VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 1) 1981 - 1983

 

THUYẾT TRÌNH
CỦA ỦY BAN KINH TẾ, KẾ HOẠCH VÀ NGÂN SÁCH CỦA QUỐC HỘI VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC VÀ DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1981, DỰ ÁN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1982
VÀ TỔNG QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1980

(Do ông Đào Văn Tập, Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách của Quốc hội
trình bày tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa VII, ngày 24-12-1981)

 

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Thay mặt Ủy ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách, tôi xin trình Quốc hội những ý kiến và kiến nghị của Ủy ban chúng tôi sau khi nghiên cứu các báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước và dự toán ngân sách nhà nước năm 1981, dự án kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước năm 1982 và tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1980.

Thuyết trình của chúng tôi gồm bốn phần:

I. Về tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1981.

II. Về kế hoạch nhà nước năm 1982.

III. Về tổng quyết toán ngân sách năm 1980, tình hình thực hiện ngân sách 1981 và dự kiến ngân sách năm 1982.

IV. Về các biện pháp bảo đảm thực hiện kế hoạch và ngân sách nhà nước năm 1982.

PHẦN THỨ NHẤT

VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
 NĂM 1981

Ủy ban chúng tôi tán thành báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về những thành tựu và tiến bộ, những khó khăn và khuyết nhược điểm trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1981 và xin phát biểu thêm về một số vấn đề.

Trong năm 1981, bên cạnh những thành tựu về sản xuất nông nghiệp, thu mua nông sản, thực phẩm, khôi phục và phát triển chăn nuôi, sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, Đảng và Nhà nước đã động viên được tính tích cực lao động sản xuất của hàng chục triệu nông dân tập thể. Hưởng ứng chủ trương mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động, đông đảo bà con nông dân đã tận dụng đất đai và lao động, chăm sóc đồng ruộng, đấu tranh chống thiên tai, diệt sâu bệnh, thu hoạch nhanh gọn, làm tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước và tập thể, tăng thu nhập cho bản thân và gia đình. Tiếp tục thực hiện và mở rộng chủ trương khoán sản phẩm trong nông nghiệp, đồng thời giải quyết những chỗ còn chưa hoàn thiện trong khi áp dụng hình thức này là một bảo đảm quan trọng hàng đầu để Nhà nước và nhân dân ta đạt các mục tiêu sản xuất nông nghiệp mà Quốc hội sẽ thông qua. Tất nhiên, để làm tốt nhiệm vụ phát triển sản xuất nông nghiệp, từng bước đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, còn phải có nhiều nhân tố khác nữa, đặc biệt là tác động của công nghiệp và sự chỉ đạo điều hành có hiệu lực. Song, tất cả các nhân tố ấy đều phải thông qua lực lượng sản xuất thứ nhất là người lao động có nhiệt tình trong nông nghiệp mới đem lại kết quả mong muốn.

Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp kể cả công nghiệp khai thác và đánh bắt, thực hiện các chủ trương mở rộng dân chủ, phát huy quyền chủ động của xí nghiệp, cải tiến một bước công tác kế hoạch hóa, thực hiện khoán sản phẩm, v.v. nhiều xí nghiệp đã tích cực tìm nguồn nguyên liệu bổ sung, tu sửa thiết bị, tổ chức lại lao động và dây chuyền sản xuất, nên đã duy trì và phát triển được sản xuất, tăng sản phẩm cho xã hội và nguồn thu cho ngân sách, tăng thu nhập cho xí nghiệp và người lao động, kết hợp đúng đắn “ba lợi ích”, thực hiện chủ trương “bung” sản xuất đúng hướng. Đó là mặt tích cực của chủ trương mở rộng quyền chủ động của xí nghiệp. Mặt khác, khi thực hiện chủ trương này cũng đã phát sinh những lệch lạc. Do đó, còn có ý kiến khác nhau về chủ trương mở rộng quyền chủ động sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp.

Về vấn đề này, Ủy ban chúng tôi có ý kiến như sau: chủ trương mở rộng quyền chủ động của xí nghiệp là cần thiết; đó là một trong những phương hướng của việc đổi mới chế độ quản lý kinh tế. Còn như trong bước đầu thực hiện chủ trương đó có phát sinh một số lệch lạc thì cần uốn nắn, quy định cụ thể nào chưa phù hợp hoặc sơ hở thì Nhà nước kiên quyết sửa và uốn nắn, không nên vì một số lệch lạc nhất thời và cục bộ mà thay đổi một chủ trương có tính chất nguyên tắc. Thực hiện tốt chủ trương ba cấp cơ bản làm kế hoạch sẽ giúp thêm vào việc khắc phục những lệch lạc hiện nay.

Một nét đáng chú ý nữa của tình hình năm 1981 là theo chủ trương phân cấp quản lý, vai trò của các địa phương được phát huy thêm một bước. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương và sự hướng dẫn, giúp đỡ của các ngành, các tỉnh, thành phố và đơn vị trực thuộc Trung ương đã chủ động chỉ đạo sản xuất, sắp xếp lao động, huy động lương thực, thực phẩm, khai thác nguồn hàng xuất khẩu cho Trung ương và cho địa phương, tổ chức bảo đảm đời sống, nhất là đời sống của nông dân ở những vùng bị thiên tai, điều hòa phối hợp, giải quyết những vướng mắc trong phạm vi địa phương, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, v.v.. Cố nhiên, về chủ trương phân cấp quản lý, hiện còn những vấn đề phải giải quyết, song tình hình thực tế thời gian qua càng cho thấy, trong điều kiện sản xuất nhỏ còn phổ biến, giao thông vận tải, liên lạc chưa phát triển, kinh tế và văn hóa giữa các vùng phát triển chưa đồng đều, nền kinh tế còn nhiều thành phần, v.v.. thì việc mạnh dạn phân cấp quản lý, phát huy tính chủ động sáng tạo của địa phương là cần thiết. Từ kế hoạch nhà nước năm tới, Nhà nước chủ trương đẩy mạnh thực hiện phương châm “Trung ương và địa phương cùng làm” thì việc phân cấp nói trên cần được xúc tiến.

Sự chủ động của cơ sở và địa phương muốn được phát huy đúng hướng, chứ không chệch hướng, thì càng đòi hỏi sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương, càng cần có sự hướng dẫn và giúp đỡ của các ngành chung quanh Trung ương, càng phải gắn quyền hạn với trách nhiệm. Sự lãnh đạo đó có nhiều mặt, song điều mà các địa phương hiện nay đang mong muốn là: Trung ương soát xét lại các quy định về vấn đề phân cấp để hoàn chỉnh sớm các chính sách chế độ; giải quyết những vướng mắc trong quan hệ phân cấp, những đề nghị của địa phương; có người đủ quyền hạn giải quyết những vấn đề phát sinh giữa địa phương với các ngành ở Trung ương và giữa các địa phương với nhau, v.v..

Một vấn đề lớn trong đời sống kinh tế nước ta được đông đảo cán bộ và nhân dân quan tâm trong năm 1981 là những thay đổi trong lĩnh vực phân phối - lưu thông. Chính phủ đã báo cáo với Quốc hội những nét tổng quát; Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá nhà nước đã báo cáo bổ sung. Ủy ban chúng tôi xin phát biểu một số ý kiến như sau:

Do những điều kiện sản xuất và kinh tế ở trong nước cũng như tình hình tiền tệ, giá cả thị trường thế giới đã thay đổi nên việc cải tiến phân phối lưu thông nói chung, giá cả nói riêng là cần thiết.

Nhưng trong chỉ đạo thực hiện vừa qua có sai sót.

Trước hết là khâu chuẩn bị chưa chu đáo, chưa tính toán được đầy đủ đến tình hình kinh tế, xã hội nước nhà hiện nay; chưa lường hết khả năng thích ứng của trình độ quản lý sản xuất, kinh doanh của ta và sức mua của phần lớn dân cư; chưa lường hết những tác động của việc điều chỉnh mức giá như dự kiến.

Trong khi triển khai điều chỉnh đã định giá bán buôn một số tư liệu sản xuất nông nghiệp cao so với sự tiếp thụ của nông dân (như công cày máy ở miền Bắc và khu V cũ, giá bán thuốc trừ sâu...)

Trong hệ thống giá bán lẻ chỉ đạo mới của Nhà nước, một số loại hàng định giá không phù hợp với sức mua nên ứ đọng. Việc quản lý hệ thống giá bán lẻ không chặt: một số ngành và địa phương quy định giá bán lẻ cao hơn mức giá chỉ đạo của Nhà nước. Vận dụng chưa tốt ba loại giá tương ứng với ba quỹ hàng hóa do Nhà nước quy định. Trong lúc chưa bảo đảm quỹ hàng hóa cung cấp cho cán bộ, công nhân viên chức và quỹ hàng hóa trao đổi hai chiều với nông dân thì một số ngành và địa phương lại đưa hàng hóa ra bán theo giá kinh doanh thương nghiệp, gây thắc mắc trong cán bộ, công nhân viên chức và nông dân.

Trong khi thực hiện tiếp sau việc điều chỉnh giá bán lẻ mới, Nhà nước lại chưa bảo đảm được đầy đủ lực lượng cung cấp những hàng thiết yếu, việc quản lý giá thị trường tự do chỉ được tiến hành tích cực trong một thời gian rồi buông lỏng, làm cho cán bộ, công nhân viên chức phải mua nhiều nhu yếu phẩm ở thị trường tự do với giá cao nên đời sống của công nhân, viên chức thêm khó khăn. Khuyết điểm chính ở đây là đã không bảo đảm mối tương quan hợp lý giữa giá và lương, giữa cung cấp và đời sống.

Việc điều chỉnh giá bán buôn là cần thiết sau khi đã điều chỉnh giá bán lẻ và giá thu mua. Nhưng việc chuẩn bị các điều kiện để tiến hành điều chỉnh giá bán buôn vật tư chưa làm tốt, nóng vội, muốn qua một lần điều chỉnh giá là có thể bù đắp được toàn bộ số chênh lệch giữa giá nhập khẩu mới và giá cũ. Do đó, đã gây những tác động không lợi: nhiều giá bán buôn xí nghiệp đội giá bán lẻ, gây tắc nghẽn cho sản xuất và lưu thông. Việc chưa tính toán để cấp vốn lưu động cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh và xây dựng, trước khi điều chỉnh giá bán buôn vật tư đã làm cho sản xuất, kinh doanh và xây dựng bị đình trệ. Sự đình trệ còn do thiếu phối hợp giữa các ngành tài chính, ngân hàng, giá cả và các ngành lưu thông trong việc xử lý những trường hợp giá bán buôn đội giá bán lẻ, cũng như trong việc cấp vốn lưu động và bù lỗ cho các xí nghiệp.

Chưa có biện pháp tích cực kịp thời ngăn chặn những trường hợp tư thương lợi dụng việc điều chỉnh giá bán lẻ, giá bán buôn, cước vận tải của Nhà nước để nâng giá cước và giá bán những mặt hàng trong tay họ. Chỉ số giá chung của thị trường xã hội do đó mà tăng lên, đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất, đời sống và ngân sách.

Nhìn chung lại thì thấy, việc điều chỉnh giá, việc bù lương và cung cấp hàng hóa trong thời gian năm qua chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu nêu trong Nghị quyết số 26 và Chỉ thị số 109 của Bộ Chính trị là: góp phần ổn định đời sống, phát triển sản xuất và ổn định nền tài chính quốc gia.

Song chúng tôi nghĩ rằng, không nên phủ nhận tất cả mọi công việc đã làm. Việc điều chỉnh giá thu mua nông sản vừa qua đã góp phần vào việc tăng mức huy động lương thực, thực phẩm và một số nông sản khác. Việc điều chỉnh giá vật tư cơ bản sẽ thúc đẩy các xí nghiệp phải tính toán chặt chẽ hơn trong việc sử dụng vật tư, nhiên liệu, nhất là những thứ phải nhập khẩu, góp phần thúc đẩy cải tiến quản lý kinh tế.

Do công tác phân phối lưu thông đang có nhiều diễn biến phức tạp, nên chúng tôi xin kiến nghị Quốc hội giao trách nhiệm cho Hội đồng Bộ trưởng sớm tổ chức rút kinh nghiệm về vấn đề này, trên cơ sở đó có những chủ trương, biện pháp có hiệu quả để ổn định tình hình phân phối lưu thông, như Chính phủ đã báo cáo. Trong công việc này chúng tôi nghĩ rằng, nên thu hút cán bộ các ngành, các địa phương và cơ sở tham gia, phát huy trí tuệ tập thể để chuẩn bị các quyết định của Nhà nước.

PHẦN THỨ HAI

VỀ KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1982

Trong báo cáo trình Quốc hội về kế hoạch nhà nước năm 1982, Chính phủ nêu nhiệm vụ, biện pháp và các mục tiêu chủ yếu về các mặt sản xuất, xuất khẩu, giao thông vận tải, phân phối lưu thông, văn hóa - xã hội và đời sống, cải tạo xã hội chủ nghĩa, v.v.. Trong thuyết trình này, chúng tôi chỉ xin phát biểu về các vấn đề sản xuất, phân phối lưu thông, quản lý, còn các vấn đề khác xin để các Hội đồng và Ủy ban khác của Quốc hội có ý kiến.

Kế hoạch nhà nước năm 1982 được xây dựng trong điều kiện nền kinh tế còn mất cân đối nghiêm trọng; nhu cầu ngày một tăng nhưng trình độ sản xuất còn thấp, cơ cấu sản xuất chưa được sắp xếp hợp lý; nhiều trang thiết bị, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu và một phần hàng tiêu dùng còn phụ thuộc vào nhập khẩu. Đây lại là kế hoạch lần đầu tiên bảo đảm cho nước nhà tự lực giải quyết vấn đề lương thực. Vì vậy, tuy cơ quan làm kế hoạch có cố gắng nhưng vẫn chưa thể bảo đảm rằng kế hoạch đã thật vững chắc, nhất là trên các mặt cân đối lớn như lương thực, thực phẩm, năng lượng, hàng tiêu dùng, vận tải, xuất nhập khẩu và ngoại tệ.

Trước hết là vấn đề sản xuất lương thực

Chính phủ trình Quốc hội chỉ tiêu sản xuất lương thực cả nước trong năm 1982 là 16 triệu tấn (trong đó 13 triệu tấn là thóc, 3 triệu tấn màu quy thóc).

Ủy ban chúng tôi tán thành chỉ tiêu sản lượng trên đây để nước ta bắt đầu tự giải quyết được lương thực. Và xin góp thêm một số ý kiến:

1. Các vật tư kỹ thuật cần phải bảo đảm chắc chắn và kịp thời theo yêu cầu của sản xuất:

- Tuy việc nhập khẩu có khó khăn, nhưng cần phải đảm bảo nhập được một số lượng phân đạm cần thiết tương xứng với yêu cầu năng suất cho từng loại cây theo từng loại đất đai. Mặt khác, phân bón phải được đưa đến người sản xuất kịp thời vụ, đúng theo giá cả Nhà nước quy định.

- Đối với phân lân sản xuất được ở trong nước, cần phải khắc phục mọi khó khăn về vận chuyển, bao bì để đưa được vào đồng bằng sông Cửu Long theo yêu cầu sản xuất.

- Rút kinh nghiệm năm 1981, nguyên liệu để sản xuất thuốc trừ sâu cần phải nhập ngay từ đầu năm mới bảo đảm có đủ thuốc bảo vệ mùa màng khi cần thiết.

- Việc cung cấp xăng dầu, phụ tùng cơ khí phải bảo đảm cung cấp kịp thời trước từng vụ để giải quyết được khâu làm đất đúng kỹ thuật và tưới nước được chủ động.

2. Việc chỉ đạo sản xuất không nên dàn đều mà có sự ưu tiên tập trung cho các vùng sản xuất có những điều kiện thuận lợi để đạt sản lượng cao, cho sản lượng hàng hóa nhiều.

3. Đối với sản xuất hoa màu lương thực.

Để đạt và vượt chỉ tiêu đã nêu, cần giải quyết các vướng mắc trong việc phát triển trồng màu. Thật ra, các vấn đề cần giải quyết đã được đặt ra từ lâu, song đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.

Trước hết là vấn đề chế biến màu, bao gồm các vấn đề công cụ chế biến, nhiên liệu để sấy, phương tiện bảo quản và vận chuyển.

Hai là, vấn đề chính sách khuyến khích trồng và tiêu thụ màu, chính sách thu mua và giá cả bảo đảm bù đắp các chi phí liên quan đến chế biến, bảo quản và vận chuyển màu.

Sau một số năm phát triển khá, vài năm gần đây diện tích và sản lượng màu có xu hướng dừng lại và giảm sút, năm vừa qua sản lượng giảm trên 20 vạn tấn quy thóc. Hiện tượng đó có nhiều nguyên nhân, song, trước hết là do chưa có một chính sách toàn diện đối với màu. Hiện nay, đứng trước nhiệm vụ to lớn là tự túc lương thực trong nước và cân đối lương thực đến huyện thì việc sớm bổ sung chính sách về màu càng trở nên cấp thiết.

4. Để bảo đảm đạt chỉ tiêu sản xuất lương thực còn cần phải gắn liền chỉ đạo sản xuất với cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở Nam Bộ theo phương châm tích cực và vững chắc; củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và khu V cũ; đẩy mạnh việc xây dựng huyện về mọi mặt.

Về sản xuất công nghiệp và đầu tư xây dựng cơ bản

Điều đáng suy nghĩ là sản xuất công nghiệp đặc biệt là sản xuất công nghiệp quốc doanh Trung ương. Nhìn chung trong vài năm qua, nhất là qua năm 1981, có chiều hướng co lại, sản lượng giảm, chủng loại mặt hàng bị thu hẹp, chất lượng xấu đi. Nhiều sản phẩm công nghiệp quan trọng đạt kế hoạch thấp.

Nếu vì lý do khả năng thực tế của nền kinh tế có hạn như thiếu ngoại tệ để nhập nguyên liệu phụ tùng, thiếu xăng dầu, thiếu điện, v.v. nên buộc phải bố trí kế hoạch sản xuất sụt xuống theo khả năng cung ứng của nền kinh tế thì e rằng, cứ sau một năm kế hoạch, sản lượng hàng hóa lại tụt xuống một mức và nếu cứ tiếp tục làm kế hoạch theo cách này thì không bao lâu nữa nền kinh tế sẽ càng khan hiếm hàng hóa hơn, đời sống sẽ càng khó khăn hơn và nền kinh tế sẽ càng thêm mất cân đối.

Do đó, xin đề nghị năm 1982 cần sắp xếp việc sản xuất các loại sản phẩm công nghiệp bao gồm cả đầu tư xây dựng cơ bản theo những nguyên tắc như sau:

a) Nhà nước cấp vốn hoặc cho vay vốn, cấp phát vật tư, nguyên liệu, năng lượng, vận tải, v.v. ưu tiên tập trung cho những sản phẩm hoặc đơn vị công nghiệp hoặc công trình xây dựng cơ bản sản xuất ra lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ cho đời sống, hàng để xuất khẩu, hàng hóa dùng làm nguyên liệu cho nhiều ngành kinh tế.

Ủy ban Kế hoạch nhà nước chủ trì cùng với các ngành xác lập danh mục cụ thể các loại sản phẩm hàng hóa, công trình thuộc diện ưu tiên này, Hội đồng Bộ trưởng phê duyệt. Trên cơ sở đó phân bố tiền vốn và vật tư cho các ngành. Có làm như vậy ta mới chấm dứt được tình hình đầu tư tràn lan, sản xuất tràn lan, ngành nào nói mạnh, thì ngành ấy được.

b) Ngoài quan niệm tập trung đầu tư trên đây cũng cần soát xét vào chiều sâu nội dung kinh tế - kỹ thuật của từng ngành hay từng sản phẩm, từng công trình ưu tiên để đầu tư đúng chỗ; tránh tình trạng ngành nào nhiều vốn thì dễ lãng phí, ngành ít vốn thì đành bó tay.

c) Ngoài khu vực sản xuất vật chất, Nhà nước cũng cần xây dựng dự án phân bố kinh phí theo quan hệ tỷ lệ thích hợp cho các ngành không sản xuất vật chất, và sau khi Hội đồng Bộ trưởng phê duyệt thì cứ thế mà phân bổ vốn.

d) Trong thực tế ở nhiều ngành, nhiều địa phương có những năng lực sản xuất chưa được huy động: vốn, vật tư, lao động, thiết bị máy móc... Khi đã phân vào ngành, vào địa phương xong, về danh nghĩa thì đó là tiềm năng của Nhà nước, nhưng thực tế, Nhà nước không có cách nào điều động và Nhà nước không thể kế hoạch hóa các tiềm năng này. Trong một vài năm trở lại đây, các tiềm năng này được huy động đúng hướng một phần bằng việc phát huy quyền chủ động của xí nghiệp, nhưng tiềm năng ấy còn bị thất thoát không phải ít.

Trong thời gian vài năm sắp tới cần đẩy mạnh thực hiện chủ trương như phát huy quyền chủ động xí nghiệp vì có tác dụng tốt để huy động các tiềm năng này nhằm tăng sản xuất vật chất, làm phong phú trở lại hàng hóa cho xã hội; tất nhiên những mặt tiêu cực khi thực hiện cần được xem xét và kiên quyết khắc phục, không để kéo dài tình trạng lạm dụng nguyên tắc kết hợp ba lợi ích để làm sai.

đ) Trong tình hình vật tư và tiền vốn rất thiếu thốn nhưng lại bị sử dụng phí phạm nghiêm trọng và không tính đến hiệu quả như hiện nay thì một trong những biện pháp thiết thực là áp dụng thuế đánh vào vốn. Sử dụng càng nhiều vốn càng phải nộp nhiều thuế. Không nên chờ đợi xây dựng chế độ thuế vốn hoàn chỉnh rồi ban hành, mà nên làm từng bước cho từng ngành, hoàn chỉnh dần hệ thống thuế vốn. Đây là con đường thoát ra khỏi hành chính bao cấp, cần mạnh dạn và dứt khoát làm. Làm được như vậy sẽ càng tăng phần vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng cơ bản.

Sau đây xin trình bày một số ý kiến cụ thể trên một số lĩnh vực sản xuất công nghiệp:

Trong sản xuất hàng tiêu dùng hiện nay có các mặt hàng cần được đặc biệt quan tâm chỉ đạo để tạo điều kiện sản xuất đạt các chỉ tiêu đề ra, đó là vải mặc, phụ tùng xe đạp, giấy viết, thuốc chữa bệnh (trước hết là thuốc kháng sinh), sữa cho trẻ em và người bệnh.

Để phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, cần xúc tiến phân cấp cho công nghiệp địa phương theo hướng không hạn chế danh mục chủng loại số lượng, cứ giao cho địa phương huy động các ngành tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp thuộc khu vực tập thể cũng như khu vực cá thể làm. Muốn khuyến khích huy động được, Chính phủ cần định ra một số chính sách thật rõ và duy trì trong nhiều năm như: người sản xuất tự lo vật tư và năng lượng, quy định chất lượng, giá Nhà nước thu mua, mức lợi nhuận và thuế, chế độ lương bổng cho từng người lao động. Trong năm vừa qua, các ngành này vượt kế hoạch sản xuất càng cho thấy đây là một lực lượng hùng hậu, còn nhiều tiềm năng. Sản phẩm của các ngành này, Nhà nước chưa nắm được phần lớn, và thật ra cơ quan thống kê cũng chưa thể thống kê được hết. Vì vậy, Ủy ban chúng tôi nghĩ rằng, các tốc độ tăng giá trị tổng sản lượng công nghiệp, nhất là sản phẩm ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng ghi trong kế hoạch nhà nước năm 1982 nên được coi là mức tối thiểu. Làm tốt việc huy động lực lượng công nghiệp địa phương, bao gồm tiểu và thủ công nghiệp thì chắc chắn có thể vượt mức đó.

Vải mặc là một mục tiêu phấn đấu để tự lực giải quyết, trước mắt bằng cách phát triển rộng khắp nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, đồng thời phát triển mạnh các cây có sợi khác. Nghề trồng dâu, nuôi tằm là một nghề có truyền thống lâu đời của dân tộc ta. Hiện nay, theo lời kêu gọi của Đảng và Nhà nước, nhiều địa phương và cơ sở đang khôi phục và phát triển nghề này. Những kết quả bước đầu là đáng phấn khởi. Chúng tôi xin kiến nghị Quốc hội giao trách nhiệm cho Hội đồng Bộ trưởng có chính sách khuyến khích hướng dẫn khôi phục và phát triển mạnh mẽ nghề này ở khắp mọi nơi. Theo tính toán cứ một tơ xuất khẩu đổi được 5 sợi hoặc 10 bông. Phát triển mạnh mẽ nghề làm tơ, chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện mục tiêu 4 mét vải một đầu người trước năm 1985, tiến lên bảo đảm cho nhân dân ta mặc đủ, mặc đẹp hơn.

Đối với năng lực dệt vải đang còn chưa sử dụng ở các xí nghiệp quốc doanh kể cả của hợp doanh và tổ hợp (nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh) có thể huy động bằng cách có chính sách khuyến khích các giám đốc hoặc các chủ hãng vay ngoại tệ nhập sợi dệt những loại hàng có chất lượng cho may mặc xuất khẩu.

Theo Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, xăng dầu nhập khẩu sang năm sẽ ít hơn. Do vậy, phải đặt vấn đề tiết kiệm nghiêm ngặt bằng cách, một mặt cần soát xét lại hướng sử dụng cũng như định mức tiêu hao nhiên liệu là hết sức cần thiết; mặt khác, phải kiên quyết chấm dứt tệ ăn cắp xăng dầu của Nhà nước bằng nhiều biện pháp, kể cả áp dụng pha màu cho từng loại xăng dầu và tổ chức kiểm tra thường xuyên việc sử dụng và đối tượng sử dụng ở khắp nơi.

Về điện, theo kế hoạch, cho dù chúng ta đạt được chỉ tiêu kế hoạch sản xuất điện thì vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế quốc dân. Cho nên, song song với việc điều hòa cung cấp điện theo thứ tự ưu tiên là rất quan trọng thì cần có biện pháp triệt để tiết kiệm điện. Một biện pháp tiết kiệm tốt nhất là phục hồi tận thu tiền điện đối với mọi hộ sử dụng điện, chấm dứt việc cắt điện không có kế hoạch gây tổn hại cho sản xuất.

Ngoài ra, đề nghị Hội đồng Bộ trưởng cho tiếp tục phát triển các trạm thủy điện nhỏ và các hình thức phát điện dùng nhiên liệu tại chỗ ở những nơi có điều kiện. Đối với các tỉnh miền Trung đây là một yêu cầu rất cấp bách.

Về than, hiện nay khó khăn lớn nhất để cung cấp than cho các nơi có nhu cầu là ở khâu vận tải (còn trên 1 triệu tấn than chưa được cân đối) do vậy, cần có nhiều biện pháp để giải quyết theo phương châm: trung ương và địa phương cùng lo chuyên chở, huy động tất cả các phương tiện có thể huy động, cả cơ giới lẫn phương tiện thô sơ, cả đường bộ lẫn đường thủy. Trong sản xuất, ngành Than gặp một khó khăn là thiếu năng lực bốc và vận chuyển đất đá với khối lượng lớn gấp nhiều lần khối lượng than. Do đó, đề nghị Chính phủ xem xét tăng đầu tư và phương tiện để ngành Than có thể thực hiện chỉ tiêu thực hiện.

Về cơ khí hóa chất và một số ngành công nghiệp khác

Chúng tôi tán thành phải đẩy mạnh sản xuất cơ khí, hóa chất và một số ngành công nghiệp khác nhằm trước hết phục vụ cho nông nghiệp làm lương thực, phục vụ giao thông vận tải, cơ khí phải tập trung sức sản xuất công cụ phụ tùng thiết bị cho các ngành, phương tiện vận tải, hóa chất phải tập trung phân bón, thuốc trừ sâu, v.v.. Nói chung là các ngành công nghiệp phải lấy nông nghiệp với mục tiêu làm lương thực mà phục vụ theo tinh thần là gắn công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu.

Chúng tôi muốn nhấn mạnh về cơ khí: trong tình hình thiếu vốn vật tư như nhiều năm đã qua, việc bố trí kế hoạch sản xuất cơ khí cứ mỗi năm kế hoạch tụt dần, trước mắt là không đáp ứng những yêu cầu bức thiết cho các khâu chế biến lương thực, khâu làm đất, khâu gieo trồng thu hoạch cho nông nghiệp, về lâu dài là không tạo điều kiện để cho nông nghiệp đi lên theo hướng cơ giới hóa. Kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho ngành cơ khí trong nhiều năm đã qua là quá bé nhỏ so với tổng mức đầu tư. Năm 1982, do tình hình khó khăn về vật tư và vốn nên vốn đầu tư cho cơ khí càng rút đi, nhiều công trình tuy không to lớn nhưng rất cần thiết sẽ không có điều kiện để nhanh chóng kết thúc thi công. Nhìn cả ngành Cơ khí trong nền kinh tế hiện nay với cách đầu tư và tỷ trọng đầu tư quá nhỏ như vậy là đáng lo ngại: vì đặc điểm sản xuất ngành cơ khí là phải tích lũy trong hàng chục năm: nhà máy xây dựng và hoạt động bình thường phải hàng chục năm, đội ngũ công nhân, cán bộ kỹ thuật làm việc được phải đào tạo hàng chục năm. Nếu vì khó khăn mà giảm đầu tư hoãn các công trình, giảm bớt sản xuất thì muốn lấy lại đà phải mất hàng chục năm sau và như vậy sẽ tác động to tát đến công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Do đó, cần tạo những điều kiện về cơ sở vật chất để duy trì sản xuất cơ khí, đồng thời, cần đầu tư ở mức không ảnh hưởng đến tốc độ thi công công trình đang làm.

Về xuất khẩu, tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp bách đã được đặt ra từ nhiều năm nay. Song đến nay, kết quả còn hạn chế, kim ngạch xuất khẩu tăng rất chậm (năm vừa qua trên thực tế là không tăng), khả năng bù đắp cho khối lượng nhập khẩu rất thấp; mặt hàng xuất khẩu còn linh tinh, chưa có những mặt hàng chủ lực.

Thời gian gần đây, Nhà nước đã ban hành chính sách nhằm khuyến khích xuất khẩu động viên các ngành, địa phương và cơ sở, trên cơ sở hoàn thành nghĩa vụ đóng góp với Trung ương, có quyền làm xuất khẩu tiểu ngạch. Chính sách đó đã đưa lại những kết quả bước đầu. Một số tỉnh, thành (trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh), nhờ xuất khẩu địa phương, đã tự trang trải được một phần nhu cầu bức thiết về vật tư, hàng hóa. Việc các địa phương dùng thu nhập xuất khẩu địa phương để nhập nguyên liệu là một việc hết sức cần thiết trong lúc này. Trong thời gian tới, chủ trương này cần được tiếp tục đẩy mạnh với tinh thần mạnh dạn, giúp cho mỗi ngành, mỗi địa phương và cơ sở khai thác thế mạnh của mình để tăng nguồn hàng xuất khẩu của cả Trung ương và địa phương mình. Đồng thời, chúng tôi đề nghị Nhà nước ta sớm định ra một chiến lược xuất khẩu, bảo đảm cho địa phương và cơ sở có đầy đủ quyền làm chủ nguồn thu nhập xuất khẩu theo quy định chung của Nhà nước. Giữa Trung ương và địa phương nên có phân công rành mạch về danh mục hàng xuất khẩu.

Trong Ủy ban chúng tôi có nhiều ý kiến kiến nghị Nhà nước sớm xác định các vùng trọng điểm xuất khẩu (cũng giống như đã xác định các vùng trọng điểm lương thực...) để tập trung vốn đầu tư trong nước và thu hút vốn đầu tư của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và các nước khác, để sớm có những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Ví dụ: Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ có thể được chọn làm vùng trọng điểm xuất khẩu các sản phẩm cây công nghiệp tập trung (cao su, cà phê...); một số tỉnh duyên hải có thể là những vùng trọng điểm sản xuất hải sản; các thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố khác có thể là trọng điểm xuất khẩu hàng công nghiệp gia công và tiểu thủ công nghiệp; một số tỉnh miền núi có thể là nơi xuất khẩu các đặc sản, kể cả dược liệu, những nơi có danh lam thắng cảnh, khí hậu tốt nên chọn làm địa bàn xây dựng cơ sở du lịch. Theo tinh thần phân cấp quản lý, việc xác định các trọng điểm xuất khẩu và các cơ sơ du lịch cũng sẽ được tiến hành ở các cấp khác nhau, từ Trung ương, địa phương đến cơ sở theo quy hoạch thống nhất.

Về giao thông vận tải

Để khắc phục khâu yếu này của nền kinh tế, một mặt cần sửa chữa và tăng cường thêm phương tiện, sửa sang và mở rộng cầu đường, v.v., tóm lại là, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho ngành này. Ngành Vận tải và các ngành có lực lượng vận tải cần khắc phục những thiếu sót trong quản lý, tận dụng và sử dụng có hiệu quả các cơ sở vật chất hiện có, tiến hành hạch toán kinh doanh, phấn đấu giảm giá cước vận tải. Mặt khác đề nghị huy động tất cả mọi phương tiện cơ giới và thô sơ, Trung ương và địa phương, phân công phối hợp giữa Trung ương, địa phương và giữa các địa phương với nhau.

Một yêu cầu cấp bách để khắc phục khâu yếu giao thông vận tải là cải tiến khâu điều hành trên phạm vi toàn quốc và trong từng khu vực, nhất là các khu vực trọng yếu, có nhiều cơ sở công nghiệp, có khối lượng vận chuyển lớn về nông, lâm, ngư sản, v.v..

Để giảm bớt tình hình căng thẳng trong khâu vận tải, chúng tôi đề nghị hệ thống các cơ quan làm kế hoạch hết sức coi trọng việc cân đối giữa sản xuất, lưu thông với vận tải, quán triệt đường lối xây dựng kinh tế Trung ương đi đôi với phát triển kinh tế địa phương, cũng là một hướng giảm bớt sự căng thẳng về vận tải.

Sau hết, chúng tôi kiến nghị Chính phủ và các Bộ có liên quan quan tâm hơn nữa đến việc hướng dẫn giúp đỡ tu bổ và phát triển giao thông, vận tải, liên lạc của các địa phương, nhất là các tỉnh miền núi, các tỉnh biên giới và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đối với các vùng này, phát triển giao thông vận tải là nhân tố có ý nghĩa quyết định việc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng, an ninh.

Về phân phối - lưu thông và đời sống

Hệ thống giá đang hình thành đã bộc lộ một mâu thuẫn. Việc định giá bán lẻ trước khi định giá bán buôn khiến cho giá bán buôn được quy định sau đã “đội” giá bán lẻ. Song, vì chủ trương không điều chỉnh giá bán lẻ lần nữa, nên Chính phủ đã điều chỉnh xuống nhiều giá bán buôn các vật tư cơ bản, và như vậy, Nhà nước tiếp tục phải bù lỗ. Để giảm mức bù lỗ thì việc điều chỉnh giá phải đi đôi với soát xét lại giá thành, xây dựng các định mức kinh tế - kỹ thuật hợp lý, loại trừ những yếu tố phi lý, thậm chí bất hợp pháp. Đây là hướng cơ bản để khắc phục mâu thuẫn hiện nay trong hệ thống giá.

Thời gian qua, trong khi điều chỉnh giá, những vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ giữa giá và lương, giữa phân phối và đời sống của cán bộ, công nhân, viên chức giải quyết chưa được kịp thời. Để bổ khuyết, chúng tôi xin kiến nghị có tổ chức theo dõi, phân tích, phát hiện và phản ánh kịp thời những diễn biến trong thu nhập thực tế đời sống của cán bộ, công nhân, viên chức với lãnh đạo để có chủ trương xử lý kịp thời.

Để ổn định đời sống và thu nhập thực tế của bộ đội, cán bộ, công nhân, viên chức, Đảng và Nhà nước chủ trương lấy việc bảo đảm cung cấp với giá cả ổn định các mặt hàng thiết yếu làm biện pháp cơ bản. Rút kinh nghiệm trong thời gian qua, Ủy ban chúng tôi thấy cần có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ các ngành hữu quan và các cấp làm hết trách nhiệm của mình để thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương đó, nghiêm cấm việc tùy tiện định giá bán lẻ hoặc tùy tiện điều phối các loại quỹ hàng hóa đã được quy định sử dụng vào những mục đích khác nhau.

Hiện nay, chúng ta đứng trước một thực tế là chế độ cung cấp các hàng thiết yếu được thực hiện bằng hai hình thức. Một hình thức là cung cấp theo định lượng với giá ổn định; một hình thức khác được áp dụng ở một số nơi là chiểu theo định lượng mà bù giá cho cán bộ, nhân viên. Về hai hình thức này còn có những ý kiến khác nhau, vậy đề nghị Chính phủ xem xét để có kết luận.

Thương nghiệp quốc doanh giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo đảm cung cấp và tổ chức kinh doanh, đấu tranh quản lý thị trường, ổn định vật giá.

Để đảm đương được các nhiệm vụ đó, một mặt ngành Thương nghiệp tự mình vươn lên để khai thác nguồn hàng; mặt khác cần có sự giúp đỡ, động viên của các cơ quan nhà nước và của nhân dân. Cần giúp cho ngành Thương nghiệp chẳng những có số hàng hóa cần thiết và trong quy định để bán theo định lượng với giá ổn định, mà còn cần có khối lượng hàng hóa thích đáng để đấu tranh quản lý thị trường, điều tiết thu nhập của những tầng lớp cần điều tiết.

Để hỗ trợ cho việc ổn định tình hình phân phối, lưu thông, chúng tôi thấy cần phải tiếp tục cải tạo công thương nghiệp, đặc biệt là ở các thành phố, quản lý chặt chẽ việc đăng ký kinh doanh công thương nghiệp.

Về kết hợp kinh tế với quốc phòng

Trong giai đoạn hiện nay, cách mạng nước ta có hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thể hiện như thế nào sự gắn bó giữa hai nhiệm vụ đó trong các kế hoạch kinh tế vẫn còn là một vấn đề còn phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện thêm. Trong dự án kế hoạch trình Quốc hội và trong báo cáo bổ sung của Chính phủ, chúng tôi thấy vấn đề này chưa đủ rõ.

Ủy ban chúng tôi chỉ xin lưu ý Chính phủ mấy điểm như sau:

1. Chăm lo đời sống của bộ đội. Đây là một biện pháp động viên và giúp đỡ thanh niên của chúng ta làm tốt nghĩa vụ quân sự được quy định trong đạo luật sẽ được thông qua tại kỳ họp này của Quốc hội.

2. Có kế hoạch huy động bộ đội cùng toàn dân tham gia xây dựng kinh tế; đồng thời bảo đảm công ăn việc làm cho quân nhân xuất ngũ sau khi hết hạn nghĩa vụ.

3. Có kế hoạch xây dựng các tỉnh biên giới, các tỉnh trọng điểm thành những đơn vị vững mạnh toàn diện, hỗ trợ cho chính quyền địa phương giải quyết những vấn đề về sản xuất và đời sống.

4. Trong sản xuất và xây dựng, luôn luôn phải có các phương án dự phòng tình hình xấu nhất; dù khó khăn cũng phải cố gắng có dự trữ của Nhà nước và trong nhân dân.

Về sắp xếp lao động và biên chế

Để thực hiện những phương hướng về lao động và biên chế ghi trong báo cáo của Chính phủ, chúng tôi thấy cần có các biện pháp cụ thể hơn. Cơ quan phụ trách giúp Chính phủ điều động, sắp xếp lao động cần bàn bạc kỹ với các ngành và các địa phương.

Vấn đề giảm biên chế được đề ra từ nhiều năm nay nhưng biên chế chẳng những không giảm mà tổng biên chế vẫn tăng, bộ máy nhà nước càng thêm cồng kềnh, chúng tôi kiến nghị Chính phủ xem xét lại toàn diện vấn đề này và có những biện pháp có hiệu lực.

PHẦN THỨ BA

VỀ TỔNG QUYẾT TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1980,
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGÂN SÁCH NĂM 1981
VÀ DỰ KIẾN NGÂN SÁCH NĂM 1982

A- Tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1980

Năm 1980, ngân sách nhà nước phải phục vụ những nhiệm vụ nặng nề: khắc phục hậu quả hai cuộc chiến tranh biên giới do bọn phản động... gây ra; đáp ứng nhu cầu về vốn cho sự phát triển kinh tế và văn hóa trong năm cuối của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980); chống thiên tai bão lụt ở miền Bắc.

Ngân sách nhà nước đã bảo đảm các yêu cầu đó với tổng số thu quyết toán là 11.882.291.498 đồng, bằng 103,8% so với dự toán được Quốc hội thông qua; tổng số chi quyết toán là 12.002.827.675 đồng, bằng 104,8% so với dự toán được Quốc hội thông qua; số bội chi là 120.536.177 đồng. Trong tình hình năm 1980, số bội chi đó là khó tránh.

B- Về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 1981

Dự toán ngân sách nhà nước năm 1981 được thực hiện trong tình hình kinh tế nước nhà có những diễn biến không đồng đều. Trong khi sản xuất nông nghiệp và thu mua nông sản, sản xuất tiểu thủ công nghiệp có chuyển biến khá thì tình hình giá cả và thị trường diễn biến phức tạp. Những dự kiến ban đầu về thu chi tài chính dựa trên các phương án giá - lương - tiền - hàng chưa được tính toán kỹ, nên không thực hiện được. Theo tạm tính ngân sách bội chi 3,9 tỷ đồng, bằng 19% tổng số chi của ngân sách. Số bội chi đó là kết quả trực tiếp của những nhân tố sau đây:

Những yếu tố khách quan như hậu quả thiên tai ở miền Bắc cuối năm 1980; nhập khẩu lương thực, phân đạm và nhiều vật tư khác giảm nhiều, làm cho tình hình cung cấp vật tư căng thẳng, ngân sách không những giảm nguồn thu mà còn phải tăng chi.

Nhưng quan trọng hơn vẫn là các nhân tố chủ quan liên quan đến việc sản xuất không đạt mức kế hoạch, những tính toán không sát của việc điều chỉnh giá và thiếu sót trong quản lý thu chi ngân sách.

Việc quản lý tài chính, vật tư, hàng hóa còn nhiều sơ hở gây mất mát nhiều. Trong hai đợt kiểm kê 30-5 và 30-9 (tức là kiểm kê trước khi bán giá mới), nhiều vật tư hàng hóa của Nhà nước đã bị rút ra theo giá thấp trước khi điều chỉnh, để bán với giá cao, phần chênh lệch đó không thu được vào ngân sách nhà nước. Ngành Tài chính còn để thất thu khá lớn về thuế doanh nghiệp, lợi tức và thuế sát sinh. Nợ thuế nông nghiệp trong nông dân còn nhiều.

Những nhân tố kể trên hợp lại đã gây thiếu hụt lớn cho ngân sách. Nếu không nhờ tăng thêm một số khoản thu khác, (trong đó, thuế công thương nghiệp tăng gần 60% so với kế hoạch và tăng 2,4 lần so với năm 1980) thì số bội chi chắc còn lớn hơn nữa. Sự bội chi của ngân sách có ảnh hưởng quyết định đến sự bội chi tiền mặt với tốc độ nhanh trong năm vừa qua.

Bị bội chi nhiều không lường trước được cộng với việc tiến hành không kịp thời việc bù lỗ, bù giá, cấp phát và tín dụng vốn lưu động nên ngành Tài chính và Ngân hàng trong năm qua đã không thể phát huy đầy đủ tác dụng tích cực đối với sản xuất, kinh doanh và đời sống. Giá cả chưa ổn định, ngân sách và tiền mặt bội chi lớn để lại những vấn đề phải giải quyết trong năm tới, trong đó có khó khăn trong việc lập dự toán ngân sách năm 1982 để trình Quốc hội.

C- Về ngân sách năm 1982

Việc xây dựng ngân sách nhà nước cho năm 1982 được tiến hành trong tình hình kinh tế trong nước và quan hệ kinh tế với nước ngoài có nhiều biến động, nguồn thông tin còn thiếu chính xác, giá cả chưa ổn định.

Trong điều kiện như vậy, Chính phủ báo cáo với Quốc hội những con số thu, chi tạm tính và xin phép cho dùng những con số tạm tính để làm việc với các ngành, các cấp.

Tính theo các chỉ tiêu kế hoạch nhà nước đã trình Quốc hội thì số bội chi chưa tính đến số dự kiến tăng thu là 5.000 triệu đồng.

Để bù đắp vào số bội chi dự kiến đó, Chính phủ đề nghị phấn đấu tăng thêm các khoản thu trong nước là 5.000 triệu đồng, trong đó tăng thu từ khu vực kinh tế quốc doanh 2.800 triệu đồng, từ khu vực kinh tế tập thể và khu vực kinh tế cá thể là 700 triệu đồng (toàn bộ là từ thuế công thương nghiệp); thu từ phát hành công trái quốc gia là 1.500 triệu đồng.

Đối với những dự kiến của Chính phủ, Ủy ban chúng tôi xin có ý kiến như sau:

1. Cần soát xét kỹ hơn nữa để tiết kiệm các khoản chi trên tất cả khoản mục, từ đó chủ động giảm bội chi ngay từ khi phân bổ ngân khoản cho các ngành, các cấp. Để làm việc này, như bên trên đã trình bày, cần soát xét và quản lý chặt chẽ các định mức và giá thành. Đi đôi với việc sắp xếp lại xây dựng cơ bản cần có biện pháp để triệt để tiết kiệm vốn đầu tư xây dựng cơ bản.

Một trong những hướng tiết kiệm chi là tiết kiệm chi phí hành chính mà quan trọng nhất là giảm biên chế. Bên cạnh đó, cần sắp xếp lại tổ chức, bỏ bớt các khâu trung gian, không cần thiết, giảm bớt giấy tờ, hội họp, v.v..

2. Để tăng nguồn thu quốc doanh thì ngoài việc quản lý chặt chẽ định mức và giá thành, cần thi hành những biện pháp bảo đảm hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất, tiêu thụ, giao nộp sản phẩm và nộp ngân sách, bảo vệ tốt tài sản nhà nước, chống mất mát, hư hao.

Đối với khu vực kinh tế tập thể và kinh tế cá thể, chúng tôi thấy khả năng tăng thu có thể còn lớn hơn. Nhiều hộ công thương nghiệp tư nhân và cá thể, trong thời gian qua đã tăng thu nhập rất đáng kể do những biến động về giá cả và thị trường. Cần phải điều tiết phần thu nhập tăng thêm của họ. Vì vậy, đề nghị tăng phần thu thuế công thương nghiệp, đồng thời soát xét một cách toàn diện chính sách thuế công thương nghiệp, xây dựng chính sách mới cho phù hợp với tình hình mới, góp phần thúc đẩy công tác cải tạo công thương nghiệp.

Đối với vấn đề phát hành công trái quốc gia, chúng tôi chưa thấy cơ sở chắc chắn để đạt con số thu 1.500 triệu đồng. Cần nghiên cứu thêm tình hình thu nhập của các tầng lớp xã hội, xác định hướng vận động; cần nghiên cứu chủ trương và biện pháp phát hành cùng tổ chức chuyên trách. Để công dân hưởng ứng mua công trái, cần bảo đảm lợi ích hợp lý của người mua công trái trong điều kiện sức mua của đồng tiền chưa được củng cố.

3. Một số đồng chí phụ trách các tỉnh, thành đề nghị Chính phủ nghiên cứu chủ trương ổn định nghĩa vụ tài chính của các địa phương trong từng thời kỳ kế hoạch hoặc giao trách nhiệm cho địa phương cân đối thu chi của mình trên cơ sở ổn định tỷ lệ điều tiết.

Cuối cùng Ủy ban chúng tôi đề nghị Quốc hội chấp nhận đề nghị của Chính phủ: cho phép dùng những con số tạm tính về ngân sách năm 1982 để làm việc với các ngành các cấp và sẽ quyết định về dự toán ngân sách nhà nước năm 1982 vào kỳ họp gần nhất của Quốc hội. Mặt khác, xin đề nghị Quốc hội giao trách nhiệm cho Hội đồng Bộ trưởng, từ nay đến khi trình dự toán, tính toán thêm để ngân sách nhà nước năm 1982 được cân đối vững chắc hơn.

PHẦN THỨ TƯ

VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 1982

Ủy ban chúng tôi tán thành báo cáo của Chính phủ về các phương hướng, nhiệm vụ và các mục tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1982, nhưng cần cụ thể hóa hơn nữa cho từng nhiệm vụ và mục tiêu.

Báo cáo của Chính phủ nêu: nhân tố có ý nghĩa quyết định việc thực hiện thắng lợi kế hoạch là công tác quản lý và chỉ đạo điều hành. Rút kinh nghiệm những năm qua, nhất là năm 1981, chúng tôi cho rằng, việc quản lý và chỉ đạo điều hành cần thật sự tập trung vào các nhiệm vụ, mục tiêu quan trọng nhất, trước hết là nhiệm vụ tự lực giải quyết vấn đề lương thực.

Để thực hiện phương châm “Trung ương và địa phương và cơ sở cùng làm”, trước mắt cần soát xét và bổ sung các quy định bảo đảm quyền làm chủ các địa phương và cơ sở về tài chính, vật tư, tiền vốn, lao động theo quy định của Nhà nước. Trong phạm vi chức năng của mình, các ngành thuộc Hội đồng Bộ trưởng tăng cường giúp đỡ, hướng dẫn, kiểm tra công việc của các địa phương và cơ sở, giúp địa phương và cơ sở giải quyết các vấn đề phát sinh và uốn nắn những lệch lạc, nếu có.

Để thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, cần có biện pháp thiết thực phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động thông qua các cơ quan dân cử, các đoàn thể nhân dân trong Mặt trận Tổ quốc đông đảo cán bộ quản lý và cán bộ làm công tác khoa học, kỹ thuật. Bằng hình thức này và các hình thức khác, Nhà nước ta sẽ phát huy được sức mạnh của cả nước vào công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, giống như trước đây động viên được sức mạnh tổng hợp của cả nước đánh thắng đế quốc Mỹ và bọn phản động...

Về vấn đề chống tiêu cực trong đời sống kinh tế - xã hội được đề ra từ mấy năm nay, song tình hình không những không giảm mà còn phát triển nặng nề thêm. Đây là một cản trở lớn cho việc thực hiện kế hoạch và ngân sách nhà nước. Đề nghị Hội đồng Bộ trưởng sử dụng quyền hạn của mình, phát huy sức mạnh của Nhà nước chuyên chính vô sản để trong năm 1982 tạo một sự chuyển biến về vấn đề này, trước mắt là bảo vệ nghiêm ngặt tài sản xã hội chủ nghĩa, nghiêm trị các hoạt động đầu cơ, buôn lậu, phá rối thị trường. Việc ban hành pháp lệnh hoặc luật về vấn đề này sẽ hỗ trợ mạnh mẽ cho đấu tranh chống tiêu cực. Trước tình hình và nhiệm vụ mới, đề nghị Nhà nước sớm ban hành văn bản pháp luật về chính sách tiết kiệm. Trên cơ sở đó, phát động phong trào thi đua sản xuất và tiết kiệm trong các cơ quan xí nghiệp, trong quân đội và trong nhân dân.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Trên đây là những ý kiến của Ủy ban chúng tôi trình Quốc hội. Ủy ban chúng tôi tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta nắm chắc khâu quản lý, điều hành, các ngành, các cấp từ Trung ương, địa phương đến cơ sở phát huy quyền chủ động, sáng tạo, khai thác các khả năng to lớn của đất nước, nhất định Nhà nước và nhân dân ta sẽ tạo ra được những chuyển biến mới về kinh tế-xã hội, hoàn thành thắng lợi kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước năm 1982.

 

Toàn văn Văn kiện
Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội