BÀN VỀ LẬP HIẾN

Nguyễn Văn Yểu**

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng;

Phó Chủ tịch Quốc hội;

Trưởng Ban Công tác lập pháp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

 

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã làm cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công; từ đó, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, một Nhà nước kiểu mới, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời. Một trong những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền nhân dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra là: "Phải bầu ngay Quốc hội, càng sớm càng tốt. Bên trong thì nhân dân tin tưởng thêm vào chế độ của mình. Trước thế giới, Quốc hội do dân bầu ra sẽ có một giá trị pháp lý không ai có thể phủ nhận được"[1].

Trước yêu cầu của thực tiễn khách quan đó, cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước bầu ra Quốc hội khoá đầu tiên của nước ta đã diễn ra vào ngày 6/1/1946 và thu được kết quả hết sức tốt đẹp. Sự kiện này đã trở thành một mốc son chói lọi trong lịch sử của dân tộc ta. Qua 60 năm xây dựng và trưởng thành Quốc hội Việt Nam đã phát triển qua 11 khoá, đã góp phần to lớn vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Khoá I (1946 - 1960), khoá II (1960 - 1964), khoá III (1964 - 1971), khoá IV (1971 - 1975), khoá V (1975 - 1976), khoá VI (1976 - 1981), khoá VII (1981 - 1986); khoá VIII (1986 - 1992); khoá IX (1992 - 1997); khoá X (1992 - 2002) và khoá XI[2].

Quốc hội cũng đã ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất với các chức năng lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao.

Trải qua 60 năm lịch sử phát triển, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội đã ban hành bốn bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ, đó là Hiến pháp 1946 của chặng đường vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Hiến pháp 1959 với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, Hiến pháp 1980 của thời kỳ đất nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số  51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10) - đây là Hiến pháp của thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Qua lịch sử lập hiến đó, chúng ta có thể nêu lên một số vấn đề về quy trình, thủ tục lập hiến, một số đặc trưng cơ bản của nền lập hiến Việt Nam phục vụ việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

1. Về quy trình và thủ tục lập hiến

Hiến pháp có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật và trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia. Hiến pháp được coi là đạo luật cơ bản, đạo luật "gốc" của Nhà nước vì nó xác lập những vấn đề cơ bản, hệ trọng nhất của mỗi quốc gia, đó là: chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an nình, đối ngoại; tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Các chế định của Hiến pháp là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Do vậy, hoạt động lập hiến - một trong những hoạt động chính trị pháp lý trọng đại nhất của một quốc gia - phải tuân theo một trình tự, thủ tục rất chặt chẽ. Theo đó, việc soạn thảo, thông qua, công bố Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và trình tự, thủ tục giải thích Hiến pháp do Quốc hội quy định[3]. Tuy nhiên, cho đến nay, Quốc hội chưa ban hành một luật hoặc nghị quyết quy định cụ thể về trình tự, thủ tục soạn thảo, thông qua, công bố Hiến pháp cũng như sửa đổi, bổ sung Hiến pháp nên việc thực hiện trong các lần sửa đổi Hiến pháp đều dựa vào các quy định mang tính nguyên tắc của Hiến pháp, có kế thừa và phát triển đổi mới phù hợp với điều kiện cụ thể nhằm đề cao dân chủ, đồng thời bảo đảm chặt chẽ về nguyên tắc pháp lý. Qua thực tiễn tiến hành hoạt động lập hiến trong 60 năm qua có thể thấy rằng quy trình lập hiến gồm các thủ tục sau đây: 

1.1. Chuẩn bị đề nghị và quyết định việc ban hành Hiến pháp hoặc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp

Qua thực tiễn ban hành Hiến pháp hoặc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp cho thấy việc đề nghị ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau, có trường hợp do Chính phủ đề nghị (năm 1945 đề nghị soạn thảo, ban hành Hiến pháp 1946[4]); có trường hợp do Cơ quan thường trực của Quốc hội đề nghị (năm 1957 Ban thường trực Quốc hội đề nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1946 để ban hành Hiến pháp 1959[5] và năm 2001 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992[6]); có trường hợp do Chủ tịch Quốc hội đề nghị (năm 1989 đề nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để ban hành Hiến pháp 1992[7])v.v..

Sau khi xem xét đề nghị về việc chuẩn bị ban hành hoặc sửa đổi Hiến pháp, nếu Quốc hội tán thành thì Quốc hội thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp với thành phần là những người đại diện các cơ quan nhà nước như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, các cơ quan tư pháp, các cơ quan của Đảng, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội khác, một số chuyên gia pháp lý có trình độ cao, có kinh nghiệm trong hoạt động xây dựng pháp luật,… Chủ tịch Uỷ ban dự thảo Hiến pháp có thể là Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch Quốc hội. Có thể nói, với thành phần như vậy, Uỷ ban dự thảo Hiến pháp thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc. Uỷ ban này có nhiệm vụ soạn thảo dự thảo Hiến pháp hoặc dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp và Tờ trình; nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đóng góp của các vị đại biểu Quốc hội, của các ngành, các cấp, của nhân dân để chỉnh lý dự thảo văn bản trình Quốc hội xem xét, thông qua.

1.2. Chuẩn bị dự án (tờ trình và dự thảo văn bản)

Đây là giai đoạn hết sức quan trọng của quy trình lập hiến. Khác với quy trình xây dựng luật, pháp lệnh, quy trình lập hiến không có công đoạn thẩm tra, vì vậy, chất lượng của dự án Hiến pháp tập trung chủ yếu vào giai đoạn này. Việc soạn thảo dự thảo Hiến pháp được tiến hành theo trình tự: tổng kết thực tiễn việc thi hành Hiến pháp; nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội thuộc phạm vi nội dung cần đề nghị sửa đổi, bổ sung; lập đề cương soạn thảo văn bản, biên soạn dự thảo văn bản; chuẩn bị Tờ trình và tài liệu liên quan đến dự án sửa đổi Hiến pháp. 

1.3. Lấy ý kiến đóng góp vào dự thảo Hiến pháp hoặc dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp:

Đây là công đoạn không thể thiếu trong hoạt động lập hiến. Hoạt động này có thể diễn ra tại tất cả các công đoạn của quy trình lập hiến với nhiều hình thức khác nhau, cả trực tiếp và gián tiếp nhưng tập trung nhất là sau khi dự thảo được công bố để nhân dân, các ngành, các cấp đóng góp ý kiến. Việc lấy ý kiến của nhân dân, các ngành, các cấp thường được tiến hành sau khi Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến bước đầu vào dự thảo Hiến pháp hoặc dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp. Đây chính là cơ chế phát huy quyền làm chủ, trí tuệ của nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào quá trình quản lý nhà nước; biến đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, ý chí, nguyện vọng của nhân dân thành các quy định của Hiến pháp. Ý kiến đóng góp của nhân dân phải được Uỷ ban dự thảo Hiến pháp tổng hợp đầy đủ, trung thực, nghiên cứu tiếp thu nghiêm túc để hoàn thiện dự thảo văn bản, bảo đảm chất lượng cả về nội dung và hình thức, thực sự là sản phẩm kết tinh trí tuệ của toàn dân, trình Quốc hội xem xét.

1.4. Xem xét, thông qua dự thảo Hiến pháp hoặc dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp

Khi tiến hành xem xét, thông qua dự thảo Hiến pháp hoặc dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp, Quốc hội thường vận dụng các quy định của việc xem xét, thông qua luật. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có vị trí đặc biệt quan trọng nên Quốc hội thường xem xét, thông qua tại hai kỳ họp. Theo đó, tại kỳ họp thứ nhất, Uỷ ban dự thảo Hiến pháp trình Quốc hội về dự án và Quốc hội thảo luận, cho ý kiến về những nội dung cơ bản và những vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau của dự thảo. Trong thời gian giữa hai kỳ họp, dự thảo Hiến pháp  hoặc dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp được công bố để lấy ý kiến nhân dân; Uỷ ban dự thảo Hiến pháp tổ chức việc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, của nhân dân, các ngành, các cấp để chỉnh lý dự thảo văn bản. Tại kỳ họp thứ hai, Uỷ ban dự thảo Hiến pháp trình Quốc hội Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý; Quốc hội nghe đọc bản dự thảo đã được tiếp thu, chỉnh lý và thảo luận về một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau; bản dự thảo văn bản được chỉnh lý lần cuối trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội sau đó được trình Quốc hội xem xét, biểu quyết thông qua. Hiến pháp mới hoặc Nghị quyết sửa đổi bổ, bổ sung một số điều của Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

1.5. Công bố Hiến pháp hoặc Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp

Đây là giai đoạn cuối cùng của quy trình lập hiến nhằm đưa nội dung Hiến pháp đến toàn xã hội. Việc công bố Hiến pháp mới hoặc Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp do Chủ tịch nước (hoặc Chủ tịch Hội đồng Nhà nước) thực hiện. Riêng Hiến pháp 1946 được Quốc hội thông qua trong điều kiện đất nước có chiến tranh, do vậy, ngày 9/11/1946 sau khi thông qua Hiến pháp, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết uỷ nhiệm Chính phủ và Ban thường trực Quốc hội thi hành Hiến pháp.

2. Một số đặc trưng cơ bản của nền lập hiến Việt Nam

Các bản hiến pháp của nước ta được ra đời ở những hoàn cảnh lịch sử khác nhau; có nhiệm vụ phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc; nội dụng của Hiến pháp phải phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn cách mạng, đồng thời cũng đã thể hiện rõ tính kế thừa trong sự phát triển và yêu cầu phát triển trong sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn minh nhân loại phù hợp với thực tiễn và truyền thống dân tộc Việt Nam. Từ đó, các nội dung đặc trưng của nền lập hiến Việt Nam ngày càng được định hình, có thể nêu lên một số đặc trưng cơ bản sau đây:

2.1. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc phù hợp với tình hình, nhiệm vụ đấu tranh cách mạng của từng giai đoạn

Đề cập tới vấn đề cơ bản của Hiến pháp, trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi (1959), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tính chất Nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp”[8]. Tư tưởng chỉ đạo trên đây quán xuyến các hiến pháp Việt Nam nên dù ra đời ở những thời điểm, hoàn cảnh lịch sử khác nhau nhưng các bản hiến pháp đều giữ vững được tính nhất quán của định hướng chính trị, đồng thời bảo đảm sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc trong từng bản hiến pháp.

Trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam khi nhiệm vụ giải phóng giai cấp và dân tộc gắn bó mật thiết với nhau, nhất là trong năm đầu của chính quyền cách mạng, nhiệm vụ “bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”[9] nổi lên hàng đầu, khi “đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo” trở thành nguyên tắc lập hiến thì tính chất nhà nước đã được thể hiện đậm nét trong Hiến pháp 1946: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều 1 Hiến pháp 1946). Lời nói đầu của Hiến pháp này cũng khẳng định Chính thể Việt Nam dân chủ cộng hoà là “một chính thể nhân dân rộng rãi”. Như vậy, không những khái niệm giai cấp và dân tộc mà cả nhân dân đều hoà quyện vào nhau trong Hiến pháp 1946.

Ở các bản Hiến pháp tiếp theo (Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980), cách thể hiện tuy có những điểm khác với Hiến pháp 1946 nhưng vẫn có sự kết hợp nhuần nhuyễn tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và đều nhất quán ở sự khẳng định chính quyền nhà nước ta là chính quyền của nhân dân. Trên cơ sở tổng kết quá trình xây dựng, kiện toàn nhà nước ta trong mấy chục năm qua, quán triệt sâu sắc, toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng ta về tính chất nhà nước, Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khoá X) đã xác định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân...” (Điều 2 Hiến pháp 1992).

2.2. Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân

Đây là nguyên tắc cơ bản, trước hết luôn được khẳng định trong chỉ đạo việc xây dựng nhà nước. Hiến pháp 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã xác định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam” (Điều 1). Nguyên tắc đó được tiếp tục khẳng định trong các Hiến pháp tiếp theo và đến Hiến pháp 1992 được thể hiện toàn diện hơn, sâu sắc hơn: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2). Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không chỉ là nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong các Hiến pháp nước ta mà còn gắn với việc thiết lập cơ chế bảo đảm thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, là tư tưởng chỉ đạo bao quát toàn bộ nội dung của các Hiến pháp, được thể hiện cụ thể trong các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương; của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

2.3. Bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân

Nhà nước ta luôn xác định mục tiêu cao nhất của mình là vì con người, coi con người là trung tâm, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước bảo đảm cho công dân sự an toàn pháp lý, được hưởng các quyền và có các nghĩa vụ cơ bản; có biện pháp cần thiết để bảo vệ cho họ khi các quyền cơ bản đó bị xâm phạm. Đây là một đặc trưng mà kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cho đến nay Nhà nước ta luôn luôn đặc biệt quan tâm. Trong các bản Hiến pháp, nội dung về quyền tự do, dân chủ của công dân đã được quy định đầy đủ theo hướng kế thừa và ngày càng mở rộng thành một chế định cơ bản, bao quát tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước trong mỗi thời kỳ lịch sử, việc giữ gìn và phát huy truyền thống dân tộc. Điều dễ nhận thấy là các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp được tăng lên rõ rệt.

Nếu như Hiến pháp 1946 ghi nhận chung các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tại 18 điều (từ Điều 4 đến Điều 21), thì ở các Hiến pháp sau các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định đầy đủ, chi tiết hơn thành 21 điều (từ Điều 22 đến Điều 42 Hiến pháp 1959), 29 điều (từ Điều 53 đến Điều 81 Hiến pháp 1980) và 34 điều (từ Điều 49 đến Điều 82 Hiến pháp 1992). Hiến pháp 1992 đã ghi nhận đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật v.v..; xác định quyền công dân đi đôi với nghĩa vụ của công dân và lần đầu tiên khái niệm quyền con người được trang trọng ghi nhận như một tuyên ngôn "Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng" (Điều 50).

Lúc sinh thời, Bác Hồ đã viết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành[10]. Như vậy, nguyện vọng thiết tha và mục tiêu cao cả của Đảng ta và Hồ Chủ tịch về giá trị con người đã được chú trọng đề cao trong thực tế, được quy định trong Hiến pháp, pháp luật và Nhà nước luôn quan tâm phấn đấu thực hiện.

2.4. Xác định quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công rành mạch và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp

Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước.

“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Đây là hai mặt của vấn đề tổ chức, xây dựng nhà nước. Quán triệt quan điểm quyền lực nhà nước thống nhất sẽ tác động trực tiếp đến việc tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp của các cơ cấu thực hiện quyền lực của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho bộ máy nhà nước vận hành đồng bộ, thống nhất và có hiệu lực, hiệu quả. Mặt khác, tăng cường việc phân công, phân nhiệm rành mạch, hợp lý, rõ ràng và chú trọng phối hợp chặt chẽ trên tinh thần “vì dân, do dân” giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chính là điều kiện để phát huy tốt hiệu lực của quyền lực nhà nước thống nhất.

Quan điểm nêu trên trong việc xây dựng nhà nước luôn luôn được thể hiện rõ trong bốn bản Hiến pháp của nước ta. Quốc hội luôn được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề cơ bản, quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước.

Trong việc tổ chức và phân công quyền lực nhà nước, vị trí, vai trò của cơ quan tư pháp nước ta mà trung tâm là hệ thống các Toà án luôn được đề cao. Các nguyên tắc: “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”; “Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số”; “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm” luôn phải được tôn trọng trong hoạt động tư pháp.

Chính quyền địa phương luôn được chăm lo củng cố theo quy định của các Hiến pháp với việc hình thành Hội đồng nhân dân do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra và việc Hội đồng nhân dân bầu các thành viên của Uỷ ban nhân dân (hoặc Uỷ ban hành chính).

Việc phân công và phối hợp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam mấy chục năm qua đã tạo điều kiện để bộ máy nhà nước vận hành thông suốt; đồng thời bảo đảm tăng cường ngày càng có chất lượng hơn cơ chế kiểm tra và tự kiểm tra, thanh tra của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, cơ chế kiểm sát đối với các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát, cơ chế giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với các cơ quan nhà nước và cơ chế giám sát thường xuyên của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước.

2.5. Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội

Hệ thống pháp luật phải thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Pháp luật phải được chính Nhà nước, cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước và mọi người, mọi tổ chức trong xã hội tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành. Hiến pháp - đạo luật cơ bản của nhà nước ta đã xác định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật”[11]. Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật không loại trừ đối với bất cứ ai. Ngay Đảng Cộng sản Việt Nam, được toàn thể nhân dân Việt Nam thừa nhận vị trí, vai trò lãnh đạo đất nước và Hiến pháp xác định: Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thì cũng tại Điều 4 của Hiến pháp 1992 khẳng định: mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

2.6. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước của nhân dân ta từ thời kỳ đầu của cách mạng Việt Nam cho đến nay đã có một thời kỳ ở nước ta tồn tại nhiều đảng chính trị hoạt động trong đời sống xã hội; tuy nhiên, qua thử thách của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mấy chục năm vô cùng ác liệt và công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước đầy gay go quyết liệt, nhân dân Việt Nam đã thừa nhận vị trí, vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Sở dĩ nhân dân ta thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bởi vì chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới là tổ chức thực sự mang lại lợi ích cho dân tộc, cho nhân dân; mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta không có gì khác ngoài việc chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, phấn đấu làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có đầy đủ điều kiện phát triển toàn diện; đưa đất nước phát triển. Tuy chúng ta có một Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhưng chúng ta có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận hoạt động tích cực để đoàn kết rộng rãi và đại diện cho tiếng nói của tất cả các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội.

Sự lãnh đạo của Đảng được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp, đó là sự khẳng định thành quả đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội: "Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội"[12]

 


 

* Nghiên cứu Lập pháp, số 12(65), tháng 12/2005.

** Nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng; nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội; nguyên Trưởng Ban Công tác lập pháp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[1] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 133.

[2] Đến nay, Quốc hội Việt Nam đã trải qua 12 khóa. Hiện là Quốc hội khóa XII (BBT).

3 Xem Điều 13 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996. Hiện là Điều 11 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 (BBT). 

[4] Xem Sắc lệnh số 34 ngày 20/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời.

[5] Xem Nghị quyết về vấn đề sửa đổi Hiến pháp ngày 23/01/1957 của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

[6] Xem Tờ trình số 311/UBTVQH10 ngày 18/5/2001 về dự kiến danh sách Uỷ ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá X; Tờ trình số 06/UB ngày 19/11/2001 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 của Uỷ ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992.

[7] Xem Nghị quyết của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 30/6/1989 thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

[8] Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập 9, tr. 586.

[9] Xem Lời nói đầu Hiến pháp 1946.

[10] Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập 4, tr. 161.

[11] Điều 12 Hiến pháp 1992.

[12] Điều 4 Hiến pháp 1992.