện từng bước được hoàn thiện, dân chủ trực tiếp được phát huy, dân chủ tham dự ngày một mở rộng và sâu sắc hơn. Vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân thông qua việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở có bước tiến rõ rệt. Nhiều vụ tham nhũng đã được chính nhân dân phát hiện và có sự cộng tác tích cực của nhân dân với các cơ quan công quyền để tiến hành xử lý nghiêm minh. Nếu xem thước đo đánh giá trình độ dân chủ là ở mức độ tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội, thì chúng ta thấy rõ dân chủ ở nước ta trong quá trình đổi mới đã có bước tiến khá cơ bản. Nhiều quyền dân chủ của nhân dân đã được thể chế hoá và được Nhà nước quan tâm triển khai trong thực tiễn chỉ đạo, quản lý của mình…
Những bước tiến đó làm cho bản chất Nhà nước của dân, do dân, vì dân ngày càng được bộc lộ rõ.
Tuy nhiên, bên cạnh những bước tiến cơ bản đó, việc xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân ở nước ta cũng còn không ít vấn đề phải giải quyết. Liên quan tới vấn đề Nhà nước, điều làm nhức nhối xã hội nhiều nhất là tình trạng tham nhũng trong bộ máy nhà nước không những chưa bị đẩy lùi mà còn có xu hướng diễn biến ngày một tinh vi, phức tạp với quy mô lớn hơn, thâm nhập sâu vào hầu hết mọi cơ quan nhà nước - kể cả cơ quan cầm cân nảy mực, và ở hầu hết mọi cấp trong bộ máy nhà nước. Bệnh quan liêu ở một số cơ quan nhà nước còn rất trầm trọng. Ở một số nơi, “hành chính” biến thành “hành là chính” đang làm cho nhân dân rất bất bình. Trong một số trường hợp, cải cách hành chính từ nhiều cửa thành một cửa, sau một cửa là nhiều ngách để nhũng nhiễu nhân dân còn gây nhức nhối trong xã hội. Trong những trường hợp và những nơi có tình hình như vậy, nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây ra tình trạng quan liêu, tham nhũng đó, theo chúng tôi, là do sự tha hoá của quyền lực nhà nước: Nhân dân uỷ quyền cho Nhà nước rồi mình mất quyền, những người và cơ quan nắm được sự ủy quyền đã biến quyền lực của nhân dân thành quyền lực của riêng mình, dùng quyền lực đó để mưu cầu lợi ích riêng trái với lợi ích của nhân dân. Tiếp cận với vấn đề từ giác độ đó, theo chúng tôi, một vấn đề bức xúc về lý luận và thực tiễn cần được quan tâm nghiên cứu và giải quyết là phải có cơ chế, biện pháp hữu hiệu để không diễn ra tình trạng nhân dân uỷ quyền rồi mình mất quyền. Phải chăng cần làm rõ vấn đề gì nhân dân không tự mình làm được mới uỷ quyền cho Nhà nước, những việc gì nhân dân tự làm được hãy để cho nhân dân thực hiện. Phải pháp chế hoá sự ủy quyền đó với nội dung rõ ràng, rành mạch về quyền hạn và trách nhiệm. Xét từ giác độ này, tiêu chí đánh giá bước tiến của Nhà nước của dân, do dân, vì dân là “nhà nước nhỏ, xã hội dân sự to”. Bởi vì, trình độ trưởng thành của nhân dân trong việc tự giải quyết các vấn đề của chính mình là thước đo của trình độ dân chủ trong xã hội. Mối tương quan tỷ lệ nghịch giữa xu hướng “nhà nước nhỏ” và “xã hội dân sự to” cũng là quy luật vận động của nền dân chủ. Khi mà tự mình, nhân dân có thể đảm đương được mọi công việc, nhà nước sẽ trở thành thừa, nó sẽ tiêu vong. Đó là một trong những điểm cốt lõi trong học thuyết mácxít về nhà nước. Sự vận động của nhà nước trong xã hội hiện đại mang lại nhiều bằng chứng khẳng định tính đúng đắn của tư tưởng đó.
Để nâng cao bản chất của dân, do dân, vì dân của Nhà nước ta, cũng phải hoàn thiện cơ chế bầu cử, ứng cử trong quá trình hình thành những cơ quan, những cương vị chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Chúng ta đang tiến tới bầu Quốc hội khoá XII. Làm sao cho cuộc bầu cử đó dân chủ hơn, thực chất hơn, ít tốn kém hơn, hiệu quả hơn - đó là điều trăn trở của nhiều người dân. Điều thứ 25, Hiến pháp 1946 đã khẳng định đúng đắn rằng: “Nghị viện không phải chỉ thay mặt cho địa phương mình, mà còn thay mặt cho toàn thể nhân dân”. Tinh thần đó được khẳng định trong tất cả các bản hiến pháp sau này của chúng ta. Song, từ đó có vấn đề đặt ra là: làm sao để cử tri có đủ điều kiện hiểu sâu sắc các đại biểu mà mình sẽ bầu, làm cách nào để nhân dân giám sát được chặt chẽ mọi hoạt động của đại biểu sau khi đắc cử, làm sao phát hiện được kịp thời những vấn đề mà đại biểu đó phạm phải trong cả sinh hoạt đời tư lẫn trong việc thực hiện phận sự đại biểu của mình… khi có những đại biểu thường xuyên làm việc, sinh sống xa những cử tri trực tiếp bầu ra họ hàng ngàn cây số? khi mỗi năm chỉ một hai lần sau các kỳ họp Quốc hội, đại diện cử tri ở địa bàn bầu cử được tiếp xúc với đại biểu trong vòng vài giờ? Hệ quả là cả đại biểu được bầu lẫn người bầu ra đại biểu đó đều không hiểu nhau, không sát nhau; đại biểu không nắm bắt được kịp thời tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của cử tri đã trực tiếp bầu ra mình… Ở nhiều nước, ứng viên đại biểu Thượng viện và Hạ viện ra ứng cử tại khu vực mình cư trú; khi đắc cử, ngoài văn phòng làm việc tại Nghị viện, họ có văn phòng làm việc tại địa bàn cư trú (cũng là địa bàn ứng cử và bầu cử). Hàng tháng hoặc hàng quý họ phải công khai bằng văn bản mọi hoạt động của mình lưu tại văn phòng đó để mọi cử tri có thể xem xét… Hàng tuần họ có một số buổi làm việc tại văn phòng nói trên để giải quyết những nhu cầu của cử tri thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của mình. Đó cũng là một cách làm việc hay, có hiệu quả, rất đáng nghiên cứu.
Cần công khai hoá hơn nữa mọi hoạt động của Quốc hội. Trong những năm gần đây, chúng ta đã truyền hình trực tiếp không chỉ những buổi khai mạc, bế mạc các kỳ họp Quốc hội, mà còn cả những buổi chất vấn và trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội. Đó là một bước tiến rất đáng ghi nhận trong quá trình dân chủ hoá, công khai hoá hoạt động của Quốc hội. Nhưng có lẽ đã đến lúc việc xây dựng một kênh truyền hình riêng dành cho hoạt động của Quốc hội đã chín muồi; kênh này phát toàn bộ hoạt động của Quốc hội, kể cả khi thảo luận vấn đề ngân sách, các dự án luật… Bởi lẽ, qua việc theo dõi đó, một là, giúp cử tri nắm được trình độ các đại biểu Quốc hội, đó cũng là áp lực buộc đại biểu Quốc hội phải nâng cao tầm tư tưởng, tầm trí tuệ của mình. Không có lý gì một đại biểu Quốc hội cả nhiệm kỳ không một lần phát biểu. Hai là, nhân dân có thể tham gia đề xuất ý kiến góp phần hoàn thiện các chủ trương, văn bản pháp luật. Qua đó, trình độ dân chủ của nhân dân cũng được phát triển lên.
Việc nêu cao vai trò kiểm tra, giám sát, phản biện của Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và của mọi công dân cũng là một vấn đề hết sức cần thiết để Nhà nước ta thực sự là của dân, do dân, vì dân. Trong vấn đề này, chúng ta không chỉ cần quy chế hoá, luật pháp hoá các quyền đó, mà quan trọng hơn là phải nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát, phản biện của các tổ chức, các cá nhân nêu trên; phải bảo đảm các điều kiện về thông tin, về phương tiện để việc giám sát, kiểm tra, phản biện đó có hiệu quả…
Thực hiện cho được tư tưởng Nhà nước của dân, do dân, vì dân mà Hiến pháp 1946 nêu ra là một đòi hỏi bức xúc, nhưng đó cũng là một quá trình rất không đơn giản, nó đụng chạm tới nhận thức và lợi ích của con người. Song, sức mạnh của Nhà nước ta lại phụ thuộc một cách quyết định vào việc thực hiện cho được bản chất đó của mình. Nhân dân ta, đất nước ta đòi hỏi phải thực hiện cho bằng được bản chất đó. Đây cũng là một nội dung quan trọng trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới đất nước ở giai đoạn hiện nay.
[1]. Văn phòng Quốc hội: Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.7.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.60.
[9]. Văn phòng Quốc hội. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.12.