VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 1) 1981 - 1983

 

BÁO CÁO
CÔNG TÁC CỦA HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC TẠI KỲ HỌP THỨ 4, QUỐC HỘI KHÓA VII*

 

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Chúng tôi xin báo cáo với Quốc hội về công tác của Hội đồng Nhà nước, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban thường trực của Quốc hội, từ kỳ họp thứ 3 của Quốc hội đến nay.

I- VỀ CÔNG TÁC LẬP PHÁP

Trong phiên họp ngày 26 và 27-8-1982, Hội đồng Nhà nước đã thông qua kế hoạch xây dựng pháp luật 6 tháng cuối năm 1982, đã giao cho Hội đồng Bộ trưởng và Uỷ ban pháp luật của Quốc hội chịu trách nhiệm thực hiện kế hoạch này.

Trong các phiên họp ngày 30 tháng 6 và ngày 09 tháng 7 năm 1982, Hội đồng Nhà nước đã xem xét và thông qua Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả và kinh doanh trái phép. Trong phiên họp ngày 26 và 27 tháng 8 năm 1982, Hội đồng Nhà nước đã nghe Bộ trưởng Bộ Nội thương thay mặt Hội đồng Bộ trưởng báo cáo về tình hình triển khai việc thi hành Pháp lệnh này. Hội đồng Nhà nước đã đặc biệt lưu ý Hội đồng Bộ trưởng về sự cần thiết phải ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn, có những biện pháp thiết thực, tổ chức thực hiện liên tục và đều khắp, chỉ đạo sát sao và kiểm tra việc thi hành Pháp lệnh này, góp phần ổn định đời sống của cán bộ và nhân dân, chống những hiện tượng tiêu cực về kinh tế và xã hội.

Theo đề nghị của Hội đồng Bộ trưởng, nhân dịp Quốc khánh lần thứ 37 của nước ta, Hội đồng Nhà nước đã ra Nghị quyết về việc tha phạm nhân có án tù đã cải tạo tốt, giảm hạn tù cho phạm nhân đã thành thật sửa chữa và giao cho Hội đồng Bộ trưởng tiếp tục xét tha người được tập trung cải tạo đã thực sự tiến bộ trong thời gian cải tạo.

Trong phiên họp ngày 29 và 30 tháng 11 năm 1982, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ quốc gia.

II- VỀ VIỆC PHÊ CHUẨN HIỆP ƯỚC VÀ HIỆP ĐỊNH

Theo đề nghị của Hội đồng Bộ trưởng, tại phiên họp ngày 29 và 30 tháng 11 năm 1982, Hội đồng Nhà nước đã phê chuẩn "Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Cuba"; tại phiên họp ngày 14 tháng 12 năm 1982, đã phê chuẩn Hiệp định lãnh sự giữa nước ta và nước Cộng hoà Pháp.

III- VỀ TỔ CHỨC VÀ NHÂN SỰ CỦA NHÀ NƯỚC

1. Việc bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội khoá VII

Từ đầu nhiệm kỳ của Quốc hội khoá VII (tháng 6-1981) đến tháng 7 năm 1982, có 6 đại biểu Quốc hội đã từ trần: đại biểu Hoàng Minh Thi (Thanh Hoá); đại biểu Hoàng Chim (Sơn La); đại biểu Võ Văn Đinh (Nghĩa Bình); đại biểu Tôn Thất Tùng (Hải Phòng); đại biểu Vũ Văn Cẩn (An Giang); đại biểu Võ Trung Thành (Gia Lai - Kon Tum).

Trong phiên họp thường lệ tháng 6 năm 1982, Hội đồng Nhà nước đã xét và quyết định việc tiến hành bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội tại các đơn vị bầu cử thuộc các tỉnh, thành phố nói trên để thay thế các đại biểu đã từ trần.

Việc bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội đã hoàn thành trong tháng 11-1982; Hội đồng Nhà nước sẽ báo cáo trình Quốc hội trong kỳ họp này.

2. Tổ chức và nhân sự của Hội đồng Bộ trưởng

Theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, tại phiên họp ngày 30 tháng 10 năm 1982, Hội đồng Nhà nước đã cử đồng chí Đỗ Quốc Sam giữ chức vụ Chủ nhiệm Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước; tại phiên họp ngày 29 và 30 tháng 11 năm 1982, đã quyết định thành lập Uỷ ban Hợp tác kinh tế, văn hóa với Lào và Campuchia, cử đồng chí Đặng Thí giữ chức vụ Chủ nhiệm Uỷ ban này.

3. Nhân sự của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, tại phiên họp ngày 30 tháng 10 năm 1982, Hội đồng Nhà nước đã cử 5 Thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao.

Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tại phiên họp ngày 28 tháng 9 năm 1982, Hội đồng Nhà nước đã cử hai Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết nghị phê chuẩn Quyết định số 200/V9-VK5 ngày 18 tháng 9 năm 1982 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc chỉ định 7 kiểm sát viên làm uỷ viên Uỷ ban kiểm sát thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tại phiên họp ngày 29 và 30 tháng 11 năm 1982, Hội đồng Nhà nước đã cử 14 kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; tại phiên họp ngày 14 tháng 12 năm 1982, đã cử ba kiểm sát viên.

IV- CÔNG TÁC DÂN NGUYỆN

Từ sau kỳ họp thứ 3 của Quốc hội đến nay, đã có 3.442 đơn, thư gửi tới Quốc hội và Hội đồng Nhà nước; có 519 lượt người tới khiếu tố và đề đạt nguyện vọng trực tiếp tại Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.

Qua các đơn khiếu tố, có tình hình đáng chú ý như sau:

- Việc xâm phạm về thân thể, tài sản, quyền lợi, danh dự của công dân vẫn tiếp tục xảy ra nhiều. Các hiện tượng tham ô, lãng phí, bè phái, quan liêu, mệnh lệnh, bao che cán bộ xấu và hành vi phạm pháp chưa giảm;

- Việc bắt giam, giữ người, khám xét, tịch thu, phạt trái phép, tình hình truy chụp, ức hiếp quần chúng cũng chưa giảm;

- Nhiều người khiếu về vấn đề buộc thôi việc, bị trù dập, trả thù;

- Một số vụ án quan trọng không được xử kịp thời, chưa nghiêm minh, thiếu khách quan, chưa đúng người, đúng tội. Có tình trạng chưa tôn trọng quyền lợi hợp pháp của đương sự trong tố tụng. Còn có nhiều đơn kêu ca về việc thi hành các bản án, vừa có tình trạng không nghiêm, vừa có tình trạng thô bạo.

Những vụ, việc quan trọng liên quan tới cán bộ có chức, có quyền, liên quan tới một tập thể cán bộ lãnh đạo hoặc nằm trong diện tồn tại của các chính sách lớn (chính sách cải tạo tề ngụy, cải tạo tư sản, chính sách đối với người Việt gốc Hoa, đối với người trốn đi nước ngoài bị bắt trở lại, v.v.) vẫn để kéo dài không giải quyết được.

- Số đơn tố cáo mang danh nghĩa tập thể, đơn tố cáo về những vụ, việc sai trái liên quan đến nhiều cán bộ, công nhân viên chức nhà nước nhiều hơn so với 6 tháng đầu năm 1982.

- Việc quản lý và sử dụng vũ khí gây chết người, gây thương tích rất cần được lưu ý trong lực lượng dân quân ở thôn xóm, tự vệ ở xí nghiệp và công an ở cơ sở, v.v..

Thư dân nguyện trong các tháng qua vẫn phản ánh nhiều về tình hình một số cán bộ hư hỏng, sa sút phẩm chất, tình hình tiêu cực, vi phạm chính sách và pháp luật còn phổ biến trong xã hội. Có một số vấn đề đáng quan tâm như sau:

- Trong việc xét tặng thưởng Huân chương đối với một số cơ sở sản xuất, có trường hợp xét duyệt không kỹ; có đơn vị tổ chức việc nhận Huân chương bày ra hình thức, ăn uống lãng phí, có xã chi 30.000đ, có xí nghiệp chi 100.000đ.

- Một số luật, pháp lệnh đã ban hành như Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ, Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, Pháp lệnh quy định việc xét, giải quyết khiếu tố của công dân, nói chung chưa được các cấp, các ngành nghiêm chỉnh thi hành.

- Chính sách đối với chiến sĩ ở biên giới, hải đảo, chiến sĩ làm nghĩa vụ quốc tế, đối với cán bộ về hưu, đối với thương binh, liệt sĩ, v.v. cần được nghiên cứu bổ sung và thi hành tốt hơn.

Trong thời gian vừa qua, Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã cùng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ trực tiếp đi xem xét một số trường hợp khiếu tố khẩn cấp (truy bức người dẫn tới tự sát, giải quyết công việc tuỳ tiện trái pháp luật, v.v. và thấy những điều tố cáo của các đương sự là có sự thật.

Mặc dầu đã có Pháp lệnh quy định việc xét, giải quyết khiếu tố của công dân, nhưng việc nhận đơn, chuyển đơn, tiếp dân ở các cấp, các ngành còn có những thiếu sót phổ biến như:

- Nhiều trường hợp để kéo dài, tuy có trả lời cách giải quyết nhưng chưa nghiêm túc, cấp trên giải quyết, cấp dưới không chịu chấp hành.

- Việc bồi thường cho người bị oan và việc thi hành kỷ luật đối với cán bộ, nhân viên làm sai chưa được nghiêm chỉnh thi hành.

