VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 1) 1981 - 1983

 

THUYẾT TRÌNH
CỦA ỦY BAN KINH TẾ, KẾ HOẠCH VÀ NGÂN SÁCH CỦA QUỐC HỘI
(Do ông Đào Văn Tập, Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách của Quốc hội trình bày
tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa VII, ngày 25-6-1982)
 

 

Kính thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa VII, tháng 12 năm 1981, Quốc hội đã thông qua phương hướng tài chính nhà nước năm 1982. Tại kỳ họp này, Quốc hội xem xét và quyết định dự toán ngân sách nhà nước năm 1982 do Hội đồng Bộ trưởng đệ trình.

Uỷ ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách của Quốc hội đã làm việc trong các ngày 19, 20, 21 tháng 6 và xin trình Quốc hội một số ý kiến sau khi thẩm tra báo cáo dự toán nói trên.

Bước vào năm 1982, Nhà nước và nhân dân ta đứng trước những nhiệm vụ kinh tế lớn như sắp xếp lại sản xuất và xây dựng, phát triển sản xuất và ổn định đời sống; thiết lập trật tự mới trên lĩnh vực phân phối lưu thông; tiếp tục đổi mới từ cơ chế quản lý hành chính bao cấp sang cơ chế quản lý theo nguyên tắc hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa... Trong 6 tháng qua, trong khi thực hiện các nhiệm vụ kể trên đã có thêm một số tiến bộ, song tình hình kinh tế - xã hội chưa có chuyển biến rõ rệt. Những khó khăn và mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế chưa được khắc phục, có mặt diễn biến và bộc lộ gay gắt thêm như lương thực, năng lượng, vật tư, nguyên liệu vận tải, tiền mặt, ngoại tệ, v.v..

Những khó khăn và mất cân đối nói trên phản ánh rõ nét qua việc bố trí các khoản thu chi của ngân sách nhà nước năm 1982.

Dự toán ngân sách nhà nước trình ra Quốc hội lần này thể hiện cố gắng của Nhà nước là giảm một bước bội chi ngân sách, góp phần làm ổn định dần dần tình hình sản xuất và đời sống.

Tổng số thu của ngân sách đã tăng thêm trên 4 tỷ đồng so với dự toán đầu năm và bằng 220% so với ngân sách thực hiện năm 1981 (chủ yếu là do giá cả). Toàn bộ số tăng thu này là từ nguồn thu trong nước. Ngoài số tăng thu từ kinh tế quốc doanh và thu từ kinh tế tập thể và cá thể còn có khoản thu mới từ xổ số kiến thiết do có bước chấn chỉnh lại việc quản lý.

Trong lúc dự kiến tăng thu trên 4 tỷ đồng thì tổng số chi dự kiến chỉ tăng trên 3 tỷ đồng, nên dự kiến giảm bội chi ngân sách từ 5 tỷ đồng (theo dự toán đầu năm) còn 4 tỷ đồng.

Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy dự toán ngân sách nhà nước năm 1982 còn có những vấn đề lớn sau đây:

1. Cần tạo những cơ sở vững chắc hơn cho các chỉ tiêu về thu, chi của ngân sách nhà nước

a) Về nguồn thu

- Thu nhập thuần túy từ kinh tế quốc doanh năm 1982 dự kiến là 21.400 triệu đồng so với tổng số thu trong nước là 33.600 triệu đồng, chiếm 63,69%.

Trong 6 tháng đầu năm 1982 số thu chỉ đạt 41,8% kế hoạch năm. Hiện nay, nhiều xí nghiệp đang gặp khó khăn trong sản xuất do thiếu nguyên vật liệu, năng lượng..., nhiều sản phẩm có tích luỹ lớn cho ngân sách như vải, thuốc lá, đường, bia, xe đạp, v.v. đạt kế hoạch thấp. Mặt khác, tình hình tiêu thụ sản phẩm, tổ chức thanh toán giữa các ngành, các xí nghiệp và thu nộp ngân sách thiếu chặt chẽ và không kịp thời. Một số hàng hóa sản xuất ra bị ứ đọng, tiêu thụ chậm do giá thành cao, phẩm chất kém lại không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.

Tuy một số sản phẩm chủ yếu như vải, giấy, đường... đã điều chỉnh xuống so kế hoạch đầu năm, nhưng nhiệm vụ thu 6 tháng cuối năm còn rất lớn, đòi hỏi phải có sự nỗ lực giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong sản xuất công nghiệp, trong các ngành nông lâm nghiệp, giao thông vận tải, thương nghiệp và ngoại thương thì nguồn thu quốc doanh dự kiến mới được bảo đảm chắc chắn.

- Thu thuế công thương nghiệp:

Dự toán năm 1982 đã bố trí số thu là 4.500 triệu đồng, bằng 13,39% trong tổng số thu trong nước.

Công tác thu thuế công thương nghiệp được tăng cường một bước, nhưng so với nhiệm vụ cả năm thì trong 6 tháng đạt còn thấp, mới chỉ bằng 39,1%. Tình trạng thất thu còn rất lớn, mới thu trên 55-60% số hộ có hoạt động sản xuất, kinh doanh. Một số địa phương chưa tiến hành thu thuế hàng hóa thêm đối với 22 mặt hàng. Thuế sát sinh còn để thất thu nghiêm trọng.

Nhiệm vụ còn lại về thu thuế công thương nghiệp 6 tháng cuối năm còn rất lớn, đòi hỏi phải tăng cường tổ chức thu thuế và nghiêm chỉnh thực hiện các chính sách thuế hiện hành.

- Thu thuế nông nghiệp:

Trong 6 tháng đầu năm các địa phương đã có nhiều cố gắng trong việc thu thuế nông nghiệp, đạt 65,9% giá trị bằng tiền, nhập kho được 59,1% kế hoạch năm.

Bên cạnh nhiều tỉnh đạt và vượt kế hoạch, còn nhiều tỉnh tiến độ thu còn chậm. Tình trạng thất thu còn lớn do còn hiện tượng giấu diện tích, giấu sản lượng, khai thêm nhân khẩu, chưa đưa diện tích tăng vụ đã thành tập quán vào diện tích tính thuế, còn miễn giảm tràn lan, cán bộ thu thuế còn yếu và thiếu. Mức thu thuế tính chung cả nước chỉ đạt khoảng 6% tổng sản lượng, như vậy là quá thấp.

b) Về các khoản chi

Nói chung, các khoản chi dự kiến trong dự toán ngân sách nhà nước năm 1982 được bố trí trên tinh thần tiết kiệm và thể hiện một phần phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng lo liệu".

Riêng hai khoản chi sau đây chúng tôi thấy việc bố trí cần được xem xét thêm:

- Chi về xây dựng cơ bản:

Trong dự toán ghi là 10.150 triệu đồng trên cơ sở kế hoạch khối lượng và danh mục công trình đã được soát xét một bước nhằm tập trung tiền vốn cho những công trình trọng điểm của Nhà nước. Thực hiện kế hoạch này sẽ khắc phục được một bước tình trạng phân tán, kéo dài trong xây dựng cơ bản.

Nhưng trong dự toán này, việc bố trí vốn chưa tương xứng với các mục tiêu được Nhà nước quy định cho các công trình xây dựng cơ bản, việc chuyển đổi từ giá cũ sang giá mới áp dụng hệ số bình quân chưa thật phù hợp với thực tế.

- Về chi cấp bổ sung vốn lưu động cho các xí nghiệp, trong ngân sách chỉ bố trí 1.350 triệu đồng; chúng tôi thấy còn thấp, khó bảo đảm cho các xí nghiệp hoạt động theo kế hoạch.

Tóm lại, khoản thu quốc doanh do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có việc do các ngành sản xuất và phân phối lưu thông không đạt kế hoạch, nên chưa được bảo đảm một cách chắc chắn, còn thuế công thương nghiệp và thuế nông nghiệp còn bị thất thu nhiều. Khoản chi về xây dựng cơ bản và cấp vốn lưu động bổ sung còn thấp, cần được xem xét thêm.

2. Về cơ cấu của ngân sách nhà nước

Cơ cấu của ngân sách nhà nước chưa hợp lý, phản ánh tình hình kinh tế hiện nay còn nhiều khó khăn:

- Các khoản chi bù lương, bù giá chiếm 34% trong tổng số chi của ngân sách. Trong lúc chưa cải tiến tiền lương, khoản chi này nhằm góp phần ổn định tình hình thu nhập và đời sống, bảo đảm cung cấp theo tiêu chuẩn định lượng cho cán bộ, công nhân viên, học sinh, lực lượng vũ trang, cán bộ phường, xã...

Điều mâu thuẫn dễ thấy là, trong khi ngân sách phải chi bù lương cho công nhân, viên chức, nhưng khoản chi bù lại không được hạch toán vào giá thành sản phẩm, làm cho việc đánh giá hoạt động các xí nghiệp bị sai lệch. Đối tượng cung cấp như trên vốn rất rộng, nhưng vừa qua lại mở rộng cho người trồng rau, làm nghề muối, nghề cá, nghề thủ công được hưởng lương thực theo giá cung cấp, nhưng sản phẩm lại không bán hết cho Nhà nước. Trong thực hiện, nhiều địa phương áp dụng khác biệt nhau về định lượng và giá cả. Nếu cộng khoản bù lương này với quỹ lương thường xuyên thì thực chất, quỹ lương lên đến gần 30 tỷ đồng, chiếm trên 50% trong tổng số chi của ngân sách.

- Các khoản chi về tích luỹ chiếm 27% trong tổng số chi của ngân sách (trong đó có 19% cho xây dựng cơ bản) là tỷ lệ còn thấp trong bước đi ban đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

- Trong tình hình các chỉ tiêu thu, chi của ngân sách nhà nước còn biến động, nhất là các khoản thu còn thiếu cơ sở vững chắc, nhưng dự bị phí chỉ ghi 1.500 triệu đồng, chiếm 2,8% trong tổng số chi, như vậy là quá mỏng.

3. Về số bội chi ngân sách

Do những khó khăn của nền kinh tế và do những thiếu sót về quản lý, ngân sách nhà nước hàng năm đều bội chi. Năm 1980, chỉ bội chi 1%; năm 1981 đã lên 18,4% và theo dự kiến năm 1982, số bội chi còn 7,6% so với tổng số chi.

Bội chi ngân sách liên tiếp trong nhiều năm kéo theo bội chi tiền mặt và gây sức ép mạnh đến giá cả.

Trong 5 năm 1976 - 1980, tiền lưu thông tăng bình quân 23,6%, riêng trong năm 1981 tăng 70% so với năm 1980. Tuy mức tăng này có phần để đáp ứng nhu cầu tăng giá, nhưng đó là tốc độ cao, không bình thường.

Giá cả tiếp tục biến động, chỉ số giá cả 6 tháng đầu năm 1982 tăng 66,8% so với cùng kỳ năm trước (theo báo cáo của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước).

Trong khi các chỉ tiêu về thu, chi như trên đã trình bày còn thiếu cơ sở vững chắc và tình hình giá cả chưa hết biến động thì việc giảm số bội chi được đề nghị là có ý nghĩa tích cực, nhưng điều đó đòi hỏi mức phấn đấu rất cao của các ngành, các cấp, các xí nghiệp cũng như sự nỗ lực của ngành tài chính.

Để chấp hành tốt các chỉ tiêu thu, chi ngân sách nhà nước năm 1982, phấn đấu giảm bội chi và tiến tới thăng bằng ngân sách trong những năm sắp tới, Uỷ ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách xin kiến nghị Quốc hội xem xét mấy vấn đề chủ yếu sau đây:

1. Trong toàn bộ công tác quản lý thu chi ngân sách hiện nay phải lấy việc tăng thu là biện pháp cơ bản nhất. Phải làm cho các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở quán triệt tinh thần kiên quyết tăng thu để trang trải các khoản chi. Cần tập trung sức chống thất thu ở mọi thành phần kinh tế, từ quốc doanh, tập thể đến tư nhân và cá thể. Chúng tôi đề nghị Quốc hội xác định số dự thu do Hội đồng Bộ trưởng báo cáo là chỉ tiêu tối thiểu và phải phấn đấu vượt chỉ tiêu đó. Uỷ ban chúng tôi thấy rằng khả năng tăng thu của ta còn lớn, cần ra sức khai thác.

Trước hết, trong khu vực kinh tế quốc doanh là nơi cung cấp nguồn thu quan trọng nhất (chiếm 2/3 tổng số thu trong nước). Uỷ ban chúng tôi xin đề nghị nghiên cứu tăng thu từ khu vực này. Một mặt, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm và chi phí lưu thông. Báo cáo của Chính phủ đã nêu rõ là trong 6 tháng đầu năm nay đều tăng vượt quá cả kế hoạch dự trù cho cả năm 1982. Mặt khác, đề cao kỷ luật giao nộp tài chính (đi đôi với giao nộp sản phẩm). Ở đây, điều quan trọng nhất là phải tăng cường khâu chỉ đạo, điều hành giúp cho các cơ sở kinh tế quốc doanh gỡ bỏ những khó khăn, vướng mắc, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất, kinh doanh.

Thứ hai là, bảo đảm và tăng thu thuế công thương nghiệp. Dự án của Hội đồng Bộ trưởng trình Quốc hội dự định tăng thu gấp đôi so với năm 1981. Đó là một cố gắng, song chúng tôi nghĩ rằng tỷ lệ tăng như vậy còn thấp. Mọi người đều biết trong thời gian qua các hộ kinh doanh công thương nghiệp đều tăng thu nhập lên gấp nhiều lần do những biến động của thị trường, giá cả và do những sơ hở trong quản lý của Nhà nước ta. Nghị quyết của Đảng và Nhà nước đã nhiều lần nhấn mạnh cần phải điều tiết những khoản thu nhập không hợp lý và phi pháp của những kẻ lợi dụng khó khăn của Đảng, Nhà nước và nhân dân để làm giàu. Do vậy, việc tăng nguồn thu thuế công thương nghiệp theo đúng chính sách trong lúc này là một việc làm có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, tài chính và xã hội. Muốn thực hiện được mục tiêu này, trước mắt cần phải củng cố và tăng cường bộ máy và tăng cường chỉ đạo công tác thuế nói chung, và thuế công thương nghiệp nói riêng. Trên cơ sở giải quyết sớm và dứt điểm việc phân cấp ngân sách giữa Trung ương và địa phương, cần đề cao trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện chính sách và thu thuế ở địa phương, phát huy quyền lực của Nhà nước chuyên chính vô sản, kiên quyết chống trốn thuế, lậu thuế và các hành động vi phạm khác đối với chính sách thuế của Nhà nước. Hội đồng Bộ trưởng tổ chức chỉ đạo và kiểm tra công tác thuế công thương nghiệp kết hợp với quản lý thị trường ở các nơi trọng điểm, trước hết là các thành phố lớn. Có thể rút một số cán bộ trong biên chế để tăng cường cán bộ có đủ tiêu chuẩn phẩm chất và năng lực cho ngành thuế. Chúng tôi nghĩ rằng, bằng các biện pháp trên, có thể phấn đấu tăng chỉ tiêu thu thuế công thương nghiệp lên thêm khoảng 1.000 triệu đồng.

Chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh hai nguồn thu nói trên. Còn có các nguồn thu khác mà báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng đã đề cập.

2. Đi đôi với phấn đấu tăng thu, cần quản lý tốt các khoản chi ngân sách. Ở đây chúng tôi chỉ xin trình ý kiến về hai chỉ tiêu lớn. Đó là khoản 18 tỷ đồng bù giá, bù lương và khoản hơn 10 tỷ đồng đầu tư xây dựng cơ bản.

Trong khi Đảng và Nhà nước còn phải tạm thời giữ biện pháp bù lương, bù giá thì điều cơ bản là phải làm việc bù lương, bù giá được sử dụng một cách đích đáng, góp phần ổn định tình hình kinh tế và đời sống của cán bộ, công nhân, viên chức, bộ đội... Cần khắc phục khuynh hướng bù một cách tràn lan hoặc tùy tiện định ra các mức bù giá, bù lương. Phải bảo đảm bù lương, bù giá đúng đối tượng, đúng chính sách. Đồng thời, khắc phục khuynh hướng quá thiên về bù giá, bù lương, thiếu cố gắng hết mức trong việc nắm nguồn hàng để bảo đảm cung cấp theo định lượng và giá cả như chính sách nhà nước đã quy định. Không quản lý chặt chẽ việc bù giá, bù lương thì khoản chi này có thể sẽ vượt mức dự trù của ngân sách. Mặt khác, chúng tôi xin kiến nghị Quốc hội giao trách nhiệm cho Hội đồng Bộ trưởng nghiên cứu để sớm thực hiện được việc cải cách giá cả và tiền lương, giảm bớt đến mức thấp nhất khoản bù giá hiện đang là một điểm yếu trong ngân sách Nhà nước ta.

Về khoản chi xây dựng cơ bản cho năm 1982, qua làm việc, chúng tôi thấy giữa Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính hình như chưa có sự nhất trí về tính toán tổng mức. Về điểm này, chúng tôi đề nghị Hội đồng Bộ trưởng thuyết minh thêm để Quốc hội rõ. Về phần mình, Uỷ ban chúng tôi đề nghị Hội đồng Bộ trưởng rà xét thêm danh mục các công trình xây dựng cơ bản theo tinh thần kiên quyết tập trung dứt điểm các công trình trọng điểm và cấp bách nhất, sắp xếp lại sản xuất và xây dựng để chỉ tiêu về xây dựng cơ bản cuối cùng trình Quốc hội giữ được quan hệ thích đáng giữa các hoạt động chính của nền kinh tế. Trong tình hình kinh tế, tài chính của nước nhà hiện nay, chúng tôi thấy giữ tổng mức đầu tư do Nhà nước chi ra như báo cáo dự án ngân sách của Hội đồng Bộ trưởng là thích hợp. Phần vốn còn lại, chúng tôi đề nghị thực hiện phương châm trung ương và địa phương cùng làm, Nhà nước và nhân dân cùng làm, huy động thêm công sức và vốn của nhân dân vào các công trình xây dựng đã được cấp có thẩm quyền xét duyệt. Nhiều đồng chí phụ trách các địa phương trong Uỷ ban chúng tôi đã đưa ra những dẫn chứng nói lên khả năng này thực sự là có (ví dụ: công trình thủy điện Trị An ở Đồng Nai đang dựa vào sự đóng góp công sức và tiền của nhân dân nhiều tỉnh thành ở miền Nam).

3. Cơ sở cuối cùng của nền tài chính quốc gia vẫn là đẩy mạnh sản xuất phát triển để tạo nguồn thu vững chắc. Trên vấn đề này, Uỷ ban chúng tôi xin đề nghị Quốc hội lưu ý thêm Hội đồng Bộ trưởng vấn đề tăng cường công tác chỉ đạo và điều hành và đổi mới quản lý.

Trong những tháng cuối năm 1982, cần đẩy mạnh các công tác sắp xếp lại cơ cấu sản xuất, và xây dựng, giải quyết một số vấn đề cấp bách trong sản xuất. Cần hết sức coi trọng công tác chỉ đạo, điều hành, tập trung vật tư, nguyên liệu, năng lượng, tiền vốn cho sản xuất lương thực và thực phẩm, cho sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu; những mặt hàng đem lại nguồn thu cho ngân sách. Vận tải vẫn là một khâu yếu đang gây nhiều ách tắc cho sản xuất và lưu thông. Việc phải điều chỉnh xuống mức sản xuất vải và một số mặt hàng khác trong năm nay khiến chúng ta nhớ lại việc sản xuất vải năm ngoái hụt mức kế hoạch đã gây tác động đến nguồn thu của ngân sách như thế nào. Chúng tôi kiến nghị Hội đồng Bộ trưởng giao trách nhiệm cho Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước nắm chắc tình hình sản xuất, tập trung sức chi viện cho các ngành, các địa phương, các cơ sở sản xuất phát triển mạnh các mặt hàng có điều kiện và khả năng thực tế để bù vào sự hụt mức của các mặt hàng không bảo đảm chỉ tiêu kế hoạch sản xuất.

Mặt khác, vẫn cần tiếp tục tháo gỡ các vướng mắc đi đôi với uốn nắn những lệch lạc trong sản xuất, kinh doanh, kể cả việc xuất khẩu địa phương. Các ngành, các địa phương và cơ sở đang trông đợi Hội đồng Bộ trưởng tiếp tục ban hành những quy định cụ thể hóa và bổ sung cho các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về quản lý kinh tế, trong đó có các kết luận mới đây của Bộ Chính trị về Quyết định 25/CP nhằm tăng cường lãnh đạo tập trung thống nhất đi đôi với phát huy tính chủ động của các xí nghiệp.

4. Tăng cường quản lý và đề cao kỷ luật tài chính

Tình hình kinh tế, tài chính nước nhà còn nhiều khó khăn càng đòi hỏi tăng cường quản lý và đề cao kỷ luật tài chính.

Căn cứ tình hình kinh tế, tài chính trong thời gian qua, chúng tôi tán thành cần đề cao tính thống nhất của hệ thống tài chính nhà nước và quyền quản lý tập trung của Hội đồng Bộ trưởng. Việc phân cấp ngân sách cho địa phương, việc xác lập quyền tự chủ tài chính cho các xí nghiệp không được làm yếu tính thống nhất của hệ thống tài chính và quyền quản lý tập trung của Trung ương.

Vì vấn đề bảo đảm và tăng thu ngân sách là vấn đề cấp bách và có ý nghĩa quyết định trong công tác tài chính hiện nay, cho nên chúng tôi xin kiến nghị Hội đồng Bộ trưởng kiểm tra chặt chẽ việc chấp hành các chỉ tiêu về thu ngân sách từ cơ quan quản lý tài chính Nhà nước là Bộ Tài chính, đến các ngành, các cấp và các xí nghiệp. Phù hợp với phương châm: chỉ tiêu dùng trong phạm vi sản xuất cho phép, chúng tôi nghĩ cũng cần chỉ đạo các ngành, các địa phương và cơ sở chi tiêu trong phạm vi các nguồn thu cho phép (kể cả nguồn thu do Trung ương cấp và nguồn thu của địa phương và cơ sở).

Trong quản lý chi tiêu ngân sách cũng cần để cao kỷ luật; bổ sung các quy định để thực hành chế độ tiết kiệm như một quốc sách; tiếp tục đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống kinh tế - xã hội, tăng cường quản lý thị trường và giá cả, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện ngân sách nhà nước.

Sau khi đã trình những ý kiến trên đây, Uỷ ban chúng tôi trân trọng đề nghị Quốc hội xem xét và quyết định ngân sách nhà nước năm 1982 như sau:

Tổng số thu ngân sách năm 1982 là 48.250 triệu đồng được coi là mức tối thiểu; phấn đấu vượt số dự thu đó để giảm số bội chi, hoặc nếu tình hình bắt buộc có phải tăng chi thì cũng không làm ngân sách bội chi quá số 4 tỷ mà Hội đồng Bộ trưởng đã đề nghị.

Tổng số chi ngân sách là 52.250 triệu đồng.

Theo tinh thần đó, ngân sách nhà nước năm 1982 và những năm sau phải trở thành một công cụ phục vụ đắc lực các mục tiêu kinh tế và xã hội do Đại hội lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra.       

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội