Vài nét về cơ chế bảo hiến và việc tiếp tục
hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam
Đặng Văn Chiến
Phó Trưởng Ban công tác lập pháp
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia. Bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội là nhu cầu cần thiết, tất yếu tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Ý nghĩa quan trọng và giá trị pháp lý của Hiến pháp chính là nguồn gốc phát sinh vấn đề bảo vệ, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và là cơ sở hình thành cơ chế bảo hiến. Bởi lẽ, cơ chế bảo hiến chỉ tồn tại khi Hiến pháp có ưu thế hơn so với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Trước đây, trong một số tài liệu pháp lý, hoạt động bảo hiến được hiểu là sự giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật. Đến nay, khái niệm này được hiểu rộng hơn, theo đó hoạt động bảo hiến không chỉ là sự kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật mà còn bao gồm nhiệm vụ bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp như là nền tảng của hệ thống pháp luật quốc gia, bảo đảm các quyền hiến định, mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước. Khái niệm cơ chế bảo hiến vì vậy cũng có nội hàm rộng hơn, bao gồm toàn bộ các thiết chế, nguyên tắc và biện pháp tổ chức và thực hiện các hoạt động giải thích Hiến pháp; kiểm tra và giám sát hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân; phát hiện và giải quyết các vấn đề phát sinh về thẩm quyền giữa cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền,v.v...
Tư tưởng về giám sát Hiến pháp xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào đầu thế kỷ XVII và gắn liền với hoạt động của Hội đồng cơ mật. Hội đồng này có quyền tuyên bố văn bản do cơ quan lập pháp của các nước thuộc địa Anh ban hành trái với luật của Nghị viện Anh hay pháp luật chung thì không thể có hiệu lực và phải bị bãi bỏ. Giám sát Hiến pháp theo nghĩa hiện hành lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ, nhưng không phải trên cơ sở Hiến pháp mà từ án lệ. Năm 1803, Chánh án Toà án tối cao Mỹ đã phán quyết xác lập quyền của Toà án tối cao được xem xét tính hợp hiến của bất kỳ đạo luật nào của Nghị viện liên bang hay của cơ quan lập pháp các tiểu bang bằng tuyên bố Hiến pháp liên bang là đạo luật cao nhất của đất nước, vì vậy bất cứ văn bản luật nào do Nghị viện ban hành trái với Hiến pháp có thể bị Toà án tuyên bố là không hợp hiến[1]. Ở châu Âu, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, xuất hiện một mô hình cơ quan bảo hiến do học giả người Áo - Hans Kelsen sáng tạo. Theo đó, hoạt động bảo hiến được tách khỏi hệ thống tư pháp và do một cơ quan chuyên trách là Toà án Hiến pháp thực hiện. Ngoài ra, cùng với sự phát triển của lịch sử, một số mô hình tổ chức cơ quan bảo hiến khác cũng được hình thành tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia.
Căn cứ vào vai trò, tính chất của cơ quan bảo hiến trong bộ máy nhà nước, thẩm quyền của cơ quan bảo hiến, trình tự, thủ tục trong việc xem xét vụ việc và ra phán quyết, hệ quả pháp lý từ quyết định của cơ quan bảo hiến,… có thể khái quát một số mô hình cơ quan bảo hiến sau đây:
Mô hình bảo hiến kiểu Mỹ: Đây là mô hình giám sát tư pháp Hiến pháp và là mô hình bảo hiến phi tập trung. Trong mô hình này, thẩm quyền giám sát hiến pháp được giao cho các Toà án có thẩm quyền chung thực hiện. Theo đó, bất kỳ Toà án tư pháp nào cũng có quyền xem xét tính hợp hiến của đạo luật được Quốc hội thông qua khi đạo luật đó được áp dụng để giải quyết vụ việc cụ thể tại Toà án. Điều này có nghĩa là việc khởi kiện tại Toà án là tiền đề để cơ quan này xem xét tính hợp hiến của đạo luật. Trong trường hợp có đủ căn cứ cho rằng quy định của đạo luật là không phù hợp với quy định của Hiến pháp, Toà án sẽ tuyên bố đạo luật đó là vi hiến. Quyết định của Toà án có hiệu lực bắt buộc đối với các bên trong vụ kiện và đối với Toà án cấp dưới. Quyết định của Toà án tối cao là chung thẩm và có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các Toà án tư pháp. Tuy nhiên, Toà án chỉ có quyền tuyên bố một đạo luật được Quốc hội thông qua là vi hiến, không có quyền huỷ bỏ hoặc tuyên bố đạo luật đó vô hiệu. Vì vậy, đạo luật bị Toà án tuyên bố là vi hiến vẫn còn hiệu lực trên thực tế, nhưng không được các Toà án áp dụng để giải quyết các vụ việc cụ thể tại Toà án. Kể từ khi xuất hiện ở nước Mỹ năm 1803, đến nay mô hình này đã được nhiều nước áp dụng như Canađa, Mêhicô, Thụy Điển, Áchentina, Hy Lạp,v.v...
Mô hình bảo hiến kiểu Châu Âu: Đây là mô hình giám sát hiến pháp tập trung, xuất hiện đầu tiên ở Áo vào năm 1920 và được nhiều quốc gia Châu Âu áp dụng. Khác với mô hình bảo hiến kiểu Mỹ, mô hình bảo hiến kiểu Châu Âu không trao quyền giám sát hiến pháp và bảo vệ hiến pháp cho hệ thống Toà án tư pháp mà giao chức năng này cho một cơ quan chuyên trách - được gọi là Toà án hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến. Cơ quan này không thuộc hệ thống cơ quan tư pháp, hành pháp hay lập pháp mà tồn tại một cách tương đối độc lập với chức năng là giám sát hiến pháp và bảo vệ hiến pháp. Theo mô hình này, việc giám sát hiến pháp vừa là giám sát cụ thể (gắn liền với việc giải quyết một vụ việc cụ thể), vừa là giám sát trừu tượng (theo đề nghị của chủ thể có thẩm quyền như Tổng thống, Thủ tướng, nghị sĩ, Thanh tra Quốc hội, v.v...mà không gắn liền với việc giải quyết một vụ việc cụ thể); thực hiện cả giám sát trước (đạo luật chưa được Quốc hội thông qua hoặc đã thông qua nhưng chưa được công bố, chưa có hiệu lực pháp luật) và cả giám sát sau (đạo luật đã có hiệu lực pháp luật). Quyết định của cơ quan bảo hiến là chung thẩm và có hiệu lực bắt buộc đối với mọi chủ thể.
Mô hình bảo hiến hỗn hợp Âu - Mỹ: Đây là mô hình kết hợp cả hai mô hình bảo hiến kiểu Châu Âu và mô hình bảo hiến kiểu Mỹ, được áp dụng ở Bồ Đào Nha, Côlômbia, Êcuađo, Goatêmala, Pêru, Hy Lạp, Inđônêxia, Đài Loan, Braxin, Vênêxuêla,… Theo mô hình này, thẩm quyền giám sát hiến pháp và bảo vệ hiến pháp được trao cho cả cơ quan bảo hiến chuyên trách (Tòa án hiến pháp) và các Toà án thuộc hệ thống tư pháp.
Mô hình cơ quan lập hiến đồng thời là cơ quan bảo hiến: Hiện nay có một số quốc gia không thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách, không trao quyền bảo hiến cho các cơ quan tư pháp mà giao thẩm quyền giám sát Hiến pháp cho một số cơ quan nhà nước khác nhau như Nghị viện, Hội đồng nhà nước hoặc một cơ quan đặc biệt của Nghị viện,... Các quốc gia theo mô hình này bao gồm Phần Lan, Baren, Côoét, Ôman, Cônggô, Êtiôpia, Ghinê-Bítxao, Dimbabuê, Brunây, Mianma, Trung Quốc, Cu Ba, Việt Nam, Lào, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Pakixtan,…
Hoạt động bảo hiến ở Việt Nam luôn được Đảng, Nhà nước coi trọng, bởi vì bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội chính là bảo vệ đường lối của Đảng, góp phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Gắn liền với sự ra đời của bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946, hoạt động bảo vệ Hiến pháp tiếp tục được ghi nhận trong Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 với quy định cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống mọi hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp1992, vấn đề giám sát và bảo vệ Hiến pháp được quy định trong nhiều đạo luật quan trọng như Luật Tổ chức Quốc hội (năm 2001), Luật hoạt động giám sát của Quốc hội (năm 2003), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (năm 1996 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002) và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Theo những quy định này, hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam về cơ bản gồm việc giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền trong việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; giám sát văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế; giải thích Hiến pháp; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; v.v... Trách nhiệm giám sát và bảo vệ Hiến pháp được trao cho nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đó là cơ quan quyền lực nhà nước, Chủ tịch nước, các cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp. Trong đó, với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, Quốc hội là trung tâm của thiết chế bảo hiến ở Việt Nam. Giám sát của Quốc hội mang tính quyền lực nhà nước, hướng tới mọi đối tượng, mọi chủ thể trong xã hội và bao trùm tất cả các lĩnh vực, các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp. Kết quả của hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp trong thời gian qua đã góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm để các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phù hợp với Hiến pháp, thống nhất với hệ thống pháp luật, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện cơ chế giám sát và bảo vệ Hiến pháp theo các quy định của pháp luật hiện hành vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế. Cụ thể:
Một là, việc giám sát và bảo vệ Hiến pháp được giao cho nhiều cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền mà không giao cho một cơ quan chuyên trách có chức năng bảo vệ Hiến pháp. Điều này dẫn đến tình trạng không xác định rõ phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan nên hoặc là đùn đẩy trách nhiệm hoặc chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp;
Hai là, việc giám sát và bảo vệ Hiến pháp theo cơ chế hiện hành chủ yếu dựa vào việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, trong khi đó giám sát tối cao của Quốc hội phụ thuộc vào các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Vì thế không tránh khỏi sự ỷ lại trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo hiến;
Ba là, chúng ta chưa có một cơ chế hữu hiệu nào để giám sát chính hoạt động của Quốc hội và giám sát tính hợp hiến của các đạo luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành cũng như việc giải quyết và hệ quả pháp lý trong trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội có dấu hiệu trái với Hiến pháp. Mặc dù Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định “theo đề nghị của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu Quốc hội, Quốc hội xem xét, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ luật, nghị quyết của Quốc hội trái Hiến pháp”. Tuy nhiên, cho đến nay, Quốc hội vẫn chưa bãi bỏ một văn bản luật, nghị quyết nào của mình với lý do văn bản đó trái Hiến pháp, mặc dù việc sửa đổi, bổ sung luật diễn ra liên tục hàng năm;
Bốn là, thẩm quyền huỷ bỏ, đình chỉ văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong thực tiễn hầu như chưa được áp dụng. Hình thức kiến nghị thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa thực sự đem lại hiệu quả vì pháp luật chưa quy định cụ thể trình tự, thủ tục xử lý văn bản trái pháp luật[2];
Năm là, Hiến pháp Việt Nam không có hiệu lực áp dụng trực tiếp. Các cơ quan, tổ chức khi áp dụng pháp luật thường không viện dẫn quy định của Hiến pháp để giải quyết một vụ việc cụ thể, người dân cũng ít khi viện dẫn điều khoản của Hiến pháp để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm khi khởi kiện hoặc khiếu nại;
Sáu là, các quy định của pháp luật về giám sát và bảo vệ Hiến pháp còn thiếu, một số lĩnh vực còn chung chung, chưa cụ thể, rõ ràng, chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Hơn nữa, những quy định này lại nằm rải rác trong rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, từ Hiến pháp, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đến nội quy, quy chế hoạt động của các cơ quan của Quốc hội… Điều này phần nào đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp.
Từ những hạn chế, bất cập trong việc giám sát và bảo vệ Hiến pháp trên đây cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu để đề xuất giải pháp hữu hiệu phục vụ việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế giám sát và bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, mục đích của Nhà nước pháp quyền là bảo vệ các quyền của công dân được Hiến pháp ghi nhận, bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp và các đạo luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong khi đó, cơ chế bảo hiến lại chính là bảo đảm để các quyền của công dân không bị vi phạm từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước và là bảo đảm để mọi chủ thể phải chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Hiện nay trong giới khoa học pháp lý, xung quanh vấn đề hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam như thế nào, tổ chức theo mô hình nào còn có nhiều quan điểm khác nhau. Cụ thể là:
Quan điểm thứ nhất cho rằng Việt Nam cần thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách (Toà án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến) để thực hiện chức năng giám sát và bảo vệ Hiến pháp nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập của cơ chế bảo hiến hiện nay. Theo quan điểm này, cơ quan bảo hiến chuyên trách do Quốc hội thành lập, có vị trí độc lập với chính Quốc hội và các cơ quan thực hiện chức năng hành pháp, tư pháp. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này là xem xét, phán quyết về tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; xem xét, phán quyết đối với hành vi của cán bộ, công chức nhà nước xâm phạm đến quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương; xem xét tính hợp hiến của cuộc trưng cầu ý dân, của cuộc bầu cử; giải thích Hiến pháp. Tuy nhiên, đối với văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành thì những người theo quan điểm này cho rằng cơ quan bảo hiến chuyên trách không có quyền huỷ bỏ mà chỉ có quyền đình chỉ thi hành (hoặc tuyên bố không áp dụng) nếu văn bản đó trái Hiến pháp và đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định;
Quan điểm thứ hai cho rằng, cơ quan bảo hiến chuyên trách chỉ cần thiết cho một Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, khi mà quyền tư pháp độc lập và ngang bằng với quyền lập pháp. Ở Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nên không thể có một cơ quan nào đứng trên Quốc hội để phán xử hành vi của Quốc hội. Vì vậy, quan điểm này cho rằng không nên thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách mà trao cho hệ thống cơ quan tư pháp (cụ thể là Toà án) chức năng kiểm soát lập pháp và hành pháp. Theo đó, trong một vụ việc cụ thể, công dân có thể yêu cầu Toà án xem xét tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật sẽ được áp dụng đối với mình; nếu Toà án cho rằng yêu cầu này là có căn cứ thì có quyền từ chối áp dụng văn bản đó và kiến nghị cơ quan đã ban hành văn bản để có cách thức xử lý[3]. Như vậy, Toà án không có quyền trực tiếp huỷ bỏ văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ tuyên bố không áp dụng văn bản đó trong từng trường hợp cụ thể. Cùng với thẩm quyền này, Toà án cũng được trao thẩm quyền giải thích Hiến pháp;
Quan điểm thứ ba cho rằng, một trong những điều kiện quan trọng để xây dựng cơ chế bảo hiến chuyên trách là phải có một hệ thống tư pháp phát triển, trong sạch, một đội ngũ chuyên gia pháp luật có bản lĩnh chính trị, chí công vô tư, có trình độ hiểu biết pháp luật, đồng thời, ý thức tôn trọng pháp luật của nhân dân phải cao… Vì vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay, chưa nên thành lập cơ quan bảo hiến chuyên trách mà cần tiếp tục duy trì cơ chế bảo hiến hiện hành. Theo đó, chức năng giám sát và bảo vệ Hiến pháp được giao cho nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền cùng thực hiện, trong đó đặc biệt đề cao vai trò giám sát tối cao của Quốc hội, hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan của Hội đồng nhân dân. Quan điểm này cho rằng, cần tiếp tục duy trì và tăng cường hiệu quả của cơ chế bảo hiến hiện hành như tăng cường công tác thẩm định, thẩm tra, xem xét, cho ý kiến trước khi thông qua luật, pháp lệnh và công tác kiểm tra, giám sát văn bản quy phạm pháp luật đã có hiệu lực để phát hiện và xử lý kịp thời văn bản trái Hiến pháp.
Qua nghiên cứu cơ chế bảo hiến của các nước trên thế giới và cơ chế bảo hiến ở Việt Nam thấy rằng, không có một mô hình cơ chế bảo hiến chung nào để áp dụng cho tất cả các quốc gia, cả về hình thức và phương thức thực hiện, cả về tính chất và giá trị pháp lý của phán quyết của cơ quan có chức năng bảo vệ Hiến pháp. Chúng tôi cho rằng, việc tìm kiếm mô hình nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở nước ta phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, việc hoàn thiện cơ chế bảo hiến phải quán triệt và phù hợp với những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong đó, những đặc điểm quan trọng nhất là: tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phải theo nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công rành mạch và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đề cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ đồng thời với tăng cường kỷ cương, kỷ luật; bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp và các đạo luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội; Nhà nước tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc gia nhập; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; bảo đảm sự giám sát của nhân dân và sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận;
Hai là, kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng về hoàn thiện cơ chế giám sát và bảo vệ Hiến pháp, thực hiện chủ trương đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”[4]. Vì vậy, giám sát và bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội chính là bảo vệ đường lối của Đảng, góp phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Và như vậy, việc hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp cũng chính là góp phần tiếp tục nghiên cứu để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội;
Ba là, việc hoàn thiện cơ chế bảo hiến phải dựa trên cơ sở kế thừa, phát huy những ưu điểm của cơ chế bảo hiến hiện hành, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài để tìm ra cách thức, biện pháp bảo đảm cho Hiến pháp được tôn trọng, chống lại mọi sự vi phạm Hiến pháp có thể xảy ra và phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội của nước ta.
Trên cơ sở kế thừa, phát triển những ưu điểm của cơ chế bảo hiến hiện hành và tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, Việt Nam có thể thiết lập một mô hình bảo hiến đặc trưng của mình, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước. Mô hình cơ quan bảo hiến chuyên trách (được gọi là Toà án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến) với chức năng giám sát và bảo vệ Hiến pháp là một trong những thiết chế bảo vệ Hiến pháp khá hiệu quả, được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Để làm việc này, cần nghiên cứu cụ thể, có hệ thống các vấn đề như vị trí, tính chất của cơ quan bảo hiến và mối quan hệ giữa cơ quan này với Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan bảo hiến; cơ cấu tổ chức của cơ quan bảo hiến; thành viên của cơ quan bảo hiến; trình tự, thủ tục hoạt động của cơ quan bảo hiến; phương thức hoạt động của cơ quan bảo hiến; hiệu lực pháp lý của các phán quyết của cơ quan bảo hiến,... Cụ thể:
Vị trí, tính chất của cơ quan bảo hiến
Cơ quan bảo hiến chuyên trách có thể được gọi là Toà án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến. Chức năng của cơ quan bảo hiến là giám sát và bảo vệ Hiến pháp, trong đó chủ yếu là giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật và hành vi của các cơ quan công quyền, cán bộ, công chức nhà nước. Chính vì vậy, cơ quan bảo hiến phải có vị trí độc lập trong mối quan hệ với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Cơ quan này do Quốc hội thành lập nhưng lại không thuộc Quốc hội, cơ quan hành pháp hoặc tư pháp. Chỉ trên cơ sở bảo đảm vị trí độc lập của cơ quan bảo hiến mới ràng buộc, thúc đẩy trách nhiệm và bảo đảm tính khách quan của cơ quan này trong hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp. Cơ quan bảo hiến chuyên trách vừa có tính chất tư pháp (xem xét, phán quyết văn bản trái Hiến pháp và hành vi vi hiến), vừa có tính chất chính trị, tham vấn (kiến nghị biện pháp nhằm bảo đảm cho các văn bản của Quốc hội, các cơ quan nhà nước khác ban hành phù hợp với Hiến pháp).
Thẩm quyền và phương thức hoạt động của cơ quan bảo hiến
Để cơ quan bảo hiến hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, cần trao cho cơ quan này một số thẩm quyền sau đây:
- Xem xét tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật;
- Xem xét tính hợp hiến của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập;
- Giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền xâm phạm đến quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Khi bất cứ quyền cơ bản nào của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp bị vi phạm từ phía cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền, công dân có quyền khiếu nại đến cơ quan bảo hiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp hiến của mình. Tuy nhiên, cần có một trình tự, thủ tục đặc biệt để không phải mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều có thể khiếu nại đến cơ quan bảo hiến, biến cơ quan này thành “túi đựng” cho mọi cuộc kiện tụng;
- Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, bảo đảm để các cơ quan này hành xử theo đúng giới hạn thẩm quyền đã được Hiến pháp và luật phân định; tạo sự cân bằng trong tổ chức và hoạt động, tránh sự lạm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương;
- Xem xét tính hợp hiến của cuộc trưng cầu ý dân, bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Cơ quan bảo hiến không có quyền xem xét lại kết quả của cuộc trưng cầu ý dân, bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, nhưng có quyền xem xét, đánh giá tính hợp hiến trong việc áp dụng thủ tục trưng cầu ý dân, bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Bất kỳ một cuộc trưng cầu ý dân hay cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân nào đều có thể bị cơ quan bảo hiến tuyên bố vi hiến nếu không tuân thủ nghiêm ngặt các thủ tục mà pháp luật đã quy định;
- Giải thích Hiến pháp là một thẩm quyền quan trọng của cơ quan bảo hiến nhằm thống nhất cách hiểu và áp dụng các quy định của Hiến pháp trên thực tế. Nhu cầu giải thích Hiến pháp được đặt ra khi quy định của Hiến pháp không được hiểu một cách thống nhất hoặc rõ ràng trong quá trình thực thi, làm cho người áp dụng pháp luật có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Trong những trường hợp này, theo đề nghị của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền, cơ quan bảo hiến tiến hành giải thích Hiến pháp.
Trong việc xem xét tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan bảo hiến có quyền xem xét, ra phán quyết đối với tất cả văn bản quy phạm pháp luật vi phạm Hiến pháp, từ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương đến văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở địa phương, từ văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước đến văn bản pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội. Mục đích của việc xem xét tính hợp hiến của các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác là nhằm bảo đảm để tất cả văn bản quy phạm pháp luật dưới Hiến pháp phải phù hợp với Hiến pháp, trên cơ sở của Hiến pháp và tuân thủ những nền tảng cơ bản của Hiến pháp.
Việc xem xét tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật không chỉ được thực hiện sau khi văn bản đó đã được ban hành, có hiệu lực thi hành mà cả trước khi văn bản đó được công bố. Tuy nhiên, phương thức giám sát trước chỉ giới hạn trong phạm vi nhất định. Cơ quan bảo hiến có quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại luật đã được Quốc hội thông qua, đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua trước khi Chủ tịch nước ký lệnh công bố, nếu có căn cứ cho rằng văn bản đó không phù hợp với Hiến pháp. Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phải xem xét lại đạo luật, pháp lệnh mà mình đã thông qua. Trường hợp đạo luật được Quốc hội thông qua vi phạm Hiến pháp thì Quốc hội phải huỷ bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung đạo luật đó, nếu đạo luật vẫn được 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Chủ tịch nước phải công bố. Trường hợp pháp lệnh được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua vi phạm Hiến pháp thì Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phải huỷ bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung pháp lệnh đó, nếu pháp lệnh đó vẫn được 2/3 tổng số thành viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành thì cơ quan bảo hiến có quyền yêu cầu Chủ tịch nước không công bố và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Phương thức giám sát sau được áp dụng đối với văn bản quy phạm pháp luật đã có hiệu lực pháp luật. Theo đề nghị của chủ thể có thẩm quyền như Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, 1/10 tổng số đại biểu Quốc hội, cơ quan bảo hiến có quyền ra phán quyết về việc văn bản quy phạm pháp luật vi phạm Hiến pháp. Cơ quan bảo hiến không có quyền huỷ bỏ văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành mà chỉ đình chỉ việc thi hành, nếu cho rằng văn bản đó vi phạm Hiến pháp và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan khác, tổ chức, cá nhân ban hành, cơ quan bảo hiến có quyền huỷ bỏ hoặc tuyên bố không áp dụng, nếu cho rằng văn bản đó vi phạm Hiến pháp.
Việc quy định cơ quan bảo hiến chỉ có quyền kiến nghị Quốc hội huỷ bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung luật, nghị quyết của Quốc hội có dấu hiệu vi phạm Hiến pháp là vì ở nước ta, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, không có một cơ quan nào đứng trên Quốc hội để phán xử hành vi của Quốc hội. Xuất phát từ nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, nên khác với cơ quan bảo hiến chuyên trách theo mô hình bảo hiến Châu Âu, phán quyết về tính hợp hiến đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan bảo hiến không dẫn đến sự vô hiệu ngay lập tức một văn bản hoặc một quy phạm pháp luật mà được giải quyết như sau:
Thứ nhất, khi có căn cứ cho rằng văn bản hoặc quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp thì trước khi đưa ra phán quyết cuối cùng, cơ quan bảo hiến có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ban hành văn bản xem xét lại văn bản để tự huỷ bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung trong thời hạn nhất định. Trong thời hạn này, văn bản bị đề nghị xem xét lại bị tạm đình chỉ thi hành; cơ quan bảo hiến chưa tuyên bố một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật nào đó trái Hiến pháp và tạo cơ hội để cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ban hành văn bản đó có những hành động cần thiết như huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc chấm dứt hiệu lực của văn bản;
Thứ hai, trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ban hành văn bản không huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc chấm dứt hiệu lực của văn bản trong thời hạn cơ quan bảo hiến yêu cầu thì cơ quan bảo hiến có quyền tuyên bố một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật đó trái Hiến pháp và bị huỷ bỏ hoặc tuyên bố không áp dụng, trừ văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội thì đình chỉ thi hành và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Tổ chức của cơ quan bảo hiến
Khác với những cơ quan khác của Nhà nước, cơ quan bảo hiến chuyên trách không nên thành lập ở nhiều cấp mà chỉ có một cơ quan duy nhất ở trung ương với chức năng giám sát và bảo vệ Hiến pháp. Việc hình thành một cơ quan bảo hiến duy nhất ở trung ương là để hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp được tập trung, hiệu lực và hiệu quả. Tổ chức của cơ quan bảo hiến có thể gồm các thành viên và bộ máy giúp việc. Người đứng đầu cơ quan bảo hiến (Chánh án hoặc Chủ tịch Hội đồng) có thể do Quốc hội bầu. Các thành viên khác (thẩm phán) của cơ quan bảo hiến có thể do Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch nước.
Thẩm phán của cơ quan bảo hiến
Trong thiết chế bảo hiến, vấn đề quan trọng có tính quyết định hiệu lực, hiệu quả hoạt động chính là đội ngũ các thẩm phán. Để trở thành thẩm phán của cơ quan bảo hiến, người đó phải là công dân Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần kiên quyết bảo vệ lẽ phải và công lý, chí công vô tư, có trình độ cử nhân luật trở lên và đã làm công tác xét xử lâu năm tại Toà án hoặc đã làm công tác pháp luật tại các cơ quan, tổ chức khác. Số lượng thẩm phán của cơ quan bảo hiến do Quốc hội quyết định, nhưng cần có một tỷ lệ hợp lý các nhà hoạt động chính trị có nhiều kinh nghiệm. Với nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên, để bảo đảm tiến độ và chất lượng giải quyết các vụ việc, cơ quan bảo hiến cần có khoảng 15 thành viên.
Về trình tự, thủ tục hoạt động của cơ quan bảo hiến
Phán quyết, quyết định của cơ quan bảo hiến, đặc biệt là những phán quyết về tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật không chỉ tác động đến đối tượng bị giám sát mà tác động đến cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và đến toàn xã hội. Chính vì vậy, cần có một trình tự, thủ tục đặc biệt cho hoạt động của cơ quan bảo hiến, khác với trình tự, thủ tục xem xét vụ việc tư pháp thông thường. Đó là thủ tục đề nghị xem xét tính hợp hiến của văn bản hoặc hành vi, thủ tục thụ lý hồ sơ, thu thập thông tin, chứng cứ, thủ tục xem xét vụ việc, biểu quyết thông qua quyết định, công bố quyết định và thủ tục xem xét lại vụ việc trong trường hợp cần thiết…
Ngoài những vấn đề trên đây, chúng tôi đề nghị các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cần tiếp tục tổng kết, đánh giá đầy đủ, khách quan tất cả các phương diện của cơ chế bảo hiến hiện hành của Việt Nam như hệ thống pháp luật, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát và bảo vệ Hiến pháp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ý thức pháp luật của nhân dân… từ đó nghiên cứu, đề xuất các giải pháp đồng bộ và hữu hiệu về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam.
[1]. Xem Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.566-567.
[2]. Chương IX Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật chỉ quy định về thẩm quyền giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
[3]. Xem Nguyễn Đăng Dung: Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền, sđd, tr. 214; Bùi Ngọc Sơn: Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr. 130, 180.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 127.