- Chuyển đơn khiếu tố của đương sự tới cơ quan hoặc cá nhân đang bị khiếu tố, gây thiệt hại cho người khiếu tố.

V- VỀ CÔNG TÁC KHEN THƯỞNG

Theo đề nghị của Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng Nhà nước đã quyết định tặng danh hiệu Anh hùng và tặng thưởng Huân chương như sau:

Tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 11 đơn vị và 5 cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng Công an nhân dân đã lập thành tích đặc biệt xuất sắc trên mặt trận giữ gìn an ninh, trật tự.

Tặng Huân chương Sao Vàng cho bốn đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, Cộng hoà Cuba, Cộng hoà Dân chủ Đức, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc đã có những cống hiến xuất sắc vào việc củng cố và phát triển tình hữu nghị anh em, tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện giữa nước ta và nước bạn:

- Đồng chí Iumgiaghin Xêđenban, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Mông Cổ, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ;

- Đồng chí Phiđen Caxtơrô Rudơ, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Cuba, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Cuba (Chủ tịch Trường Chinh đã trực tiếp trao tặng nhân dịp Đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước ta thăm hữu nghị chính thức Cuba);

- Đồng chí Erich Hônêchcơ, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Đức.

- Đồng chí Guttavơ Huxăc, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc.

Tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho:

1. Năm đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã có những cống hiến quý báu vào sự nghiệp củng cố và phát triển tình hữu nghị đặc biệt, tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện giữa nước ta và nước bạn (Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Chu Huy Mân đã trực tiếp trao tặng nhân dịp Đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước ta sang Lào dự Quốc khánh của nước bạn, tháng 11 năm 1982):

- Đồng chí Nuhắc Phumxavẳn, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính;

- Đồng chí Phumi Vôngvichit, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Thể thao và Lễ nghi;

- Đồng chí Khămtày Xiphănđon, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh quân đội Giải phóng nhân dân Lào;

- Đồng chí Phun Xipasơt, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Phủ Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao;

- Đồng chí Xixổmphon Lòvănxay, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tối cao.

2. Lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam đã lập được nhiều chiến công rực rỡ góp phần vào sự nghiệp thống nhất đất nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Tặng Huân chương Độc lập cho một cán bộ đã có những cống hiến góp phần vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Tặng Huân chương Lao động cho:

- 339 đơn vị và 30 cá nhân đã có những thành tích xuất sắc trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước và các nhiệm vụ công tác khác;

- Hai chuyên gia Liên Xô đã có công giúp Việt Nam trong việc xây dựng đất nước.

Tặng Huân chương Quân công và Chiến công cho:

- 1103 đơn vị và cá nhân thuộc các lực lượng vũ trang nhân dân đã có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc;

- 31 chuyên gia Liên Xô đã có công giúp Việt Nam trong việc bảo vệ đất nước.

Tặng Huân chương Kháng chiến cho:

- 53 cán bộ đã có nhiều thành tích trong sự nghiệp cách mạng và kháng chiến;

- Một nhà văn Ba Lan đã có những đóng góp quý báu vào cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

Tặng Huân chương Quyết thắng cho 180 cán bộ theo niên hạn phục vụ ở miền Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Tặng Huân chương Giải phóng cho 203 gia đình thuộc các tỉnh miền Nam có người thân đã thoát ly gia đình, tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Tặng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang cho 63.304 cán bộ, chiến sĩ đã có thành tích phục vụ trong các lực lượng vũ trang nhân dân.

Tặng Huân chương Hữu nghị cho 8 tập thể và 20 cá nhân thuộc các nước xã hội chủ nghĩa anh em đã có công giúp nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và 12 cá nhân thuộc các nước khác đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta.

VI- VỀ CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI

1. Thăm nước ngoài và đón tiếp khách nước ngoài:

- Đồng chí Trường Chinh, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước ta, đã đi thăm hữu nghị chính thức Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết từ ngày 04 đến ngày 08 tháng 10 năm 1982 và Cộng hoà Cuba từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 10 năm 1982.

Cuộc đi thăm chính thức của Đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước ta đã góp phần tăng cường thêm một bước tình hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện giữa nước ta với Liên Xô và Cuba.

Ngày 11 tháng 11 năm 1982, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước ta sang Mátxcơva dự lễ tang đồng chí Bờrêgiơnép, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô.

- Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã tiếp Đoàn đại biểu Quốc hội Bungari (ngày 11-9-1982) do đồng chí Stancô Tôđôrốp, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Bungari, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Nhân dân Bungari dẫn đầu và Đoàn đại biểu Quốc hội Campuchia (ngày 20-11-1982) do đồng chí Chiaxim, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia dẫn đầu thăm hữu nghị chính thức nước ta.

Ngày 29-10-1982, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã gặp mặt thân mật các đoàn đại biểu thanh niên thủ đô ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia trong dịp gặp gỡ hữu nghị giữa thanh niên Hà Nội, Viêng Chăn và Phnôm Pênh.

Ngày 19-8-1982, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Nguyễn Hữu Thọ đã tiếp đặc phái viên của Tổng thống Iran và ngày 28-8-1982, đã tiếp Đại sứ Irắc để nhận thư của hai nước này về vấn đề địa điểm họp Hội nghị cấp cao các nước không liên kết lần thứ 7.

- Từ kỳ họp thứ 3 của Quốc hội khoá VII đến nay, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ đã đón tiếp Đoàn đại biểu Quốc hội Bungari do đồng chí Stancô Tôđôrốp dẫn đầu ở thăm nước ta từ ngày 11 đến ngày 18 tháng 9 năm 1982; đã tiếp đoàn Nghị sĩ Pháp - Việt hữu nghị trong Quốc hội Pháp ở thăm nước ta từ ngày 7 đến ngày 14 tháng 10 năm 1982; đã đón tiếp Đoàn đại biểu Quốc hội Campuchia do đồng chí Chia Xim, Chủ tịch Quốc hội dẫn đầu ở thăm nước ta từ ngày 18 đến ngày 23 tháng 11 năm 1982.

2. Trao đổi điện với nước ngoài

Ngày 06 tháng 9 năm 1982, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã gửi điện trả lời đồng chí Phiđen Caxtơrô Rudơ (Cuba) về việc nước ta ủng hộ vấn đề chuyển địa điểm hội nghị cấp cao các nước không liên kết. Ngày 26 tháng 9 năm 1982, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã gửi điện trả lời đồng chí Phiđen Caxơrô Rudơ về việc nước ta ủng hộ đề nghị lấy Niu Đêli làm địa điểm họp hội nghị cấp cao các nước không liên kết.

Ngày 22-9-1982, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã gửi điện tới ông Yatxe Araphát, Chủ tịch Ban Chấp hành Tổ chức Giải phóng Palextin (PLO), khẳng định tình đoàn kết chiến đấu và sự ủng hộ mạnh mẽ trước sau như một của nhân dân và Nhà nước Việt Nam đối với nhân dân Palextin trong cuộc đấu tranh chống đế quốc và bọn xiônít Ixraen để giành lại quyền dân tộc thiêng liêng của mình.

Ngày 03 tháng 12 năm 1982, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã gửi điện trả lời đồng chí Phiđen Caxtơrô Rudơ về việc nhân dân và Nhà nước ta ủng hộ nhân dân Môdămbích chống lại âm mưu và hành động đe dọa xâm lược của nhà cầm quyền Nam Phi đối với Môdămbích.

3. Hoạt động của đoàn Việt Nam trong Liên minh Quốc hội

Từ ngày 12 đến ngày 25 tháng 9 năm 1982, Đoàn đại biểu Việt Nam do đồng chí Phan Anh, Phó Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ban Chấp hành Đoàn Việt Nam trong Liên minh Quốc hội, dẫn đầu dự Hội nghị mùa Thu của Liên minh Quốc hội lần thứ 69 tại Rôma (Italia).

Đoàn ta đã phối hợp chặt chẽ với các đoàn đại biểu của các nước xã hội chủ nghĩa, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chung về giải trừ quân bị, nêu lên những quan điểm của nước ta về vấn đề thuộc khu vực Đông Nam Á, đặc biệt, đã đưa ra một số kiến nghị bổ sung vào các Nghị quyết của Hội nghị về vấn đề giải trừ quân bị, về chống chiến tranh hoá học, về bảo vệ môi trường và vấn đề phi thực dân hoá.

Đoàn ta cũng đã tiếp xúc rộng rãi để vận động cho việc Campuchia sắp tới xin gia nhập Liên minh Quốc hội.

VII- QUAN HỆ VỚI HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG

Quan hệ giữa Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng được tăng cường chặt chẽ hơn và có tác dụng thúc đẩy công tác.

1. Sau kỳ họp thứ 3 của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã tập hợp các ý kiến, kiến nghị của các đại biểu Quốc hội phát biểu tại các buổi họp tổ, họp đoàn và trong các bản tham luận, chuyển đến Hội đồng Bộ trưởng và các Bộ có trách nhiệm. Có tất cả 29 bản chất vấn gồm 67 ý kiến đề cập chủ yếu về vấn đề trách nhiệm quản lý của 24 Bộ và Uỷ ban Nhà nước. Đến nay, hầu hết các chất vấn, kiến nghị của các đại biểu Quốc hội đã được nghiên cứu, trả lời nghiêm túc. Có một số ý kiến liên quan đến nhiều Bộ, nhiều ngành, Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã lưu ý Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng nhắc các Bộ, các ngành hữu quan tiếp tục nghiên cứu để xây dựng thành các chính sách, chế độ.

Hội đồng Nhà nước đã nhận được đều đặn những nghị định, nghị quyết, chỉ thị, thông tri báo cáo về các mặt công tác của Hội đồng Bộ trưởng.

2. Từ kỳ họp thứ 3 của Quốc hội đến nay, trong các phiên họp thường lệ hằng tháng, Hội đồng Nhà nước đã tập trung sự chú ý vào một số vấn đề về công tác chỉ đạo quản lý kinh tế và xã hội của Hội đồng Bộ trưởng có quan hệ đến khâu lưu thông phân phối, đến đời sống của nhân dân và cán bộ công nhân viên chức, đến an ninh, trật tự xã hội.

Ngày 28 tháng 9 năm 1982, Hội đồng Nhà nước đã nghe Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước báo cáo về công tác ngân hàng. Hội đồng Nhà nước đã phân tích kỹ tình hình căng thẳng và phức tạp về lưu thông tiền tệ, nhấn mạnh nguyên nhân chủ quan của những sai sót trong quản lý và nêu một số biện pháp khắc phục.

Ngày 27-11-1982, Hội đồng Nhà nước đã nghe Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Quỳnh báo cáo về khoá họp thứ 36 của Hội đồng Tương trợ kinh tế. Hội đồng Nhà nước nhất trí nhận định rằng khoá họp này của Hội đồng Tương trợ kinh tế đã tăng cường sự hợp tác tương trợ giữa các nước thành viên, góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước anh em.

Hội đồng Nhà nước đã lưu ý Hội đồng Bộ trưởng về những vấn đề thiết thực, phù hợp với trình độ kinh tế của nước ta hiện nay cần được chú ý xem xét để đưa vào kế hoạch hợp tác tương trợ của Hội đồng Tương trợ kinh tế.

3. Hội đồng Nhà nước đã nghe Bộ trưởng Bộ Ngoại giao báo cáo về cuộc đi thăm Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Liên bang Miến Điện[1], Cộng hoà Xingapo, Malaixia, Vương quốc Thái Lan từ ngày 16-7 đến ngày 30-7-1982. Cuộc đi thăm này đã góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Miến Điện, thúc đẩy việc đối thoại giữa các nước trong khu vực nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.

VIII- VỀ QUAN HỆ VỚI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

Trong 6 tháng cuối năm 1982, Hội đồng Nhà nước đã nhận được báo cáo về công tác của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tham dự đều đặn các phiên họp thường lệ của Hội đồng Nhà nước để trình bày ý kiến về những vấn đề có liên quan đến công tác của hai ngành này.

Công tác xét xử của Toà án có phần nhanh chóng hơn trước. Các cấp Toà án đã bước đầu kiện toàn tổ chức và từng bước đi vào thực hiện thẩm quyền mới về xét xử, theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 03-7-1981. Các cấp thuộc Viện kiểm sát nhân dân đã cố gắng trong công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật, giữ gìn pháp chế xã hội chủ nghĩa, chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống kinh tế và xã hội.

Việc phối hợp giữa các ngành Toà án, Kiểm sát, Công an trong đấu tranh chống tội phạm có tiến bộ, góp phần giải quyết nhanh chóng hơn những vụ án quan trọng về an ninh chính trị, về trật tự, an toàn xã hội. Các ngành này đã cố gắng thực hiện chỉ thị của Hội đồng Nhà nước về việc bắt, giam, tha và thanh lý trại giam, bước đầu đem lại kết quả tốt.

Tuy nhiên, công tác điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn chậm trễ, khám phá và xử lý còn ít, nhất là đối với các vụ, việc trọng điểm như về phá hoại kinh tế, đường sắt, dây điện thoại, đường ống dẫn dầu, v.v.. Việc chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện đường lối áp dụng pháp luật đối với một số loại tội mới chưa được nhạy bén, kịp thời. Các ngành Toà án, Kiểm sát và Công an cần chú trọng phối hợp với nhau chặt chẽ hơn nữa, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành đã được pháp luật quy định, để khắc phục có hiệu quả tình hình vi phạm pháp luật đang phổ biến, tích cực phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Việc kiểm tra công tác của từng ngành cần được đẩy mạnh nhằm hạn chế và uốn nắn những sai lầm, thiếu sót, nhất là ở cơ sở, bảo đảm cho pháp chế xã hội chủ nghĩa được tăng cường theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước.

IX- HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC
VÀ CÁC UỶ BAN THƯỜNG TRỰC CỦA QUỐC HỘI

Sau kỳ họp thứ 3 của Quốc hội, Hội đồng dân tộc và năm Uỷ ban thường trực của Quốc hội đã triển khai chương trình hoạt động sáu tháng cuối năm 1982, đạt kết quả như sau:

1. Hội đồng dân tộc

 Tháng 8, đoàn công tác do Chủ tịch Hội đồng dân tộc làm Trưởng đoàn, đã đến tỉnh Lâm Đồng để nghiên cứu, xem xét việc tổ chức thực hiện chính sách dân tộc ở địa phương và tình hình phát triển kinh tế, văn hóa ở những vùng có đồng bào dân tộc thiểu số.

Đoàn đã góp phần động viên nhân dân các dân tộc ở tỉnh Lâm Đồng trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã góp ý kiến với địa phương về việc thực hiện chính sách dân tộc.

Đoàn đã làm việc với Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh Thuận Hải về vấn đề thực hiện chính sách dân tộc đối với đồng bào Chăm. Đoàn đã về thăm huyện Ninh Phước, nói chuyện thân mật với các đại biểu dân tộc Chăm ở các xã.

2. Uỷ ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách

Tiểu ban công nghiệp của Uỷ ban đã nghe Bộ Giao thông vận tải báo cáo về tình hình công tác của toàn ngành, tập trung vào vấn đề vận tải Bắc - Nam, vận tải hàng xuất nhập khẩu; đã cử đoàn đi nghiên cứu, khảo sát tình hình thực tế ở hai cảng Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh.

Đoàn của tiểu ban nông nghiệp đã đi Hải Hưng và Thái Bình để nắm tình hình thực hiện thí điểm dự Luật thuế nông nghiệp.

Đoàn của tiểu ban tài chính - ngân sách đã đi xem xét việc thực hiện ngân sách năm 1982 ở Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh.

Tháng 10 năm 1982, Uỷ ban đã họp để thảo luận, góp ý kiến về Dự thảo Luật thuế nông nghiệp, dự thảo Pháp lệnh đất đai; sơ bộ đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch và ngân sách nhà nước năm 1982, phát biểu ý kiến về dự án kế hoạch và ngân sách nhà nước năm 1983, mục tiêu phấn đấu đến năm 1985.

3. Uỷ ban văn hóa và giáo dục

Uỷ ban đã nghe Bộ Văn hóa, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Tổng cục Dạy nghề trình bày và kiến nghị về một số chế độ, chính sách nhằm phát triển sự nghiệp văn hóa và giáo dục.

Hai đoàn công tác của Uỷ ban đã đi nghiên cứu các vấn đề trên tại các tỉnh Hà Nam Ninh, Quảng Ninh và Nghĩa Bình.

4. Uỷ ban khoa học và kỹ thuật

Báo cáo của Uỷ ban về việc giám sát một số mặt hoạt động khoa học, kỹ thuật của hai ngành Điện, Than đã được Hội đồng Nhà nước xem xét, gửi đến Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng và một số cơ quan có liên quan để nghiên cứu bổ sung vào kế hoạch nhà nước năm 1983 và những năm sau. Bộ trưởng Bộ Mỏ và Than đã có công văn trả lời đồng tình về cơ bản với sự đánh giá và những kiến nghị của Uỷ ban đối với ngành than.

Tháng 9, đoàn công tác của Uỷ ban đã làm việc với Uỷ ban nhân dân, Sở Công nghiệp và Liên hiệp hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp thành phố Hà Nội để xem xét tình hình áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đoàn đã đi khảo sát tình hình sản xuất ở một số xí nghiệp, hợp tác xã, nêu những kiến nghị cụ thể với các đồng chí lãnh đạo địa phương và cán bộ phụ trách cơ sở sản xuất.

Cuối tháng 11, Uỷ ban đã họp để nghe một số Uỷ ban Nhà nước và Bộ có liên quan trình bày về một số công trình khoa học, kỹ thuật dự kiến tiến hành từ năm 1983 đến năm 1985.

5. Uỷ ban thanh niên, thiếu niên và nhi đồng

Tháng 10, Thường trực Uỷ ban đã họp mở rộng để nghe Bộ Lao động và Tổng cục Dạy nghề báo cáo về vấn đề thanh niên đối với nghĩa vụ lao động xây dựng đất nước qua dự án kế hoạch năm 1983 và mục tiêu phấn đấu đến năm 1985 và vấn đề hướng nghiệp cho thanh niên.

Tháng 12, Uỷ ban đã họp để nghe đại diện Bộ Quốc phòng báo cáo về tình hình và kết quả thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự.

6. Uỷ ban y tế và xã hội

Tháng 9, sau khi nghe báo cáo của Sở Y tế, Sở Thương binh - Xã hội và Sở Thể dục - Thể thao thành phố Hà Nội, đoàn công tác của Uỷ ban đã đi xem xét tình hình ở một số cơ sở y tế, xã hội thuộc một số quận, huyện. Đoàn đã làm việc với cấp lãnh đạo địa phương và gửi báo cáo lên Hội đồng Nhà nước.

Tháng 10, đoàn công tác của Uỷ ban đã đến làm việc với Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắc Lắc và tỉnh Phú Khánh. Đoàn đã xem xét tình hình một số cơ sở y tế, thương binh, xã hội ở một số thị xã, huyện và đơn vị cơ sở. Những kiến nghị của đoàn đã được cấp lãnh đạo địa phương tiếp thụ và hứa nghiên cứu giải quyết.

Tháng 11, Uỷ ban đã họp để nghe một số Bộ có liên quan báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch năm 1982, dự án kế hoạch và ngân sách năm 1983, mục tiêu phấn đấu đến năm 1985, sự đáp ứng của ngành đối với những kiến nghị của Uỷ ban.

7. Uỷ ban pháp luật

Ngày 24-6-1982, Uỷ ban pháp luật đã họp để kiểm điểm công tác 6 tháng đầu năm 1982 và đề ra kế hoạch công tác 6 tháng cuối năm. Ngày 01-7-1982, Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật đã họp với các ngành có liên quan để bàn về việc thực hiện kế hoạch xây dựng pháp luật 6 tháng cuối năm 1982 mà Hội đồng Nhà nước đã thông qua.

Trong hai tháng 8 và 9 năm 1982, Uỷ ban pháp luật đã cử ba đoàn đi xem xét tình hình thi hành pháp luật ở Quảng Nam - Đà Nẵng, Phú Khánh, Thành phố Hồ Chí Minh, Hậu Giang, Cửu Long, Tiền Giang, Bến Tre. Ngày 19-10-1982, Uỷ ban pháp luật đã họp để nghe ba đoàn kể trên báo cáo. Uỷ ban pháp luật đã kiến nghị với Hội đồng Nhà nước một số vấn đề về việc thi hành nghiêm chỉnh pháp luật.

Ngày 20, 21 và 22-10-1982, Uỷ ban pháp luật đã họp với sự tham gia của thường trực Uỷ ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách của Quốc hội để thảo luận và thẩm tra Dự thảo Pháp lệnh đất đai và Dự thảo Luật thuế nông nghiệp. Ngày 23-10-1982, Uỷ ban pháp luật đã họp với sự tham gia của thường trực Uỷ ban đối ngoại của Quốc hội để thẩm tra Hiệp định lãnh sự giữa nước ta với nước Cộng hoà Pháp.

Ngày 09-11-1982, thường trực Uỷ ban pháp luật đã họp để thảo luận và góp ý kiến về Dự thảo "Điều lệ các Uỷ ban của Quốc hội".

Ngày 18, 19 và 20-11-1982, Uỷ ban pháp luật đã họp để thẩm tra Dự thảo Pháp lệnh đất đai và Phần chung của Bộ luật hình sự.

8. Uỷ ban đối ngoại

Tháng 8 và tháng 10-1982, Uỷ ban đối ngoại của Quốc hội đã họp để nghe báo cáo và nhận định tình hình thế giới, đánh giá hoạt động đối ngoại của Quốc hội trong thời gian qua.

Uỷ ban đã tham gia tích cực vào việc đón tiếp các đoàn đại biểu Quốc hội Bungari và Campuchia. Uỷ ban đã tổ chức việc đón tiếp đoàn nghị sĩ Pháp - Việt hữu nghị trong Quốc hội Pháp thăm Việt Nam từ ngày 07 đến ngày 14-10-1982.

Nhìn chung từ kỳ họp thứ 3 của Quốc hội đến nay, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban thường trực của Quốc hội đã cố gắng thực hiện chương trình công tác của mình và hướng hoạt động vào những vấn đề kinh tế - xã hội thiết thực, vào việc làm luật và thi hành nghiêm chỉnh pháp luật.

X- HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI

Đến ngày 15-12-1982, Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã nhận được báo cáo về tình hình hoạt động sau kỳ họp Quốc hội lần thứ 3 của 28 Đoàn đại biểu Quốc hội (Hà Bắc, Tây Ninh, Gia Lai - Kon Tum, Sơn La, Thuận Hải, Vĩnh Phú, Bình Trị Thiên, Hà Tuyên, Lai Châu, Đắc Lắc, Lạng Sơn, Hà Sơn Bình, Hải Hưng, Long An, Thanh Hoá, Bến Tre, Quảng Ninh, Đồng Tháp, Hà Nội, Lâm Đồng, Hậu Giang, Cao Bằng, Cửu Long, An Giang, Hải Phòng, Tiền Giang, Phú Khánh, Nghệ Tĩnh).

Hoạt động của các đoàn có những nét đáng chú ý như sau:

1. Các đoàn đã khẩn trương, nghiêm túc tổ chức các buổi báo cáo kết quả kỳ họp thứ 3 của Quốc hội với đông đảo cử tri. Các cử tri thông cảm với hoàn cảnh khó khăn về nhiều mặt của đất nước, biểu thị quyết tâm đẩy mạnh các mặt công tác, thực hiện tốt kế hoạch nhà nước và các công tác khác của địa phương, của đơn vị, đồng thời, nhấn mạnh vấn đề đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực và sửa chữa các sai sót.

2. Thực hiện Quy chế về đại biểu Quốc hội, các đoàn đã cố gắng khắc phục khó khăn, chấn chỉnh và tăng cường việc tổ chức tiếp dân. Nhiều đoàn trước đây chưa tổ chức phòng tiếp dân, nay đã có trụ sở tiếp dân, có lịch và bản phân công đại biểu tiếp dân, có kế hoạch giải quyết những đơn khiếu nại (Quảng Ninh, Hà Sơn Bình, Hà Bắc, Nghệ Tĩnh, v.v.). Tính đến cuối tháng 11-1982, 32 đoàn đã tổ chức phòng tiếp dân (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hà Sơn Bình, Vĩnh Phú, Bắc Thái, Cao Bằng, Sơn La, Lai Châu, Bình Trị Thiên, Quảng Nam - Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Thuận Hải, Gia Lai - Kon Tum, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Vũng Tàu - Côn Đảo, Tây Ninh, Đồng Nai, Long An, An Giang, Hậu Giang, Minh Hải, Đồng Tháp, Kiên Giang, Cửu Long, Quảng Ninh, Nghệ Tĩnh, Hà Bắc, Phú Khánh, Tiền Giang, Hoàng Liên Sơn). Chủ tịch Quốc hội đã có thư gửi các đoàn kèm theo bản sơ kết của Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước về công tác tiếp dân của các Đoàn đại biểu Quốc hội để các đoàn nghiên cứu và rút kinh nghiệm.

3. Nhiều đại biểu Quốc hội đã tham dự các kỳ họp của Hội đồng nhân dân ở địa phương, đóng góp ý kiến vào các Dự thảo Pháp lệnh đất đai, Luật thuế nông nghiệp và Phần chung của Bộ luật hình sự. Ở Bến Tre, đoàn đã dự hội nghị của tỉnh về kiểm điểm, đánh giá tình hình thi hành pháp luật trong những năm qua, việc bắt, giam, xét, tha, tập trung cải tạo, giải quyết đơn khiếu nại của dân, thi hành Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ buôn lậu.

4. Tuy bận nhiều công tác, việc đi lại có khó khăn, các đoàn nói chung giữ được sinh hoạt của đoàn, theo Quy chế của đại biểu Quốc hội. Từ khi có Quy chế, hoạt động của các đoàn được thuận lợi hơn, các đại biểu thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, các ngành chính quyền phối hợp và tạo điều kiện cho đoàn hoạt động tốt hơn. Sự cố gắng và tiến bộ nói trên chưa đồng đều ở các địa phương, nên chưa đạt được kết quả cao.

XI- VIỆC GIÁM SÁT VÀ HƯỚNG DẪN HOẠT ĐỘNG CỦA
 HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP

Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đang cùng Ban Tổ chức của Chính phủ xây dựng Dự thảo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp để trình Quốc hội vào năm 1983, thay thế cho Luật tổ chức Hội đồng nhân dân ban hành năm 1962 có nhiều điểm không thích hợp với tình hình hiện nay. Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước đã được giao nhiệm vụ soạn thảo Quy chế về đại biểu Hội đồng nhân dân để có thể ban hành ngay sau khi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp được Quốc hội thông qua.

Hội đồng Nhà nước đã hướng dẫn Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị tương đương làm báo cáo thường kỳ về tình hình hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp. Đến nay, nhiều tỉnh chưa thực hiện chế độ báo cáo đúng kỳ hạn, theo mẫu đã hướng dẫn, nên chưa làm được việc tổng hợp tình hình hoạt động của các cấp Hội đồng nhân dân trong cả nước.

Năm 1983 là năm tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân cấp huyện, quận, xã và đơn vị hành chính tương đương. Các địa phương cần chuẩn bị tốt việc bầu cử này, qua đó, rút kinh nghiệm về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp huyện và cơ sở, tăng cường việc hướng dẫn, giúp đỡ để Hội đồng nhân dân thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, tăng cường hoạt động, tránh hình thức, đóng góp thiết thực vào việc làm cho bộ máy nhà nước có hiệu lực và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

 Trên đây là những điểm chính về công tác của Hội đồng Nhà nước, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban thường trực của Quốc hội, của các Đoàn đại biểu Quốc hội trong thời gian từ kỳ họp thứ 3 của Quốc hội đến nay.

Hội đồng Nhà nước xin báo cáo với các đồng chí đại biểu Quốc hội.


 

[1]. Nay là Mianma.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội