VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 1) 1981 - 1983

 

BÁO CÁO
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG VỀ KẾ HOẠCH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1983 VÀ MỨC PHẤN ĐẤU ĐẾN NĂM 1985
(Do ông Võ Văn Kiệt, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước trình bày tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa VII, ngày 20-12-1982)

 

Thưa Đoàn Chủ tịch,

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Thay mặt Hội đồng Bộ trưởng, tôi xin trình bày trước Quốc hội bản báo cáo về "kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1983 và mức phấn đấu đến năm 1985".

Báo cáo gồm ba phần:

I- Tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1982 và hai năm 1981 - 1982.

II- Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1983 và mức phấn đấu đến năm 1985.

III- Đổi mới công tác quản lý kinh tế và chỉ đạo thực hiện.

PHẦN THỨ NHẤT

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
NĂM 1982 VÀ HAI NĂM 1981 - 1982

Hai năm qua, bước vào thời kỳ 5 năm 1981 -1985, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta trong cả nước đã bền bỉ khắc phục khó khăn, ra sức lao động sản xuất, đạt được những thành tựu đáng kể trên mặt trận xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng và an ninh, xây dựng từng bước cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa.

Trên khắp các miền của Tổ quốc, trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội đã xuất hiện nhiều nhân tố tích cực, chủ động, sáng tạo, mở ra cách làm ăn mới với những hình thức tổ chức và quản lý năng động, có hiệu quả, khai thác được các khả năng, đưa đến những chuyển biến mới rất có ý nghĩa.

Sản xuất nông nghiệp phát triển tốt trên hầu hết các vùng, có tiến bộ rõ cả về sản xuất lương thực, cây công nghiệp và chăn nuôi.

Tuy phân hoá học, thuốc trừ sâu, điện, xăng dầu, v.v. cung ứng cho nông nghiệp còn có hạn, song nhờ tác động tích cực của những nhân tố mới trong công tác chỉ đạo, quản lý, kỹ thuật và thời tiết nói chung thuận lợi, nên năm 1982 được mùa liên tiếp cả ba vụ lúa. Năng suất lúa bình quân trên 1 hécta gieo trồng đạt 24,4 tạ, cao nhất từ năm 1976 lại đây. Năm 1982 đạt 16,26 triệu tấn lương thực quy thóc, là năm đầu tiên vượt kế hoạch về sản lượng lương thực, tăng 13% so với năm 1980 và là năm có sản lượng cao nhất từ trước đến nay. Nếu sản xuất màu không bị giảm sút, thì thắng lợi về sản xuất lương thực còn lớn hơn.

Trong nông nghiệp, khu vực quốc doanh chưa có chuyển biến đáng kể.

Huy động lương thực được 2,9 triệu tấn, tăng gần 90 vạn tấn so với năm 1980. Trong hai năm 1981 - 1982, bình quân mỗi năm huy động 2,7 triệu tấn, tăng 1 triệu tấn so với mức bình quân huy động của thời kỳ 5 năm 1976 - 1980. Sản xuất và huy động lương thực đạt khá, cho phép chúng ta giảm nhiều mức nhập khẩu lương thực, so với mức nhập khẩu lương thực năm 1979 là năm nhập nhiều nhất, thì năm 1980 chỉ nhập khẩu bằng 53%, năm 1981 còn 32% và năm 1982 chỉ còn 17%. Đây là bước tiến quan trọng trên con đường tự giải quyết lương thực ở nước ta.

Diện tích cây công nghiệp vượt kế hoạch 2% và tăng 16% so với năm 1980. Một số cây tăng khá, nhất là đậu tương gấp đôi năm 1980 cả về diện tích và sản lượng. Mía tăng 14%, cao su trồng mới gấp 4,5 lần,... phong trào trồng dâu nuôi tằm phát triển rộng ở nhiều nơi, nhất là các tỉnh Thái Bình, Hải Hưng, Hà Sơn Bình, Quảng Nam - Đà Nẵng, v.v..

Về chăn nuôi, đàn lợn tăng 8,5% so với năm 1980, đàn trâu tăng 4,6%, đàn bò tăng 11,7%... chăn nuôi gia đình tiếp tục phát triển.

Ngành Lâm nghiệp đã có những chuyển biến trong việc trồng cây, gây rừng, quản lý, chăm sóc, tu bổ và xây dựng vốn rừng. Năm 1982 là năm đầu tiên đã dùng vốn của ngành vào công tác trồng cây gây rừng và cũng là năm đầu tiên thực hiện vượt mức kế hoạch trồng rừng. Nhiều địa phương có diện tích trồng rừng lớn đã đạt và vượt mức kế hoạch như Hoàng Liên Sơn, Lạng Sơn, Quảng Ninh, v.v..

Nghề đánh cá biển đã bắt đầu đi lên sau 4 năm giảm sút liên tục. Sản lượng cá biển năm 1982 vượt kế hoạch 4,7% và tăng 10% so với năm 1980. Phong trào nuôi cá nước ngọt, nước lợ tiếp tục phát triển khá.

Sản xuất công nghiệp, mặc dù gặp nhiều khó khăn về nguyên liệu, năng lượng và phụ tùng, nhưng vẫn được duy trì và có mức phát triển.

Các sản phẩm quan trọng như: điện, than, sà lan vận tải, xi măng, vải, giấy, đường, đồ hộp, rượu, chè, thuốc lá, v.v. đều đạt kế hoạch khá và tăng so với năm 1980. Nhiều ngành, nhiều địa phương và cơ sở sản xuất, nhất là tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp đã phát huy tinh thần tự lực, chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, tích cực tìm tòi, khai thác các nguồn nguyên liệu từ nông, lâm, hải sản, tận dụng phế liệu, phế phẩm, để sản xuất nhiều mặt hàng tiêu dùng phong phú.

Một số địa phương và cơ sở đã bước đầu vận dụng các hình thức hợp tác, liên kết kinh tế với các địa phương và đơn vị khác, sử dụng thế mạnh của từng nơi, khai thác nhiều mặt hàng xuất khẩu để tự cân đối thêm vật tư, nguyên liệu làm ra nhiều sản phẩm hơn.

Nếu như trong thời kỳ 1976 - 1980, giá trị tổng sản lượng công nghiệp bình quân hàng năm chỉ tăng 0,6%, thì trong hai năm 1981 - 1982, bình quân hàng năm đã tăng 12,7%, trong đó, tăng nhanh nhất là tiểu, thủ công nghiệp. Tuy nhiên, về mặt chất lượng và giá thành sản phẩm đang còn là vấn đề phải được quan tâm giải quyết tốt hơn.

Giao thông vận tải bước đầu có chuyển biến. Vận tải ven biển và đường sông phát triển khá. Vận tải lương thực từ miền Nam ra, vận tải than Quảng Ninh có cố gắng. Tiếp nhận và vận chuyển hàng nhập khẩu khá hơn trước, cảng Hải Phòng có chuyển biến rõ, đã đưa năng suất xếp dỡ tăng 20% so với năm 1980.

Công tác xây dựng cơ bản đã được sắp xếp lại một bước, tập trung hơn cho những mục tiêu then chốt của nền kinh tế và các công trình trọng điểm của Nhà nước. Một số công trình mới đã đi vào sản xuất, như giấy Vĩnh Phú, xi măng Bỉm Sơn, sợi Nha Trang, nhà máy kéo sợi len Hà Tây, đường dây 220 kW Thanh Hoá - Vinh, nhà máy biến thế Hà Nội, các nhà máy phụ tùng Biên Hoà, Tân Bình...

Nhiều địa phương đã vận dụng tốt phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", "Trung ương và địa phương cùng làm", huy động được các nguồn vốn và sức lao động tại chỗ, xây dựng thêm nhiều công trình mới, đem lại lợi ích thiết thực cho sản xuất và đời sống nhân dân.

Xuất khẩu năm 1982 tăng 27% so với năm 1980. Một số mặt hàng xuất khẩu tăng khá, nhất là lạc, rau quả hộp, quả ướp đông, tôm, cá, gỗ, quế, thảm đay, thảm len, hàng mây tre, hàng da và cao su, v.v.. Nhiều ngành, nhiều địa phương và cơ sở đã cố gắng tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu, vừa làm tốt nghĩa vụ với Nhà nước, vừa tạo điều kiện tăng thêm vật tư - kỹ thuật cho sản xuất của mình.

Trong lĩnh vực phân phối lưu thông, có tiến bộ về thu mua lương thực và nông sản khác. Một số mặt hàng thu mua tăng khá so với năm 1980 như thịt lợn, đỗ tương, thuốc lá, cói, cá biển, cá nước ngọt... Nhiều địa phương đã tích cực huy động nông sản và chấp hành tốt việc giao nộp sản phẩm cho Trung ương. Một số chính sách mới về phân phối thu nhập như lương khoán, tiền thưởng, bảo đảm tốt hơn sự nhất trí giữa ba loại lợi ích kinh tế, đã có tác dụng kích thích mọi người hăng hái lao động, phát minh sáng kiến, đẩy mạnh sản xuất, tiết kiệm.

Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp đã cơ bản hoàn thành ở các tỉnh Liên khu V cũ và có bước phát triển mới ở đồng bằng Nam bộ. Năm 1982, các tỉnh Nam bộ có hơn một nửa số nông dân tham gia các tổ đoàn kết sản xuất. Nhiều cơ sở mới như ở Hậu Giang, Kiên Giang, Minh Hải, khi tổ chức tập đoàn, đã kết hợp ngay từ đầu hình thức khoán sản phẩm, cho nên nhịp độ phát triển sản xuất, nền nếp quản lý và đời sống của người lao động có tiến bộ nhanh hơn các đơn vị cũ.

Công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật, điều tra cơ bản, thăm dò địa chất tiếp tục phát triển tốt.

Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, văn hóa - nghệ thuật, thông tin tuyên truyền, y tế, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, thể dục thể thao đạt được một số thành tích tốt. Công tác cải cách giáo dục đã tiến hành thống nhất trong toàn quốc. Phong trào văn hóa quần chúng được mở rộng ở các cơ sở, ngành Y tế có nhiều cố gắng phòng, chống các dịch bệnh, phát triển y học cổ truyền và nguồn dược liệu trong nước. Công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ em, nuôi dưỡng trẻ em được quan tâm hơn. Thể dục thể thao đang trở thành phong trào quần chúng ở một số địa phương. Việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, trẻ em mồ côi, người tàn tật và những nạn nhân của xã hội cũ, với sự tham gia của nhân dân, có tiến bộ hơn trước.

Tóm lại, trong năm 1982 và hai năm 1981 - 1982, việc thực hiện kế hoạch nhà nước đã đạt được những thành tựu đáng kể. Những chuyển biến mới, tiến bộ mới trong hai năm qua biểu hiện rõ nét nhất là trong sản xuất nông nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, trong các huyện, các hợp tác xã nông nghiệp và một số xí nghiệp quốc doanh. Càng đi xuống địa phương và cơ sở, càng thấy rõ nhiều nhân tố mới, nhiều kinh nghiệm về cách làm ăn năng động, sáng tạo, khắc phục khó khăn để duy trì và phát triển sản xuất, giải quyết đời sống, đẩy mạnh xuất khẩu,... Tuy có thuận lợi về thời tiết nói chung, nhưng nông nghiệp phát triển tốt chủ yếu là do tác động của những chủ trương, chính sách về quản lý mới. Trong cả nước, đã có khoảng 50 huyện làm ăn giỏi, với những cơ cấu kinh tế khác nhau, ở những địa bàn khác nhau, trong đó có những huyện tiêu biểu như Đông Hưng (Thái Bình), Hải Hậu (Hà Nam Ninh), Thọ Xuân (Thanh Hoá), Điện Bàn (Quảng Nam - Đà Nẵng), Krông Pách (Đắc Lắc), Long Phú (Hậu Giang), Phú Tân (An Giang), v.v. và hầu hết, các tỉnh, thành đều có những huyện, quận giỏi. Các địa phương miền núi, vùng biên giới phía Bắc, mặc dầu hằng ngày phải đối phó với những âm mưu và hoạt động phá hoại của bọn phản động trong giới cầm quyền... đã có tiến bộ trên nhiều mặt. Sản xuất, đời sống, quốc phòng và an ninh được củng cố và phát triển.

Những chuyển biến đó tuy mới là bước đầu, nhưng đã chỉ rõ khả năng hiện thực và soi sáng hướng đi để đưa nền kinh tế vượt qua khó khăn. Những nhân tố mới trong thời gian qua trên nhiều lĩnh vực có sức thuyết phục lớn về khả năng phát huy các thế mạnh để tự lực vươn lên của từng địa phương và từng vùng kinh tế.

Những chuyển biến mới của nền kinh tế trong hai năm qua là kết quả của sự vận dụng đường lối đúng đắn của Đảng, là kết quả của tinh thần phấn đấu bền bỉ, kiên cường của nhân dân ta trong cả nước, và cũng là kết quả của việc thực hiện một số chính sách mới về quản lý kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.

Trong khi nền kinh tế nước ta còn chưa khắc phục hết hậu quả nặng nề của chiến tranh tàn phá, và trên nhiều mặt còn mất cân đối nghiêm trọng do yêu cầu khôi phục, ổn định và phát triển đặt ra, thì sự phát triển các quan hệ hợp tác giúp đỡ toàn diện với Liên Xô, phát triển quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trong Hội đồng Tương trợ kinh tế, cũng như sự giúp đỡ của các nước bè bạn và các tổ chức quốc tế trở nên vô cùng quý báu. Đó là nhân tố quan trọng, tạo thêm điều kiện để có thể sớm khai thác tiềm năng phong phú của đất nước.

Nhân dịp này, Hội đồng Bộ trưởng trân trọng đề nghị Quốc hội nhiệt liệt biểu dương đồng bào cả nước, công nhân, nông dân, cán bộ khoa học - kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật cùng các tầng lớp lao động khác, cán bộ các ngành, các cấp đã chủ động sáng tạo, vượt qua biết bao khó khăn trở ngại, ra sức phấn đấu làm tròn nhiệm vụ trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1982. Nhiệt liệt biểu dương các lực lượng vũ trang anh hùng của chúng ta, quân đội và công an luôn luôn xứng đáng là những chiến sĩ dũng cảm, ngày đêm canh giữ biên cương của Tổ quốc và bảo vệ cuộc sống yên lành của nhân dân.

Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với Đảng, Chính phủ và nhân dân Lào; Đảng, Chính phủ và nhân dân Campuchia anh em đã sát cánh cùng nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế. Chúng ta nhiệt liệt cảm ơn Đảng Cộng sản, Chính phủ, nhân dân Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác đã tận tình ủng hộ, giúp đỡ có hiệu quả cả tinh thần lẫn vật chất cho chúng ta trong công cuộc xây dựng kinh tế - văn hóa, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Chúng ta chân thành cảm ơn các Đảng Cộng sản và Công nhân, Chính phủ và nhân dân các nước bè bạn, các tổ chức quốc tế đã ủng hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của chúng ta.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Những chuyển biến mới và tiến bộ mới trong hai năm qua đã mở ra nhiều triển vọng mới rất đáng phấn khởi, nhưng trước mắt, không ít khó khăn: những khó khăn tồn tại lâu ngày và những khó khăn trong phát triển. Tình hình kinh tế - xã hội đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết.

Sản xuất chưa ổn định do thiếu gay gắt năng lượng, nguyên liệu và phụ tùng; đất đai, rừng, biển, lao động và các năng lực sản xuất hiện có mới được sử dụng ở mức thấp, năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất, xây dựng, vận tải còn kém, tình trạng lãng phí, tham ô trong quản lý vật tư và sản phẩm đang còn ở mức nghiêm trọng.

Phân phối lưu thông có tiến bộ trong thu mua lương thực và nông sản khác, song có nhiều diễn biến phức tạp: ngân sách và tiền mặt còn bội chi, thị trường và giá cả đang còn biến động; quản lý thị trường thiếu chặt chẽ, tiền lương cơ bản không thể hiện được nguyên tắc phân phối theo lao động và bảo đảm được đời sống, nhất là trong khu vực hành chính sự nghiệp. Lĩnh vực phân phối lưu thông đang là nơi biểu hiện tập trung cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, là một lĩnh vực mà kẻ thù bên ngoài câu kết với bọn phản động bên trong phá hoại ta. Sự yếu kém trong lĩnh vực phân phối lưu thông đang làm trầm trọng thêm những khó khăn của nền kinh tế.

Tình hình nói trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân:

Hậu quả của cuộc chiến tranh lâu dài chưa khắc phục xong, nền kinh tế vốn còn lạc hậu và mất cân đối nghiêm trọng, lại bị đảo lộn lớn trong những năm sau chiến tranh. Những biến động bất lợi trong nền kinh tế thế giới cùng với hoạt động phá hoại nhiều mặt của đế quốc Mỹ và bọn phản động trong giới cầm quyền... đã gây thêm khó khăn cho tình hình kinh tế nước ta.

Song điều cần nhấn mạnh là những khuyết điểm về quản lý kinh tế chậm được sửa chữa. Tình trạng quan liêu, bao cấp, bảo thủ, trì trệ còn nặng. Việc sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ quản lý tiến hành chậm, không đồng bộ và thiếu ăn khớp, thậm chí có những thiếu sót và sơ hở lớn như trong chính sách giá cả. Công tác điều hành, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế còn phân tán, kém năng động, ít hiệu lực; những vướng mắc của bên dưới chưa được xem xét, giải quyết kịp thời. Pháp chế kinh tế bị buông lỏng. Việc thi hành của cấp dưới ở một số nơi thiếu nghiêm túc, thậm chí làm trái chính sách, chế độ quản lý chung. Tình trạng phân tán, vô tổ chức, cục bộ, chạy theo lợi ích riêng không được ngăn chặn kịp thời và kiên quyết.

Việc sắp xếp lại sản xuất chưa được tiến hành khẩn trương. Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở Nam bộ làm chậm, việc cải tạo công thương nghiệp và quản lý thị trường bị xem nhẹ.

Chuyên chính vô sản bị buông lỏng trên nhiều lĩnh vực, nhất là trên mặt trận phân phối lưu thông.

Tóm lại, hai năm qua, tuy khó khăn trong sản xuất và đời sống còn nhiều và có mặt rất gay gắt, song nền kinh tế nước ta đang có bước phát triển đáng mừng. Những nhân tố mới đã xuất hiện trong hầu khắp cả nước, trên các lĩnh vực, đưa đến những chuyển biến mới, mở ra nhiều triển vọng mới, cho phép chúng ta kết luận rằng so với tình hình hai năm trước đây, đất nước ta đang ở thế tốt hơn.

Mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi đơn vị cần phát huy những mặt tích cực, nghiêm khắc kiểm điểm những mặt yếu kém trong việc thực hiện kế hoạch hai năm qua, để tiếp tục phấn đấu làm chuyển biến tình hình, tạo đà đi lên mạnh mẽ và vững chắc hơn trong năm 1983 và các năm sau.

PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ MỤC TIÊU
CHỦ YẾU CỦA KẾ HOẠCH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1983
VÀ MỨC PHẤN ĐẤU ĐẾN NĂM 1985

Tư tưởng chỉ đạo chung của kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1983 và mức phấn đấu đến năm 1985 là phải bằng mọi cách tạo sự chuyển biến về kinh tế và xã hội, đưa nền kinh tế ra khỏi một số khó khăn lớn, ổn định sản xuất và đời sống, giải quyết bằng được các đòi hỏi bức xúc nhất của đời sống nhân dân, đồng thời, tích cực chuẩn bị điều kiện cho những bước phát triển tới. Trên tinh thần đó, cần đánh giá đúng đắn các thuận lợi và khó khăn, từ đó đề ra các chủ trương và biện pháp cụ thể, thích hợp nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ và mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đại hội lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam và gần đây là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) đã đề ra.

Những thuận lợi cơ bản là:

- Đảng ta có đường lối đúng đắn và sáng tạo. Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng đã xác định những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5 năm 1981 - 1985 và những năm 80. Đảng và Nhà nước ta lại có thêm những kinh nghiệm thực tế về quản lý kinh tế, quản lý xã hội rất bổ ích của hai năm 1981 - 1982 bước đầu được đúc kết và thể hiện trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Hội đồng Bộ trưởng đã soi sáng nhiều vấn đề về cơ chế quản lý, bảo đảm phát huy các nhân tố mới, thúc đẩy hơn nữa mặt tích cực, đồng thời, khắc phục các lệch lạc, thiếu sót trong hoạt động kinh tế. Những chuyển biến mới trong hầu khắp các địa phương và ngành đang mở ra những triển vọng mới trong quá trình tiến lên của nền kinh tế.

- Tiềm năng về lao động, đất đai và các năng lực sản xuất khác chưa được khai thác còn rất lớn. Công suất của các nhà máy hiện nay nói chung mới chỉ sử dụng 50%; trong thời gian tới, các công trình mới xây dựng và sắp đưa vào sử dụng (Nhà máy điện Phả Lại, các Nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, Hà Tiên, các mỏ than, mỏ apatít, Nhà máy supe lân Lâm Thao...) sẽ tăng thêm đáng kể năng lực sản xuất của xã hội. Đất nước ta giàu tài nguyên, được thiên nhiên ưu đãi, có nhiều khả năng phát triển nhiều loại cây trồng nhiệt đới, thế nhưng hiện nay, còn hàng triệu hécta đất đai ở miền núi, trung du, Tây Nguyên, miền Đông Nam bộ thích hợp với nhiều loại cây nông nghiệp có giá trị kinh tế: cao su, cà phê, chè các loại cây có dầu, quế, cọ dầu, dừa, đay, mía, cây ăn quả, v.v. và còn biết bao tài nguyên rừng, biển, khoáng sản đang chờ khai thác. Ngay trên những diện tích đang sản xuất, đã có những điển hình năng suất cao về các loại cây, nhưng chưa được phổ biến. Thâm canh tăng năng suất trên diện tích đang canh tác là khả năng hiện thực còn rất to lớn.

- Sự hợp tác toàn diện và sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em trong Hội đồng Tương trợ kinh tế, sự liên minh đặc biệt với nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Cộng hòa Nhân dân Campuchia, sự hợp tác với các nước bè bạn ngày càng mở rộng. Sự giúp đỡ quý giá của các nước anh em và bè bạn, mối quan hệ hợp tác với tất cả các nước có nghĩa, có tình trên tinh thần bình đẳng và hai bên cùng có lợi là rất quan trọng trong những năm trước mắt cũng như lâu dài, tạo thuận lợi cho việc khai thác các tiềm năng rất to lớn của đất nước ta, đưa nền kinh tế tiến lên với một nhịp độ mới.

Đó là những thuận lợi cơ bản có tác dụng cả trước mắt và lâu dài. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta trong những năm tới vẫn còn nhiều khó khăn:

- So với các mục tiêu kinh tế - xã hội cấp bách và có ý nghĩa bức xúc của cuộc sống, thì mức đáp ứng của ta còn rất thấp, đang còn thiếu nhiều vật tư, nguyên liệu và năng lượng, lương thực và hàng tiêu dùng; thiếu vốn đầu tư xây dựng cơ bản; thiếu ngoại tệ để nhập vật tư, nguyên liệu cần thiết cho các ngành sản xuất... Những khó khăn này đang hạn chế rất lớn việc khai thác đúng mức các tiềm năng và thuận lợi vốn có của nước ta, nhất là nguồn lao động dồi dào, đất đai và tài nguyên phong phú.

- Tài chính, tiền tệ, giá cả, thị trường còn đang diễn biến phức tạp. Cuộc đấu tranh giữa hai con đường, đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội còn gay gắt. Cơ chế quản lý kinh tế chậm được đổi mới đã hạn chế việc khai thác các thế mạnh.

- Âm mưu và hành động phá hoại của tập đoàn phản động trong giới cầm quyền... câu kết với đế quốc Mỹ là một trở ngại cần khắc phục đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta.

- Tình hình khủng hoảng kinh tế và biến động về giá cả trên thị trường thế giới cũng có ảnh hưởng nhất định đến việc phát triển kinh tế của nước ta.

Ba năm tới, phải là ba năm nỗ lực rất cao, phấn đấu gian khổ để tiếp tục khắc phục khó khăn, đưa nền kinh tế đi vào thế ổn định và tích cực chuẩn bị cho bước phát triển tiếp theo. Bước đường phấn đấu này phải được thể hiện bằng phát huy tính năng động, sáng tạo, tinh thần tự lực, tự cường của nhân dân lao động trong cả nước, của các ngành, các địa phương và cơ sở, bằng sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, bằng sự mở rộng quan hệ hợp tác với các nước.

Vượt qua đoạn đường đầy thử thách để chuyển biến nền kinh tế nước ta, trong ba năm tới, triển vọng từng bước đưa nền kinh tế nước ta đi lên là rõ ràng, sáng sủa. Sau năm 1985, điện lực sẽ được giải quyết một bước, dầu khí được tiếp tục thăm dò đánh giá kết quả, các mỏ than lớn và các nhà máy xi măng lớn, cơ khí lớn, phân bón đi vào sản xuất; lương thực, thực phẩm đủ ăn và có dự trữ; xuất khẩu có khả năng phát triển mạnh; cơ chế quản lý kinh tế được đổi mới và đã có sự chuẩn bị về các mặt để bố trí lại lao động trên quy mô lớn bảo đảm khai thác tốt hơn tài nguyên đất đai, rừng, biển, v.v. trên khắp các vùng của đất nước. Với sức phấn đấu rất cao của toàn Đảng, toàn dân, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng từ thời kỳ 1986 - 1990, đất nước ta sẽ có những bước phát triển mới với quy mô và tốc độ lớn hơn.

Đại hội lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 là "Phát triển thêm một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm cơ bản ổn định được tình hình kinh tế và xã hội, đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm nhẹ những chỗ mất cân đối nghiêm trọng nhất của nền kinh tế, khắc phục một bước quan trọng tình trạng không bình thường về phân phối lưu thông, tăng thêm tiền đề và điều kiện để tiến lên mạnh mẽ và vững chắc hơn trong những năm sau".

Nhằm thực hiện bốn mục tiêu kinh tế - xã hội của những năm 80 do Đại hội lần thứ V của Đảng đã đề ra, trong ba năm 1983 - 1985, phải đạt mức phấn đấu cụ thể như sau:

- Về đời sống: tập trung giải quyết các đòi hỏi bức xúc nhất của đời sống: ăn, mặc, học tập, chữa bệnh... Năm 1983, tự đáp ứng được nhu cầu lương thực, từ năm 1984, tăng thêm được dự trữ. Bảo đảm đủ lương thực, thực phẩm theo tiêu chuẩn định lượng cho những đối tượng được Nhà nước cung cấp. Hàng năm tăng mức đáp ứng nhu cầu và đến năm 1985, bảo đảm được mức tiêu dùng thiết yếu về vải, chất đốt, thuốc chữa bệnh, giấy, xe đạp và phụ tùng, đồ dùng thông thường trong nhà. Tập trung giải quyết nhà ở và việc làm cho Thủ đô Hà Nội, một số thành phố và khu công nghiệp.

- Về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội: hoàn thành xây dựng một số công trình quan trọng và bảo đảm điều kiện cho việc đưa công trình vào sử dụng, nhằm giảm nhẹ những mất cân đối nghiêm trọng về năng lượng, giao thông vận tải, cơ khí sửa chữa và vật liệu xây dựng, tăng thêm năng lực sản xuất trong nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến thực phẩm và sản xuất hàng xuất khẩu. Chú trọng đầu tư chiều sâu, đồng bộ hoá để phát huy công suất của các cơ sở sẵn có. Tích cực chuẩn bị cho những công trình của kế hoạch năm năm sau.

- Về cải tạo xã hội chủ nghĩa: Ở Nam bộ, đến năm 1985, hoàn thành về cơ bản việc tổ chức nông dân vào tập đoàn sản xuất và hợp tác xã nông nghiệp, đưa một bộ phận sản xuất thủ công cá thể vào làm ăn tập thể bằng các hình thức thích hợp. Kiện toàn và nâng cao chất lượng của kinh tế quốc doanh; củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp và thủ công nghiệp. Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp, kiên quyết cải tạo và quản lý thị trường, mở rộng đi đôi với chấn chỉnh thị trường có tổ chức; cải tạo, sắp xếp lại và quản lý thị trường không có tổ chức.

- Về quốc phòng và an ninh: trong tình hình còn phải đối phó lâu dài với kẻ thù trực tiếp, phải thường xuyên cảnh giác, không ngừng tăng cường quốc phòng toàn dân và bảo đảm các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng; phát huy năng lực sản xuất của quân đội và công nghiệp quốc phòng tham gia xây dựng kinh tế một cách tích cực và thích hợp. Phải giữ vững an ninh chính trị và tạo nên chuyển biến mạnh mẽ trong việc bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; tiếp tục đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, sẵn sàng chiến đấu, đánh thắng chiến tranh xâm lược nếu kẻ địch liều lĩnh gây ra.

Mọi tính toán của kế hoạch phải xuất phát từ phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu nói trên và với ý chí cách mạng tiến công, phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo, quyết tâm thực hiện cho kỳ được. Kế hoạch đó phải khoa học và cách mạng, phản ánh ý chí của một dân tộc kiên cường, ý chí của một Đảng cách mạng tiến công, dựa trên khả năng sáng tạo vô cùng to lớn của quần chúng, của cơ sở, của địa phương và của các ngành. Đó phải là một kế hoạch động viên tổng lực mọi khả năng hiện có và sẽ tạo ra để vượt qua các khó khăn trước mắt, giải quyết những yêu cầu bức thiết nhất do cuộc sống đặt ra, tạo nên chuyển biến thực sự về kinh tế - xã hội.

Sau đây là những chủ trương và biện pháp chủ yếu nhằm thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước năm 1983 và ba năm tới:

1. Tự lực vươn lên với tinh thần làm chủ, khai thác mọi khả năng để cân đối kế hoạch một cách tích cực và vững chắc

Mỗi ngành, mỗi địa phương và cơ sở phải chủ động tìm mọi biện pháp khai thác các thế mạnh và khả năng từ nhiều nguồn để cân đối nhu cầu của mình và đóng góp cho cả nước:

- Trước hết là khả năng bản thân mình với nguồn dự trữ còn lớn về đất đai, lao động, năng lực sản xuất hiện có, về tăng năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và đặc biệt là khai thác thêm năng lực sản xuất bằng chính sách và biện pháp triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, khắc phục tình trạng lãng phí và hư hao còn lớn.

- Thực hiện đúng đắn phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm, Trung ương và địa phương cùng làm", mở rộng quan hệ hợp tác, liên kết sản xuất, kinh doanh giữa các đơn vị kinh tế, giữa các địa phương, giữa địa phương và Trung ương, để bổ sung cho nhau, hình thành sức mạnh tổng hợp. Mọi mối liên kết kinh tế đều phải được phản ánh đầy đủ trong kế hoạch và được thực hiện, được kiểm tra bằng hợp đồng kinh tế.

- Đẩy mạnh xuất khẩu để tăng thêm nguồn nhập khẩu vật tư cho sản xuất, hạn chế tối đa việc nhập hàng tiêu dùng và những sản phẩm mà trong nước có thể sản xuất.

- Sử dụng hợp lý và tiết kiệm những điều kiện vật chất được Nhà nước cung ứng.

2. Kiên quyết tập trung lực lượng để giải quyết cho được những yêu cầu quan trọng nhất, những địa bàn và đơn vị trọng điểm

Yêu cầu số một là phải giải quyết cho được vấn đề lương thực và thực phẩm, trước hết là sản xuất lương thực (cả lúa và hoa màu) đủ tiêu dùng trong nước và có dự trữ cần thiết.

Phát triển mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, tập trung giải quyết vải mặc và những loại hàng tiêu dùng thiết yếu nhất đối với đời sống nhân dân, những mặt hàng xuất khẩu và những mặt hàng đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách.

Tận lực đẩy mạnh xuất khẩu nhằm bảo đảm nhập khẩu những vật tư, thiết bị cần thiết cho hoạt động của các ngành kinh tế. Mỗi ngành, mỗi địa phương phải tạo nhanh nguồn hàng xuất khẩu để từng bước tự cân đối xuất nhập khẩu của mình và góp phần cho Trung ương giải quyết các yêu cầu chung của nền kinh tế. Tổ chức tốt các hoạt động du lịch, dịch vụ, kiều hối, v.v. để tăng thu ngoại tệ. Mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong Hội đồng Tương trợ kinh tế. Thực hiện các Hiệp định về kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật đã ký với Lào và Campuchia.

Phấn đấu sử dụng tới mức cao nhất công suất các cơ sở công nghiệp nặng hiện có, đẩy mạnh xây dựng và sớm đưa vào sử dụng các công trình năng lượng, cơ khí, nguyên liệu; củng cố và tăng cường năng lực giao thông vận tải. Đồng thời, ra sức chuẩn bị điều kiện cho bước phát triển tiếp theo.

Các yêu cầu đó phải được cụ thể hoá thành danh mục các sản phẩm, các công trình và các công việc cần được ưu tiên phân phối vật tư, tài chính và tập trung chỉ đạo thực hiện.

Đối với các địa bàn và đơn vị trọng điểm, đặc biệt là vùng lúa cao sản, vùng chuyên canh cây công nghiệp, Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các khu công nghiệp tập trung và các tỉnh biên giới phía Bắc, cần tập trung chỉ đạo và bảo đảm các điều kiện cần thiết để sớm tạo nên chuyển biến mạnh mẽ, tác động tích cực đến tình hình kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của cả nước.

3. Khẩn trương sắp xếp lại sản xuất và xây dựng

Căn cứ vào phương hướng tập trung nêu trên, cần khẩn trương sắp xếp lại sản xuất và xây dựng theo các yêu cầu dưới đây:

- Xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ sản xuất của từng cơ sở phù hợp với nhu cầu xã hội và điều kiện thực tế, phù hợp với quy hoạch lâu dài của các ngành, các địa phương. Bố trí lại các công trình xây dựng cơ bản theo phương hướng đầu tư tập trung cho những mục tiêu kinh tế chủ yếu, bảo đảm phát huy nhanh hiệu quả đầu tư.

- Tổ chức lại sản xuất trong từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở theo phương hướng, nhiệm vụ đã xác định. Xúc tiến việc liên hiệp sản xuất giữa các cơ sở có quan hệ gắn bó với nhau trong quy trình sản xuất, bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh. Tiến hành phân công, phân cấp quản lý đối với các cơ sở kinh tế quốc doanh.

- Mở rộng quan hệ hợp tác, liên kết sản xuất, kinh doanh giữa các đơn vị kinh tế thuộc các ngành, các cấp và các thành phần kinh tế khác nhau. Cố gắng sử dụng tối đa năng lực sản xuất của kinh tế quốc doanh, của những cơ sở bảo đảm hiệu quả kinh tế cao, đồng thời kết hợp giữa xí nghiệp lớn, vừa và nhỏ, giữa cơ giới, nửa cơ giới và thủ công để phát huy khả năng của các cơ sở và các thành phần kinh tế theo yêu cầu của kế hoạch nhà nước.

4. Thiết lập trật tự xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực phân phối lưu thông

Thiết lập trật tự xã hội chủ nghĩa, trước hết trong kinh tế quốc doanh và thị trường có tổ chức, bảo đảm cho Nhà nước nắm được hàng hóa do xí nghiệp quốc doanh sản xuất và gia công, nắm được phần lớn nông sản hàng hóa bằng quan hệ trao đổi hai chiều trực tiếp với nông dân, nắm được những loại hàng thiết yếu do các thành phần kinh tế khác sản xuất, loại bỏ tư thương khỏi thị trường lương thực, nông sản nguyên liệu, hàng xuất khẩu, không để hàng của xí nghiệp quốc doanh tuồn ra thị trường tự do. Mở rộng mạng lưới và cải tiến phương thức kinh doanh của thương nghiệp xã hội chủ nghĩa trong tất cả các lĩnh vực thu mua, bán buôn, bán lẻ, dịch vụ; nắm toàn bộ bán buôn, chi phối phần lớn bán lẻ và quản lý cho được thị trường.

Tăng cường quản lý tài chính quốc dân (gồm cả tài chính và tiền tệ thuộc khu vực nhà nước và trong toàn xã hội) xây dựng và thi hành chính sách tài chính tích cực, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân một cách hợp lý, không tiêu dùng quá mức của cải làm ra, triệt để tiết kiệm tiêu dùng để dành vốn cho sản xuất, xây dựng, điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư có lợi cho Nhà nước, cho nhân dân lao động, phấn đấu giảm bội chi ngân sách và tiền mặt. Từng bước ổn định được giá cả và tiền tệ.

Giải quyết một bước yêu cầu cấp bách về đời sống của công nhân, viên chức, bộ đội và công an; xúc tiến việc nghiên cứu và chuẩn bị để cải tiến chế độ tiền lương phù hợp với điều kiện thực tế.

5. Khai thác tiềm năng của khoa học - kỹ thuật

Kế hoạch nghiên cứu và ứng dựng khoa học - kỹ thuật phải là một bộ phận hữu cơ của kế hoạch kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện cho các công trình khoa học - kỹ thuật trọng điểm được triển khai tốt để phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội. Có chính sách đúng đắn và tổ chức hợp lý để huy động lực lượng khoa học - kỹ thuật tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch, xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án kinh tế - kỹ thuật cho từng cây, con, từng sản phẩm, cho từng vùng và từng loại công việc.

Ứng dụng rộng rãi các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, xây dựng và đời sống để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, tiết kiệm vật tư, tạo nguyên liệu, phụ tùng cho sản xuất, khai thác hết công suất máy móc thiết bị.

Tăng cường cán bộ khoa học - kỹ thuật cho các huyện và cơ sở sản xuất, kể cả các đơn vị kinh tế tập thể. Đẩy mạnh cuộc vận động quần chúng tiến quân vào khoa học - kỹ thuật.

6. Kiên quyết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và kế hoạch hoá, tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành

Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và kế hoạch hoá gắn liền với tổ chức lại sản xuất, cải tiến công tác điều hành là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng nhằm khắc phục tệ quan liêu, bao cấp, đưa các hoạt động kinh tế đi vào hạch toán kinh doanh, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ, tiến hành phân cấp quản lý kinh tế, bảo đảm quyền lãnh đạo tập trung, thống nhất của Trung ương, đồng thời mở rộng quyền chủ động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở, địa phương và ngành. Tăng cường sự phân công, hợp tác xã hội chủ nghĩa, đề cao kỷ luật và pháp chế, tôn trọng kế hoạch nhà nước trong hoạt động kinh tế. Khắc phục tình trạng phân tán, chia cắt, bảo đảm sự nhất trí giữa ba loại lợi ích kinh tế: lợi ích của xã hội, của tập thể và của cá nhân người lao động.

Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá, bảo đảm cho mỗi cấp quản lý thực sự làm chủ kế hoạch, thực sự xây dựng kế hoạch từ cơ sở lên; gắn kế hoạch với hạch toán và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, gắn kế hoạch với chính sách, gắn việc xây dựng kế hoạch với điều hành, tổ chức thực hiện kế hoạch. Rút kinh nghiệm việc xây dựng kế hoạch 1983 để làm tốt hơn việc xây dựng kế hoạch các năm 1984, 1985 từ cơ sở lên, đặc biệt là kế hoạch của hơn 400 huyện và mấy trăm xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp, công ty trong cả nước.

Xúc tiến công tác điều tra cơ bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất, dự thảo kế hoạch triển vọng để chuẩn bị tích cực cho kế hoạch năm năm sau.

Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành và kiểm tra thực hiện kế hoạch; cơ quan quản lý cấp trên kịp thời giải quyết những vấn đề do cấp dưới đề ra, tích cực giúp đỡ cấp dưới khắc phục khó khăn.

7. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng

Trong những năm trước mắt, cần làm tốt mấy việc sau đây:

- Bảo đảm nhu cầu thường xuyên về hậu cần và kỹ thuật của quốc phòng trong thời bình, đồng thời tăng dự trữ của Nhà nước. Cần kiệm xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, giải quyết hợp lý mối quan hệ trong việc xây dựng ba thứ quân, bảo đảm quân thường trực mạnh và quân dự bị hùng hậu.

- Tổ chức cho các đơn vị quân đội tiến hành sản xuất để tự cung ứng một phần nhu cầu, huy động công nghiệp quốc phòng tham gia những hoạt động kinh tế có kế hoạch; sử dụng lực lượng quân đội đảm nhận những việc thích hợp về xây dựng kinh tế.

Theo những phương hướng, nhiệm vụ, chủ trương và biện pháp trình bày trên đây, nhiệm vụ cụ thể của các ngành kinh tế trong kế hoạch nhà nước năm 1983 và mức phấn đấu đến năm 1985 như sau:

I- NÔNG NGHIỆP

Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng kinh tế của nước ta hiện nay, có tầm quan trọng quyết định việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội và quốc phòng. Vì vậy, phải tập trung nỗ lực của cả nước, của tất cả các ngành, các cấp cho mặt trận nông nghiệp để đẩy mạnh sản xuất nhằm giải quyết cơ bản vấn đề lương thực, thực phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp và nông sản xuất khẩu.

1. Lương thực

Mục tiêu của chúng ta là phấn đấu năm 1983 có lương thực đủ ăn, từ năm 1984 trở đi có thêm dự trữ. Như vậy, sản lượng lương thực năm 1983 phải đạt 17 triệu tấn quy thóc (14,3 triệu tấn thóc, 2,7 triệu tấn màu quy thóc) và đến năm 1985 đạt 19 - 20 triệu tấn. Mỗi năm tăng thêm trên 1 triệu tấn là một cuộc đấu tranh rất gian khổ, song chúng ta có thể đạt được và nhất định phải đạt cho được. Muốn vậy, đi đôi với tăng vụ và khai hoang để mở rộng diện tích, phải đặc biệt coi trọng thâm canh, tăng năng suất, xây dựng các vùng lúa cao sản ở đồng bằng Nam bộ, đồng bằng Bắc bộ, các tỉnh khu V cũ, các tỉnh khu IV cũ, các tỉnh biên giới phía Bắc và ở mỗi địa phương. Thâm canh phải trở thành biện pháp cơ bản để đạt hiệu quả và đạt năng suất cao trên tất cả các vùng đất lúa, kể cả trung du và miền núi. Diện tích lúa thâm canh cao sản năm 1983 từ 1,5 đến 1,8 triệu hécta, chiếm 30% tổng diện tích lúa của cả nước, đến năm 1985 diện tích lúa cao sản là 2 triệu hécta, cung cấp một nửa sản lượng thóc của cả nước.

Năng suất lúa bình quân một hécta gieo trồng năm 1983 là 24,5 tạ, trong đó lúa cao sản đạt 37,5 tạ/hécta. Tùy theo đặc điểm từng vùng mà xác định cụ thể diện tích lúa cao sản từng mùa vụ, đặc biệt chú trọng thâm canh và mở rộng diện tích vụ đông - xuân là vụ ăn chắc và có năng suất cao nhất.

Mấy năm nay, hoa màu bị xem nhẹ, sút kém cả về diện tích và năng suất. Phải kiên quyết khắc phục tình trạng này, tiếp tục đẩy mạnh phát triển hoa màu lương thực. Tận dụng các loại đất để trồng màu, thực hiện trồng xen, trồng gối vụ, vừa trồng tập trung, vừa trồng phân tán. Cũng như cây lúa, phải hết sức chú trọng thâm canh màu. Đồng thời, tổ chức tốt việc vận chuyển chế biến và tiêu thụ để đưa màu vào cơ cấu bữa ăn và phát triển chăn nuôi. Bộ Nông nghiệp phối hợp với các địa phương chỉ đạo sản xuất để năm 1983 đạt 2,7 triệu tấn màu quy thóc, năm 1985 lên 3,5 triệu tấn. Các địa phương cần tính toán thêm các biện pháp để có thể tăng màu lên hơn nữa cùng với phát triển chăn nuôi.

Năm 1983, dự kiến Nhà nước huy động 3,6 triệu tấn lương thực quy thóc, tăng 24% so với năm 1982.

Để tăng thêm nguồn thực phẩm, nguyên liệu và nhất là cho xuất khẩu, phải phát triển mạnh rau đậu và các loại cây ăn quả, chú trọng các cây đậu tương, đậu xanh, lạc, vừng, chuối, cam. Coi trọng xây dựng các vành đai thực phẩm, các vùng chuyên canh tập trung để cung cấp cho các thành phố, khu công nghiệp và xuất khẩu.

Để thực hiện các mục tiêu trên, cần tập trung chỉ đạo thực hiện tốt các biện pháp chủ yếu sau đây:

- Hoàn chỉnh các công trình thủy lợi đã xây dựng để tận dụng năng lực tưới, tiêu, trước hết cho các vùng thâm canh cao sản. Xây dựng thêm các công trình vừa và nhỏ bằng các nguồn vốn của các địa phương và đóng góp công sức của nhân dân. Chú trọng nạo vét sông, kênh, lạch và phát triển thủy lợi đồng bằng Nam bộ; thu hẹp diện tích úng ở đồng bằng Bắc bộ. Diện tích lúa được tưới năm 1983 là 4,1 triệu hécta, năm 1985 là 4,5 triệu hécta và diện tích lúa được tiêu úng là 15 vạn hécta. Chuẩn bị điều kiện xây dựng một số công trình thủy lợi lớn.

- Khuyến khích phát triển mạnh và sử dụng rộng rãi các loại phân hữu cơ, nước phù sa, vôi bón ruộng, thực hiện luân canh và xen canh cây họ đậu để bồi dưỡng, cải tạo đất, tăng năng suất cây trồng. Nguồn phân hoá học do Nhà nước cung ứng tuy có tăng so với năm 1982, song vẫn còn thấp so với yêu cầu, do đó, cần ưu tiên tập trung cho các vùng thâm canh cao sản, vùng chuyên canh tập trung. Các địa phương cần đẩy mạnh xuất khẩu nông sản để nhập thêm phân đạm, phân tổng hợp, bảo đảm có đủ phân bón cho cây trồng. Cung cấp đủ thuốc trừ sâu, sản xuất đủ bơm thuốc trừ sâu, nghiên cứu biện pháp phòng ngừa sâu bệnh, lai tạo giống mới có sức chống sâu bệnh.

- Hoàn chỉnh hệ thống giống lúa từ Trung ương đến cơ sở, phục tráng các giống lúa nguyên chủng, phát triển các loại giống mới có năng suất cao, chịu sâu bệnh, chịu hạn, úng, chịu chua, mặn và thích nghi với điều kiện của từng vùng. Đến năm 1985, phải có 50% diện tích lúa được cấy giống mới có năng suất cao.

- Đưa nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, nhất là các thành tựu về giống, phòng trừ sâu bệnh, bón phân và cải tạo đất...

- Tổng kết, bổ sung, hoàn thiện các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, thi hành đúng đắn chính sách khoán trong nông nghiệp, có chính sách khuyến khích sản xuất, chế biến, tiêu thụ màu, quản lý chặt chẽ lúa, gạo, ngô, v.v. thực hiện đúng chủ trương về thu mua lương thực, bảo đảm cho Nhà nước nắm được tuyệt đại bộ phận lương thực hàng hóa.

2. Cây công nghiệp

Nước ta có nhiều loại cây công nghiệp phong phú, có ưu thế là đầu tư ít, sớm cho sản phẩm, giá trị kinh tế cao. Do đó, để tạo ra sự phát triển vượt bậc về xuất khẩu, nhất thiết phải có bước phát triển mạnh về cây công nghiệp.

Diện tích cây công nghiệp năm 1983 là 87,5 vạn hécta, năm 1985 có 1,24 triệu hécta, tăng 61 vạn hécta so với năm 1980. Ngoài hình thức đầu tư thâm canh, mở rộng sản xuất ở cả ba khu vực: quốc doanh, tập thể và hộ gia đình, chúng ta khuyến khích các cơ quan, trường học, đơn vị bộ đội trồng cây công nghiệp, vừa tập trung vừa phân tán, áp dụng rộng rãi hình thức liên doanh, hợp tác giữa các tỉnh, giữa công nghiệp với nông nghiệp, giữa Trung ương với địa phương, v.v. để phát triển cây công nghiệp. Có tổ chức và chính sách đúng, thực hiện phương châm "Trung ương và địa phương cùng làm, Nhà nước và nhân dân cùng làm". Chú trọng xây dựng các vùng chuyên canh cây công nghiệp có năng suất cao để bảo đảm cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu.

Tăng nhanh diện tích trồng mía, phát triển trồng mía ở tất cả địa phương để giải quyết nhu cầu đường, mật tại chỗ cho nhân dân. Khoanh vùng nguyên liệu và giải quyết tốt các chính sách bảo đảm các nhà máy đường trung ương chạy hết công suất.

Xúc tiến lập quy hoạch và ban hành chính sách khuyến khích sản xuất để tăng thêm diện tích trồng thuốc lá, chủ yếu là ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Bắc, Hà Nội, Hà Nam Ninh, Phú Khánh, Thuận Hải, Đồng Nai, Đồng Tháp, v.v.. Bảo đảm cung cấp đủ nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu.

Khôi phục và phát triển trồng bông ở những vùng có điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp (Thuận Hải, Phú Khánh, Gia Lai - Kon Tum, v.v.), đẩy mạnh trồng các loại cây có sợi như đay, gai, lanh, bông gòn, dứa dại, v.v. đặc biệt là phát triển rộng khắp phong trào trồng dâu nuôi tằm để góp phần giải quyết nhu cầu về mặc. Vận động nhân dân cả nước trồng các loại cây có giá trị kinh tế như cây có dầu (cây dừa, thầu dầu, trẩu, sở), cây làm thuốc, cây đặc sản (hồi, quế)...

Đẩy mạnh thâm canh trên diện tích cây công nghiệp dài ngày hiện có, trồng mới thêm nhiều cao su, cà phê, chè để xuất khẩu, bảo đảm chất lượng và đúng kỹ thuật.

Về cao su, đẩy mạnh trồng mới đi đôi với chăm sóc, thu hoạch tốt các vườn cây hiện có. Trong 5 năm 1981 - 1985, ngoài diện tích Nhà nước trực tiếp đầu tư trồng 7 vạn hécta, cần phát triển các hình thức liên doanh giữa các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh miền Đông Nam bộ và Tổng cục Cao su để trồng từ 3 đến 5 vạn hécta và động viên nhân dân cùng trồng trên vùng đã quy hoạch.

Mở rộng thêm diện tích cà phê bảo đảm năm 1983 có 2,2 vạn hécta, năm 1985, có 4,1 vạn hécta. Trong số diện tích trồng mới 5 năm 1981 - 1985, Nhà nước đầu tư trồng 2 vạn hécta và vận động nhân dân trồng thêm 6.000 hécta.

Chè, năm 1983 có 5 vạn hécta, năm 1985 có 6 vạn hécta. Trong 5 năm 1981 - 1985, Nhà nước đầu tư trồng mới 1 vạn hécta, vận động hợp tác xã và nhân dân trồng thêm 1 vạn hécta.

3. Chăn nuôi

Chăn nuôi phải được phát triển thật mạnh mẽ ở khắp các địa phương, bằng mọi hình thức: chăn nuôi gia đình, chăn nuôi tập thể, đồng thời từng bước củng cố và mở rộng chăn nuôi quốc doanh để cung cấp thực phẩm làm cho bữa ăn của nhân dân ta ngày một khá hơn, nhất là cho các thành phố, khu công nghiệp tập trung và phục vụ xuất khẩu. Chú trọng phát triển chăn nuôi gia súc lớn ở trung du và miền núi. Phát triển đàn lợn ở những vùng nhiều màu. Mở rộng việc chăn nuôi gà, vịt, ngỗng, dê, thỏ, nuôi ong, nuôi cá. Các ngành, các địa phương phải bảo đảm cung cấp thức ăn cho các cơ sở chăn nuôi gà, lợn ở các vành đai thực phẩm để tạo nguồn cung cấp thịt, trứng ổn định cho các thành phố, khu công nghiệp. Củng cố và phát triển hệ thống giống gia súc, gia cầm; làm tốt công tác thú y bảo vệ gia súc; v.v.. Năm 1983, đàn trâu, bò sẽ có 4,46 triệu con, tăng 4,4% so với năm 1982; đàn lợn 11,6 triệu con, tăng 7%.

Cùng với việc phát triển sản xuất phải tiếp tục đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp. Xúc tiến nhanh việc điều chỉnh ruộng đất, thu hút nông dân Nam bộ vào con đường làm ăn tập thể với hình thức tập đoàn sản xuất và hợp tác xã nông nghiệp; hướng dẫn và giúp đỡ kinh tế gia đình phát triển. Chúng ta phải quyết tâm thực hiện chủ trương có ý nghĩa chiến lược là đẩy mạnh việc xây dựng kinh tế huyện và tăng cường cấp huyện, lấy huyện làm địa bàn để tổ chức lại sản xuất và phân phối, liên kết các cơ sở kinh tế phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp, từng bước đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

II- LÂM NGHIỆP

Để bảo vệ rừng, trồng rừng và khai thác rừng một cách hợp lý phải gắn đất rừng với từng địa phương và nhân dân lao động thật sự làm chủ đất rừng như làm chủ đất nông nghiệp. Vì vậy, phải tiếp tục giao đất, giao rừng cho hợp tác xã, cho các đơn vị quân đội, các đơn vị kinh tế khác và khoán cho gia đình xã viên trồng rừng, bảo vệ rừng để bảo đảm cho mỗi khu rừng đều có người làm chủ cụ thể, có trách nhiệm bảo vệ, quản lý chu đáo, sử dụng đất đai, lao động tại chỗ để khai thác tài nguyên rừng và nâng cao đời sống cho đồng bào.

Kết hợp chặt chẽ lâm nghiệp với nông nghiệp, mở rộng kinh doanh tổng hợp, lấy rừng nuôi rừng, chấm dứt nạn phá rừng, cháy rừng và lãng phí lâm sản. Gắn liền công tác định canh, định cư với việc phát triển lâm - nông nghiệp ở miền núi, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, đem lại lợi ích thiết thân về đời sống vật chất và văn hóa cho đồng bào các dân tộc.

Bộ Lâm nghiệp có trách nhiệm lãnh đạo chặt chẽ toàn ngành, tăng cường cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ có năng lực cho các địa phương, trước hết là các địa phương có diện tích rừng lớn. Việc khai thác rừng chủ yếu là do các địa phương thực hiện. Trung ương chỉ trực tiếp quản lý một số rừng phải bảo vệ đặc biệt và có quy mô khai thác lớn.

Cần có quy hoạch, có phân công cụ thể, có chính sách khuyến khích để phát triển mạnh phong trào nhân dân, bộ đội, cơ quan, trường học, v.v. trồng cây ở khắp các địa phương, mau chóng phủ xanh đồi trọc và bãi cát ven biển.

Năm 1983, trồng mới 5,5 vạn hécta rừng tập trung. Ngoài ra, vận động nhân dân trồng 350 - 400 triệu cây bóng mát, cây ăn quả, cây có giá trị kinh tế (dừa, trẩu, sở...), cây lấy gỗ, làm củi ở khắp các địa phương.

Đẩy mạnh khai thác và chế biến gỗ để đạt sản lượng 1,4 triệu m3 năm 1983 và 1,6 triệu m3 năm 1985. Đi đôi với khai thác, vận chuyển bằng cơ giới, phải hết sức coi trọng dùng voi, trâu kéo gỗ, triệt để tận dụng sông, suối vận chuyển gỗ để tiết kiệm xăng dầu, nghiêm cấm việc dùng xe ô tô chở gỗ cây ở những nơi có đường sông. Chú trọng kết hợp khai thác và sơ chế tại cửa rừng để tận dụng gỗ nhỏ, gỗ cảnh ngọn, tăng tỷ lệ cung cấp gỗ xẻ, giảm bớt yêu cầu vận chuyển.

III- THỦY SẢN

Biển của ta có nguồn tài nguyên phong phú, nhưng từ lâu nay lực lượng lao động vùng biển được hình thành theo dạng tự nhiên, chưa đủ sức khai thác khả năng dồi dào của biển. Vì vậy, phải tận dụng mọi khả năng lao động quý giá hiện có, đồng thời bổ sung thêm lao động cho vùng biển để đẩy mạnh đánh bắt hải sản và khai thác các nguồn lợi khác của biển để đáp ứng yêu cầu ngày một tăng của nhân dân, nâng cao mức sống cho người lao động, đóng góp cho tiêu dùng và xuất khẩu.

Ngay từ năm 1983, cần ra sức củng cố và phát triển các cơ sở quốc doanh và hợp tác xã, khôi phục và phát triển lực lượng đánh bắt cá của nhân dân, nâng cao hiệu quả và năng suất trong các khâu đánh bắt, chế biến, thu mua, vận chuyển để phục vụ nhu cầu của các thành phố, khu công nghiệp và quân đội. Đẩy mạnh khai thác những sản phẩm có giá trị kinh tế lớn như san hô, đồi mồi, rau câu, v.v. phục vụ xuất khẩu.

Phát triển nuôi thủy sản, nhất là nuôi cá, nuôi tôm nước ngọt, nước lợ bằng cách tận dụng triệt để các mặt nước ao, hồ, đầm, phá và diện tích ruộng trũng. Phát triển mạnh nuôi tôm và đánh bắt tôm xuất khẩu ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đưa nghề nuôi cá nước ngọt thành phương hướng sản xuất quan trọng của các địa phương, đặc biệt là ở vành đai thực phẩm các thành phố lớn và khu công nghiệp.

Ngoài phần vật tư Nhà nước cung cấp, ngành thủy sản cần đẩy mạnh xuất khẩu để nhập thêm vật tư, phụ tùng cho các cơ sở đánh cá.

Năm 1983, khai thác 45 vạn tấn cá biển và 19 vạn tấn cá nước ngọt, nước lợ. Năm 1985: 50 vạn tấn cá biển và 23 vạn tấn cá nước ngọt, nước lợ.

IV- CÔNG NGHIỆP

Các cơ sở công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp trong cả nước đang còn nhiều tiềm năng về lao động và máy móc, thiết bị, nhưng do thiếu nguyên, vật liệu, năng lượng, cho nên công suất mới được sử dụng một nửa. Trong những năm tới, chúng ta phải tìm mọi cách giải quyết vấn đề nguyên, vật liệu và năng lượng, đầu tư thêm ở những cơ sở cần thiết để đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng, đi đôi với đổi mới quản lý, phát triển tốt hơn nữa khả năng của các cơ sở này, nhất là các cơ sở quốc doanh.

1. Công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm

Phải sử dụng tới mức cao nhất năng lực sản xuất hiện có của công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm kể cả tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp; tận dụng năng lực sản xuất của các xí nghiệp quốc phòng; khai thác thế mạnh về sản xuất hàng tiêu dùng của Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, v.v.; mở rộng các hình thức liên doanh, hợp tác giữa các xí nghiệp, giữa các ngành, giữa các cơ sở chế biến với các địa phương có nguồn nguyên liệu để làm ra nhiều hàng tiêu dùng; không để thiếu những mặt hàng tiêu dùng thông thường phục vụ nhu cầu hằng ngày của nhân dân.

Hướng chính là bằng mọi cách tạo cho được nguồn nguyên liệu trong nước, đồng thời, đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu, gia công hợp tác với nước ngoài để tạo thêm nguyên liệu cho sản xuất. Khôi phục các ngành nghề truyền thống, tận dụng khả năng lao động, kỹ thuật và nguồn nguyên liệu tại chỗ của các địa phương để phát triển nhiều mặt hàng tiêu dùng phong phú, đa dạng.

Chất lượng sản phẩm phải là mối quan tâm thường xuyên của các cơ sở sản xuất. Phải thực hiện việc đăng ký mặt hàng và chất lượng sản phẩm của mọi cơ sở sản xuất, tăng cường kiểm tra chất lượng sản phẩm, chống tệ làm ăn gian dối, làm hàng xấu, nghiêm trị tội làm hàng giả.

Ngành Công nghiệp dệt phải sử dụng tốt hơn công suất kéo sợi và dệt vải hiện có, trên cơ sở bảo đảm cung cấp đủ nguyên liệu bông, sợi, điện, than, xăng dầu và gỗ làm thoi, suốt. Tăng sản xuất phụ tùng để sửa chữa, khôi phục thiết bị. Tăng xuất khẩu nông sản để nhập thêm bông, sợi, hoá chất và thuốc nhuộm cho ngành dệt. Hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng các Nhà máy kéo sợi Hà Nội, Vinh, Nha Trang; bổ sung máy kéo sợi cho các nhà máy dệt Khánh Hội, Nam Định và 8/3.

Năm 1983, phấn đấu đạt 260 triệu mét vải, năm 1985 đạt 380 triệu mét.

Đẩy mạnh việc khôi phục và phát triển nghề ươm tơ, dệt vải, lụa bằng thủ công, nửa cơ giới ở tất cả các địa phương, ở gia đình để giải quyết thêm một phần nhu cầu vải mặc.

Khẩn trương quy hoạch và xây dựng vùng nguyên liệu cho các Nhà máy giấy Vĩnh Phú, Tân Mai; phát triển thêm các cơ sở sản xuất giấy nhỏ thủ công, các cơ sở làm xút nhỏ, dùng vôi thay xút trong sản xuất giấy, tổ chức tốt việc vận chuyển và thu hồi giấy vụn, nhập thêm xút cho các nhà máy giấy. Năm 1983, sản xuất 5 vạn tấn giấy, năm 1985, đạt 9-10 vạn tấn, bảo đảm đủ nhu cầu giấy viết cho học sinh.

Phát triển các cơ sở sản xuất đường, mật thủ công nửa cơ giới, bảo đảm nguyên liệu mía cho các nhà máy đường trung ương, phấn đấu đưa sản lượng đường năm 1983 lên 23,8 vạn tấn, năm 1985 đạt 35 vạn tấn.

Đi đôi với việc cải tạo, phục hồi năng lực sản xuất của số diện tích đồng muối hiện có, sẽ đầu tư mở rộng thêm diện tích ở miền Bắc nhằm tăng sản lượng muối cung cấp đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, dành một phần muối ở miền Nam để xuất khẩu. Năm 1983, sản xuất 55 vạn tấn và đến năm 1985, đạt 70 vạn tấn.

Tăng mức sản xuất xe đạp, nhất là phụ tùng và săm lốp, bảo đảm nhu cầu tối thiểu về xà phòng, dụng cụ gia đình, đồ dùng học tập cho học sinh, dụng cụ y tế, dụng cụ bảo hộ lao động, v. v..

Bảo đảm nhu cầu tối thiểu về thuốc chữa bệnh, nhất là những loại thuốc thông thường. Tăng số lượng và chất lượng các mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu (hàng may mặc, thêu, đan, dệt thảm, hàng mỹ nghệ), v.v..

2. Công nghiệp nặng

Sắp xếp, bố trí lại các cơ sở sản xuất, phấn đấu tăng thêm nguồn năng lượng, nguyên liệu để tận dụng công suất, thiết bị phục vụ thiết thực cho nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Đẩy mạnh xây dựng các công trình trọng điểm của các ngành điện, than, cơ khí, hoá chất, vật liệu xây dựng. Tiến hành điều tra cơ bản, lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật và thiết kế để chuẩn bị xây dựng một số cơ sở mới phục vụ yêu cầu trước mắt và lâu dài của nền kinh tế.

Phát huy hết công suất của các nhà máy thủy điện. Bảo đảm việc nhập và sản xuất phụ tùng sửa chữa, ưu tiên cung cấp dầu, than cho các nhà máy nhiệt điện hoạt động bình thường.

Khẩn trương xây dựng, hoàn thành đồng bộ tổ máy đầu của Nhà máy điện Phả Lại để giữa năm 1983, huy động vào sản xuất, năm 1985 hoàn thành về cơ bản. Bảo đảm tiến độ xây dựng Nhà máy thủy điện Hoà Bình. Tìm mọi cách tăng nguồn điện cho các tỉnh miền Nam, khẩn trương chuẩn bị để sớm khởi công xây dựng thủy điện Trị An. Nhập và sản xuất thêm thiết bị để xây dựng thêm các trạm thủy điện nhỏ cho các tỉnh miền Trung và miền núi.

Xây dựng và cải tạo mạng lưới điện, trước hết là Hà Nội và các khu công nghiệp. Giảm mạnh lượng điện hao hụt, mất mát, giảm tiêu hao nhiên liệu trong sản xuất điện. Quản lý sử dụng hợp lý nguồn điện, triệt để tiết kiệm điện trong sản xuất và sinh hoạt.

Sản lượng điện năm 1983: 4,37 tỷ kWh, tăng 5% so với năm 1982, năm 1985, đạt 5,5 tỷ kWh, tăng 48% so với năm 1980.

Tập trung giải quyết đồng bộ cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tiến quản lý và bảo đảm đời sống cho công nhân ngành Than. Đẩy mạnh tiến độ xây dựng cơ bản các mỏ Mông Dương, Khe Chàm, Tân Lập và một số công trường của mỏ Vàng Danh, Mạo Khê; tiếp tục mở rộng các mỏ Cao Sơn, Núi Béo, Núi Hồng, hoàn thành cải tạo các mỏ than mỡ Phấn Mễ, đẩy mạnh xây dựng và khai thác mỏ than Làng Cẩm, Na Dương. Chú trọng khai thác các mỏ than đá, than mỡ và than bùn ở các địa phương để đáp ứng yêu cầu tại chỗ, đỡ vận chuyển từ xa đến.

Bảo đảm khối lượng bốc đất đá, chuẩn bị tốt khai trương cho những năm sau. Khắc phục tình trạng mất cân đối giữa khâu khai thác và vận chuyển, tăng cường khâu sàng, tuyển để bảo đảm chất lượng và cơ cấu than thương phẩm.

Sản lượng than năm 1983 là 6,5 triệu tấn, năm 1985 là 8,5 triệu tấn, tăng 60% so với năm 1980. Khối lượng bốc đất đá năm 1983 từ 23 đến 27 triệu m3.

Thực hiện tốt chương trình hợp tác dầu khí với Liên Xô. Lập quy hoạch tổng thể về phát triển công nghiệp dầu khí ở khu vực Vũng Tàu.

Tiếp tục công tác tìm kiếm, thăm dò, xác định trữ lượng khí đốt ở đồng bằng Bắc bộ.

Về cơ khí, đẩy mạnh sản xuất phụ tùng thay thế để tăng khả năng sửa chữa, khôi phục các máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải của các ngành. Tăng sản xuất phương tiện vận tải đường sông và đường biển (sà lan và tàu vận tải). Sản xuất đủ công cụ lao động thường và công cụ cải tiến, một số máy móc, thiết bị cỡ nhỏ và vừa; sản xuất thiết bị cho mỏ, thiết bị cho các trạm thủy điện nhỏ, thiết bị cho đường mía, thiết bị sản xuất giấy, máy xay xát, máy chế biến nông sản. Duy trì ở mức độ hợp lý sản xuất các loại máy công cụ, động cơ điện, máy kéo bông sen và động lực 12 sức ngựa. Nâng cao chất lượng các mặt hàng kim khí tiêu dùng và dụng cụ đồ nghề xuất khẩu.

Khai thác tốt khả năng lắp ráp và sản xuất của công nghiệp điện tử phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Nghiên cứu, sắp xếp, bố trí hợp lý lại các cơ sở sản xuất để tận dụng năng lực thiết bị hiện có trong toàn ngành.

Về luyện kim, tăng cường thu nhặt thép vụn, cung cấp đủ dầu, điện cực để huy động tốt thiết bị luyện và cán thép của các nhà máy ở gang thép Thái Nguyên và ở miền Nam. Hoàn thành xây dựng các mỏ thiếc Tĩnh Túc, Sơn Dương, các cơ sở sản xuất chì, kẽm.

Năm 1983, sản xuất 4,6 vạn tấn thép cán, năm 1985, đạt 7 vạn tấn thép.

Về hoá chất và phân bón, đẩy mạnh khôi phục và mở rộng mỏ apatít Lào Cai; chuẩn bị xây dựng nhà máy làm giàu quặng apatít. Đi đôi với việc mở rộng Nhà máy supe lân Lâm Thao, cần đẩy mạnh việc khai thác quặng pyrít Giáp Lai; nhập thêm pyrít sắt, lưu huỳnh để phát huy hết công suất của nhà máy supe lân. Hoàn chỉnh các cơ sở sản xuất phân lân nung chảy, nghiên cứu sản xuất phân lân nhiệt luyện, tận dụng thiết bị các cơ sở sản xuất xi măng nhỏ để tăng sản xuất phân bón phục vụ nông nghiệp.

Chuyển hướng sản xuất một số cơ sở nghiền apatít. Bảo đảm cung cấp đủ hoá chất, nguyên liệu để sản xuất thuốc trừ sâu. Tích cực khai thác và sử dụng các nguyên liệu trong nước, đẩy mạnh sản xuất các loại hoá chất khác theo quy mô vừa và nhỏ, các loại phụ tùng bằng cao su, săm lốp, sơn, que hàn, đất đèn, phèn, bột nhẹ, xút, v.v. để giảm nhập khẩu và đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế.

Năm 1983, sản xuất 24 vạn tấn phân lân, tăng 21% so với năm 1982, năm 1985, lên 35 - 40 vạn tấn.

Về vật liệu xây dựng, hoàn thành xây dựng đồng bộ Nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch. Đẩy mạnh tiến độ thi công nhà máy xi măng Hà Tiên, mở rộng, khôi phục năng lực sản xuất Nhà máy xi măng Hải Phòng để bảo đảm sản lượng ổn định trong những năm tới. Cung cấp đủ than, dầu và điện ổn định cho các nhà máy xi măng lớn. Chú trọng nâng cao chất lượng các cơ sở sản xuất xi măng nhỏ.

Sản lượng xi măng năm 1983: 1 - 1,2 triệu tấn, năm 1985: 2 - 2,5 triệu tấn.

Mở rộng các mỏ đá ở miền Nam, phát triển mạnh nghề chẻ đá và các loại vật liệu không nung, vật liệu hoàn thiện. Tăng sản xuất và xuất khẩu các loại đá quý. Phát triển các cơ sở gạch, ngói ở đồng bằng Nam bộ.

Đẩy mạnh công tác điều tra địa chất khu vực, lập đồ án địa chất. Tiếp tục tìm kiếm, thăm dò để huy động vào khai thác nhanh một số loại khoáng sản, trước hết tập trung tìm kiếm thăm dò một số loại khoáng sản có ý nghĩa lớn: bôxít, thiếc, môlípđen, pyrít, vônphram, v.v..

V- VẬN TẢI VÀ BƯU ĐIỆN

Xây dựng quy hoạch phát triển mạng lưới giao thông vận tải hợp lý trong cả nước; gấp rút chấn chỉnh tổ chức, sắp xếp lại năng lực vận tải, tăng cường khâu quản lý, vươn lên đáp ứng yêu cầu vận chuyển phục vụ sản xuất, xây dựng và đời sống. Ưu tiên phát triển vận tải đường biển, đường sông; củng cố và phát huy năng lực vận tải đường sắt; tiếp tục xây dựng hàng không dân dụng. Phát triển rộng rãi phương tiện vận tải thô sơ, phát triển giao thông vận tải nông thôn miền núi, đặc biệt là ở huyện. Tăng cường sửa chữa, sản xuất và bổ sung phương tiện vận tải. Dựa vào dân, động viên sức dân trong xây dựng giao thông địa phương.

Nhiệm vụ trọng tâm của ngành Vận tải năm 1983 là tiếp nhận và vận chuyển kịp thời, đầy đủ hàng nhập khẩu và xuất khẩu, vận chuyển hàng hoá Bắc - Nam, vận chuyển than Quảng Ninh, vận chuyển vật tư, hàng hoá cho các tỉnh biên giới, vận chuyển cho nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Cộng hòa Nhân dân Campuchia.

Khối lượng vận tải hàng hóa trong nước năm 1983 tăng 9% về tấn và 16% về tấn km so với năm 1982, năm 1985 tăng 35% so với năm 1980.

Tiếp tục cải tiến tổ chức để nâng cao năng lực bốc dỡ, giải quyết các đầu mối ách tắc của khâu vận chuyển, rút hàng ở khu vực Hải Phòng. Triệt để khai thác kinh doanh đội tàu viễn dương; sửa chữa tàu cho nước ngoài; mở mang dịch vụ phục vụ tại các sân bay, bến cảng, trên tàu và nhà ga để tạo thêm nguồn vốn phát triển ngành.

Thực hiện việc phân công, phân cấp vận tải hợp lý giữa các ngành, giữa Trung ương và địa phương; hình thành các dây chuyền vận tải liên tục thông qua hình thức liên vận và đại lý vận tải. Khôi phục lại nền nếp, kỷ cương, chống các hiện tượng tiêu cực trong vận tải.

Về bưu điện, bước đầu hình thành mạng lưới thông tin liên lạc quốc gia thống nhất, bảo đảm thông tin nhanh chóng, thông suốt từ Trung ương đến tỉnh, thành phố và cơ sở. Đẩy mạnh hợp tác kinh doanh, tranh thủ sự giúp đỡ kỹ thuật và thiết bị của các nước xã hội chủ nghĩa, các tổ chức quốc tế khác. Giảm đến mức thấp nhất về mất mát, thất lạc, chậm trễ trong thông tin bưu điện. Giá trị sản lượng nghiệp vụ bưu điện năm 1983 tăng 15% so với năm 1982.

VI- ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN

Trong ba năm 1983 -1985, phải tiếp tục sắp xếp lại đầu tư xây dựng cơ bản, tính toán chặt chẽ hiệu quả và tập trung đầu tư có trọng điểm theo hướng:

Ưu tiên đầu tư chiều sâu nhằm hoàn thiện đồng bộ những xí nghiệp hiện có. Tập trung đầu tư cho sản xuất lương thực, chế biến nông sản và xuất khẩu. Đầu tư thích đáng cho điện, than, dầu khí, phân bón, xi măng, sợi, dệt, cơ khí sản xuất phụ tùng... Tăng cường có trọng điểm cơ sở vật chất - kỹ thuật của ngành Giao thông vận tải. Giải quyết dần nhu cầu nhà ở, nước sinh hoạt tại các khu kinh tế tập trung, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội.

Tích cực thực hiện đúng đắn phương châm "Trung ương và địa phương, Nhà nước và nhân dân cùng làm". Các ngành, các địa phương huy động thêm nguồn vốn tự có, vốn tín dụng để bổ sung cho nguồn vốn tập trung của Nhà nước, nhằm giải quyết yêu cầu mở rộng và nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm, cải tạo và xây dựng các công trình phúc lợi công cộng.

Rà soát lại các công trình, giảm bớt và đình hoãn xây dựng những công trình chưa thật cần thiết hoặc xây dựng xong mà không bảo đảm điều kiện sản xuất. Bảo đảm cân đối tiền vốn, vật tư cho từng công trình, trước hết là tập trung cho các công trình trọng điểm nhà nước. Thi công tập trung dứt điểm và đồng bộ từng công trình, hạng mục công trình. Đầu tư phải có phương án kinh tế - kỹ thuật, lấy hiệu quả kinh tế làm chỉ tiêu hàng đầu của các phương án đầu tư xây dựng.

Làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư và xây dựng, nhất là các công trình lớn của ngành Cơ khí, Luyện kim, Hoá chất, v.v. để tạo điều kiện đẩy mạnh xây dựng cơ bản trong các năm 1984 - 1985 và kế hoạch năm năm 1986 - 1990.

Trong năm 1983, chúng ta còn một khối lượng công trình xây dựng dở dang rất lớn, hầu hết đang ở giai đoạn thi công cao điểm sắp hoàn thành đi vào sản xuất. Một số công trình như điện Phả Lại, thủy điện Hoà Bình, công trình dầu khí Vũng Tàu, xi măng Hà Tiên, mỏ apatít Lào Cai, cầu Thăng Long, đường sắt Thống Nhất, hồ Dầu Tiếng, đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn. Công trình thủy điện Trị An đòi hỏi thêm vốn đầu tư ngay trong năm 1983.

Để thực hiện phương hướng, mục tiêu kế hoạch 5 năm 1981 -1985 theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ V, trong kế hoạch năm 1983, do khả năng các mặt vốn, vật liệu xây dựng (xi măng, gỗ, thép, xăng dầu) còn bị hạn chế cho nên vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước chỉ có thể bố trí tăng 19% so với tổng mức đầu tư của năm 1982, trong đó phần lớn tập trung đầu tư cho các công trình tiếp tục để sớm huy động vào sản xuất.

Với mức bố trí kế hoạch như trên, năm 1983, sẽ đưa vào sản xuất một số công trình quan trọng như: tổ máy số 1 của Nhà máy điện Phả Lại với công suất 11 vạn kW, dây chuyền số 2 Nhà máy xi măng Bỉm Sơn 60 vạn tấn/năm, Nhà máy xi măng Hoàng Thạch 1,1 triệu tấn/năm, các Nhà máy sợi Hà Nội, Nha Trang, Vinh với công suất 25 vạn cọc sợi, Nhà máy đường La Ngà công suất 2.000 tấn mía/ngày, xây dựng thêm 22 vạn m2 nhà ở tại các đô thị và khu công nghiệp, riêng Hà Nội: 7 vạn m2, v.v..

VII- XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU

Xuất nhập khẩu là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của nền kinh tế, có ý nghĩa cấp bách và lâu dài của nước ta. Phải gắn việc đầu tư để tăng nhanh công suất xuất khẩu với xây dựng cơ cấu kinh tế, với quy hoạch, kế hoạch và chính sách kinh tế. Đi đôi với việc ra sức phát triển sản xuất và triệt để tiết kiệm tiêu dùng để tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, phải mở rộng các hoạt động dịch vụ, du lịch, cung ứng tàu biển, kiều hối và các hình thức kinh doanh khác để tăng thu ngoại tệ.

Về xuất khẩu, phải tập trung sức của cả Trung ương cùng địa phương vào việc đầu tư và quản lý để xây dựng 25 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. Hết sức khuyến khích các ngành, các địa phương khai thác xuất khẩu thêm các mặt hàng phong phú khác.

Trong ba năm tới, hàng công nghiệp nặng (than đá, apatít, thiếc, cromít, xi măng, hàng cơ khí...) dành để xuất khẩu chưa nhiều. Hướng tập trung chủ yếu vẫn là hàng nông sản và nông sản chế biến, lâm sản, thủy sản. Đặc biệt chú trọng phát triển cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày có giá trị kinh tế cao, chú ý cây có sợi, cây có dầu.

Đi đôi với việc phát triển trồng cây công nghiệp phải tăng khả năng chế biến để nâng cao phẩm chất và giá trị hàng xuất khẩu, hạn chế xuất nguyên liệu nông, lâm, hải sản.

Đối với các mặt hàng xuất khẩu do Nhà nước quản lý, các ngành, các địa phương phải bảo đảm nghĩa vụ giao nộp cho Trung ương và tận dụng lao động, đất đai, năng lực sản xuất hiện có, tổ chức hiệp tác, liên doanh làm hàng xuất khẩu để tăng thêm kim ngạch cho ngành và địa phương mình.

Dự kiến kim ngạch xuất khẩu năm 1983 tăng 51% so với năm 1982, trong đó, hàng nông sản và nông sản chế biến tăng 83%, hải sản tăng 50%, lâm sản tăng 56%, hàng công nghiệp nhẹ, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp tăng 21%, hàng khoáng sản tăng 67%.

Để đạt mục tiêu về xuất khẩu cần phải:

- Triển khai và thi hành nghiêm chỉnh Quyết định 113 về xuất khẩu của Hội đồng Bộ trưởng và các văn bản hướng dẫn của Bộ Ngoại thương. Dành đủ vật tư, hàng hóa cần thiết cho sản xuất và đối lưu hàng xuất khẩu.

- Phát huy thế mạnh và vai trò của ngoại thương trong việc hướng dẫn, tổ chức và phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, tham gia tổ chức và quản lý kinh doanh xuất khẩu.

- Phân công lại việc thu mua một số nông sản xuất khẩu cho hợp lý và có chính sách tiết kiệm tiêu dùng trong nước các sản phẩm như chè, cà phê, lạc, thuốc lá, rượu, tôm, mực, v.v.. để ưu tiên dành cho xuất khẩu.

Quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu, phải đặc biệt chú trọng tăng khả năng nhập nguyên liệu, nhiên liệu và vật liệu. Có chính sách bảo hộ và phát triển hàng trong nước, kiên quyết không nhập mặt hàng nào mà trong nước sản xuất được. Phải xem xét, phân tích hiệu quả hàng nhập và thị trường nhập. Sử dụng hết công suất các thiết bị hiện có, điều hoà từ nơi thừa sang nơi thiếu, chỉ nhập những thứ hết sức thiết yếu. Mỗi ngành, địa phương và cơ sở, khi sử dụng hàng nhập phải tiết kiệm, có hiệu quả và phải tính đến khả năng trả nợ.

VIII- PHÂN PHỐI LƯU THÔNG

Vấn đề cấp bách nhất, nóng bỏng nhất hiện nay về phân phối lưu thông là tìm mọi biện pháp thiết thực và có hiệu lực để tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về việc chăm lo đời sống cho dân, trước hết cho công nhân, viên chức, bộ đội, công an, từ đó mà tăng thêm lòng phấn khởi tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, tạo ra các nhân tố tích cực thúc đẩy quá trình ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.

Mặc dầu nền kinh tế đang còn những khó khăn và mất cân đối lớn, nhưng với đà phát triển khá của sản xuất nông nghiệp, của sản xuất hàng tiêu dùng, trong ba năm tới và ngay từ năm 1983, chúng ta hoàn toàn có khả năng thực tế để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của nhân dân, như lương thực, rau đậu, muối, nước mắm, đường, cá, thịt, chất đốt, vải mặc, thuốc chữa bệnh và một số hàng tiêu dùng thông thường khác.

Vấn đề quyết định là phải nắm cho được những mặt hàng ấy để quản lý, phân phối kịp thời, đúng đối tượng, đúng trọng điểm, không bình quân, không bao cấp, không để hư hỏng, mất mát, lãng phí. Theo hướng đó, Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện pháp để từng bước ổn định tài chính, tiền tệ, thị trường, giá cả, tăng cường thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cung cấp các mặt hàng theo định lượng. Có biện pháp điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư.

Trước mắt, phải tập trung giải quyết cho được một số vấn đề cấp bách dưới đây:

1. Về nắm nguồn hàng

Các xí nghiệp quốc doanh phải giao toàn bộ sản phẩm thuộc kế hoạch nhà nước cho thương nghiệp quốc doanh và hệ thống vật tư của Nhà nước, không được giữ lại sản phẩm để tự tiêu thụ hoặc để thưởng bằng hiện vật.

Đối với tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, các cơ quan gia công phải thu hồi sản phẩm đầy đủ, đúng quy cách và phải thu mua cho được đại bộ phận sản phẩm do các cơ sở sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp làm ra. Xử lý nghiêm khắc các cơ sở làm ăn gian dối, làm hàng giả hoặc bớt xén nguyên liệu của Nhà nước.

Đối với nông nghiệp, cần thống nhất áp dụng trong cả nước chính sách huy động lương thực theo nghĩa vụ, bao gồm thuế nông nghiệp và thu mua theo nghĩa vụ bằng hợp đồng hai chiều. Kiên quyết loại trừ tư thương ra khỏi thị trường lương thực; nghiêm khắc trừng trị bọn đầu cơ lương thực, đồng thời quản lý và kiểm soát lương thực tận gốc, song phải tránh gây ra tình trạng "cấm chợ ngăn sông", gây trở ngại đến sản xuất và đời sống nhân dân.

Việc thu mua lâm sản, hải sản và các nông sản khác cũng phải thông qua hình thức hợp đồng kinh tế, theo giá chỉ đạo ổn định.

2. Về tài chính, tiền tệ

Để ổn định nền tài chính quốc gia, phải kịp thời cải tiến chính sách tài chính để tăng cường động viên các nguồn vốn vào ngân sách nhà nước và tiền mặt vào ngân hàng. Thi hành chính sách tiết kiệm triệt để, hạn chế những khoản chi mang tính chất bao cấp. Kiện toàn tổ chức quản lý tài chính, thực hiện kiểm tra tài chính chặt chẽ.

Đề cao nghĩa vụ và kỷ luật nộp tích luỹ và các khoản nộp khác của các xí nghiệp quốc doanh. Các cơ quan quản lý xí nghiệp và các xí nghiệp phải có kế hoạch và biện pháp cụ thể nâng cao hiệu quả của sản xuất, kinh doanh, giảm giá thành và phí lưu thông, xóa bỏ những chi phí không hợp lý, không hợp lệ. Nghiêm cấm việc tuỳ tiện nâng giá và lợi dụng chênh lệch giá để tăng lợi nhuận và tăng thu cho xí nghiệp và cho ngân sách địa phương. Tăng cường động viên bằng thuế đối với nông nghiệp, công thương nghiệp tập thể và tư nhân, cá thể, trên cơ sở sửa đổi chính sách thuế và kiên quyết đấu tranh chống trốn thuế, lậu thuế, chống miễn giảm không đúng chính sách. Tiếp tục cải tiến chính sách để đẩy mạnh phong trào gửi tiền tiết kiệm, để thu hút kiều hối, để quản lý chặt chẽ tiền mặt và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng.

Thực hiện việc phát hành công trái.

Kiên quyết sắp xếp lại và giảm chi tương ứng với nguồn thu. Khẩn trương thể chế hoá phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm, Trung ương và địa phương cùng làm" để động viên sức dân hợp lý, theo đúng chính sách, chế độ chung và tránh sơ hở, tham ô, lợi dụng.

Thực hiện thống nhất quản lý tài chính: mọi khoản thu chi phải theo đúng chính sách, chế độ của Nhà nước và phản ánh đầy đủ vào ngân sách, nghiêm cấm việc lập quỹ trái phép nằm ngoài ngân sách và ngoài quỹ ngân hàng. Trong tình hình nguồn tài chính của Nhà nước có hạn, phải tập trung đại bộ phận vào ngân sách Trung ương; địa phương được chủ động cân đối và quản lý ngân sách địa phương, nhưng phải báo cáo đầy đủ lên Trung ương, Hội đồng Bộ trưởng kiểm tra chặt chẽ việc chi tiêu của địa phương.

Năm 1983, dự kiến thu ngân sách nhà nước tăng 19%, chi ngân sách tăng 11% so với năm 1982.

3. Về giá cả

Trước mắt, giữ hệ thống giá chỉ đạo hiện nay, chỉ điều chỉnh một bộ phận xét thật cần thiết để tránh những đảo lộn không cần thiết, đấu tranh quyết liệt để từng bước bình ổn giá cả, lập lại trật tự trên lĩnh vực giá cả, trước hết là trong khu vực kinh tế quốc doanh; chống xu hướng nâng giá và chạy theo cơ chế thị trường tự do.

Đối với giá bán buôn, tiếp tục hoàn thiện và ổn định hệ thống giá hiện hành, trên cơ sở không ngừng giảm giá thành và phí lưu thông. Đối với giá thu mua, vấn đề cực kỳ quan trọng là gắn mua với bán theo nghĩa vụ ổn định và hợp đồng hai chiều, giữ vững tỷ giá và mức giá thu mua lúa đã quy định; đình chỉ ngay việc bán vật tư, hàng hóa theo giá cao và mua lúa theo giá cao. Đối với phần mua ngoài nghĩa vụ và ngoài hợp đồng, cần hướng dẫn mua theo giá khuyến khích, không chạy theo giá thị trường đang chịu tác động của yếu tố đầu cơ. Việc điều chỉnh giá thu mua một số sản phẩm cụ thể cần xem xét thận trọng, để giữ mối quan hệ hợp lý trong hệ thống giá.

Đối với giá bán lẻ, ngoài những mặt hàng bán theo định lượng với giá cung cấp cho công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang, Nhà nước cần thi hành cơ chế hai giá: giá bán lẻ ổn định đối với một số mặt hàng thiết yếu bán cho công nhân, viên chức và bán theo quan hệ trao đổi hai chiều cho nông dân, thợ thủ công, v.v. và giá bảo đảm kinh doanh (có hướng dẫn) đối với những mặt hàng ngoài diện, ngoài mức nói trên. Đối với một số mặt hàng bị bù lỗ thì trước hết phải sắp xếp lại sản xuất, định lại phương hướng sản xuất, soát lại giá thành và phí lưu thông, rồi mới xem xét việc điều chỉnh giá, không được tuỳ tiện nâng giá bán hoặc bù lỗ tràn lan qua ngân sách.

Thực hiện chế độ thống nhất quản lý giá: đối với những mặt hàng Nhà nước thống nhất định giá, các ngành, các địa phương không được tự ý thay đổi giá. Đối với những mặt hàng được phân công, phân cấp định giá thì các ngành, các địa phương phải theo những nguyên tắc, quy chế chung của Nhà nước về quản lý giá. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra về giá cả, giữ vững kỷ luật chấp hành giá chỉ đạo của Nhà nước. Sử dụng mọi biện pháp kinh tế, hành chính và giáo dục để đấu tranh bình ổn giá cả thị trường.

4. Tiền lương

Trong tình hình nền kinh tế đang có khó khăn, biên chế trong khu vực nhà nước lại quá lớn, chúng ta chưa thể giải quyết một cách cơ bản vấn đề tiền lương. Trước mắt, biện pháp cơ bản và quyết định nhất để giảm bớt khó khăn về đời sống của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang vẫn là bảo đảm cung cấp bằng hiện vật, tập trung sức bảo đảm cung cấp theo định lượng các mặt hàng quy định đúng số lượng, chất lượng, thời gian và giá cả. Phải gấp rút chấn chỉnh và tăng cường hệ thống thương nghiệp, cải tiến phương thức phân phối, bảo đảm hàng hóa đến tay người tiêu dùng, kiên quyết chống tham ô, móc ngoặc trong các cơ quan, đơn vị làm công việc này.

Để giảm bớt một phần khó khăn cho công nhân, viên chức khu vực hành chính sự nghiệp, cần định khoản phụ cấp tạm thời. Đối với khu vực sản xuất, cần xét duyệt chặt chẽ việc công nhận hoàn thành kế hoạch trên cơ sở các định mức và đơn giá hợp lý, bảo đảm mối tương quan chung, thi hành đúng đắn các chế độ lương khoán, tiền thưởng, khắc phục sự chênh lệch quá đáng về thu nhập trong nội bộ khu vực sản xuất, kinh doanh cũng như giữa sản xuất, kinh doanh với hành chính sự nghiệp.

Cùng với việc thực hiện các biện pháp trước mắt trên đây, cần sớm nghiên cứu và tích cực chuẩn bị điều kiện để tiến hành từng bước cải cách một cách cơ bản chế độ tiền lương đúng với nguyên tắc phân phối theo lao động của chủ nghĩa xã hội.

5. Phát triển thương nghiệp xã hội chủ nghĩa và tăng cường quản lý thị trường

Kiên quyết thi hành các chủ trương, biện pháp đề ra về tăng cường thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, quản lý thị trường. Đây vừa là khâu trung tâm của lĩnh vực phân phối lưu thông, vừa là mũi nhọn trong cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề "ai thắng ai" trên mặt trận kinh tế.

Để quản lý thị trường phải:

- Lập lại trật tự xã hội chủ nghĩa trước hết trong nội bộ kinh tế quốc doanh và cơ quan nhà nước; phát hiện và ngăn chặn những sơ hở trong tất cả các khâu (sản xuất, thu mua, phân phối, vận tải, kho tàng...) đang bị những phần tử xấu thoái hoá, biến chất trong nội bộ bộ máy nhà nước lợi dụng móc nối với bọn đầu cơ, buôn lậu để ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa.

- Mở rộng trận địa thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, bao gồm cả thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, cải tiến phương thức hoạt động kinh doanh để phục vụ tốt sản xuất và đời sống, lấy việc thực hiện chính sách, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, vươn lên làm chủ thị trường và giá cả làm nhiệm vụ hàng đầu, chống khuynh hướng kinh doanh đơn thuần, chạy theo lợi nhuận. Chấn chỉnh tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, làm cho lưu thông hàng hóa thông suốt từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, xóa bỏ những khâu trung gian không cần thiết, gây cản trở sản xuất và làm tăng phí lưu thông.

- Tập trung việc lưu thông hàng hóa vào các tổ chức thương nghiệp xã hội chủ nghĩa; các ngành sản xuất, chính quyền các cấp và các cơ quan hành chính sự nghiệp không được kinh doanh buôn bán.

- Thực hiện kiểm kê, kiểm soát thường xuyên, liên tục trên thị trường, theo nguyên tắc: kinh doanh phải được cấp đăng ký, phải mở tài khoản thanh toán qua ngân hàng và nộp thuế đầy đủ theo luật pháp, chịu sự kiểm tra thường xuyên của Nhà nước về kế toán, nguồn hàng, doanh số, vốn, giá cả. Phải dựa vào quần chúng, kết hợp với biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan chuyên trách (Công an, Thuế, Thương nghiệp) để điều tra, phát hiện và trừng trị rất nghiêm khắc bọn gian thương, đầu cơ, buôn lậu, nâng giá và những phần tử thoái hoá, biến chất trong bộ máy nhà nước.

IX- DÂN SỐ VÀ LAO ĐỘNG

Nắm cho được lao động, quản lý chặt chẽ lao động, phấn đấu giải quyết việc làm cho người lao động hướng vào sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi, mở mang ngành nghề, khai thác lâm nghiệp, ngư nghiệp, phát triển thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp và dịch vụ ở thành phố là một nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng về kinh tế và xã hội. Đồng thời, phải tích cực thực hiện mục tiêu đưa 1 triệu người, bao gồm lao động và nhân khẩu trong cả nước đi xây dựng các vùng kinh tế mới, trong đó năm 1983 là 20 vạn người, bố trí vào những nơi đã được chuẩn bị về điều kiện sản xuất và đời sống. Từng địa phương có kế hoạch cụ thể về điều chỉnh lao động trong phạm vi địa phương của mình. Điều rất quan trọng là phải tích cực chuẩn bị ngay từ bây giờ để đến kế hoạch năm năm sau, triển khai trên quy mô lớn việc phân bố lại lao động trong phạm vi cả nước một cách có hiệu quả.

Đội ngũ cán bộ khoa học và lao động kỹ thuật là nguồn vốn quý nhất của đất nước ta. Nhà nước cần có chính sách thích hợp để bố trí sử dụng hết và có hiệu quả số cán bộ đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật đã được đào tạo.

Để mọi người lao động đều đem hết sức mình cống hiến cho sự giàu mạnh của Tổ quốc, hăng say lao động, bảo đảm lao động có hiệu quả với năng suất cao cần cải tiến tổ chức lao động và có chính sách khuyến khích thích đáng. Sớm nghiên cứu ban hành Luật nghĩa vụ lao động, vừa vận động vừa bắt buộc mọi người có sức lao động phải làm việc. Trong việc hợp tác lao động với nước ngoài, hết sức tranh thủ hình thức gia công; việc đưa lao động ra nước ngoài nhất thiết phải lựa chọn đúng tiêu chuẩn, giáo dục và tổ chức quản lý chặt chẽ, bảo đảm học được nghề và có ảnh hưởng tốt về chính trị.

Đối với lao động khu vực nhà nước, vấn đề cấp bách là sắp xếp lại bộ máy quản lý nhà nước để giảm bớt trung gian, bớt đầu mối, giảm biên chế hành chính, để sự chỉ đạo, quản lý kinh tế được nhanh, nhạy, sát địa phương và cơ sở; tăng cường cán bộ cho huyện và cơ sở.

Các cơ sở sản xuất, chủ động khai thác mọi khả năng vật tư, nguyên liệu để mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm ổn định cho công nhân. Mở rộng hình thức giao khoán quỹ lương theo khối lượng sản xuất, kinh doanh. Mở rộng quyền chủ động cho Giám đốc xí nghiệp trong việc sử dụng lao động và quỹ tiền lương.

Dự kiến năng suất lao động năm 1983 của ngành Công nghiệp tăng 6%, ngành Xây dựng cơ bản tăng 7%, ngành Vận tải tăng 6%... so với năm 1982.

Phấn đấu hạ tỷ lệ tăng dân số xuống 2,1% năm 1983 và 1,7% năm 1985. Cần đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, các ngành, các địa phương và đơn vị cơ sở cần có chỉ tiêu phấn đấu cụ thể và thường xuyên chỉ đạo chặt chẽ, vận động thuyết phục; đặc biệt là ngành Y tế cần có biện pháp tích cực chăm lo công tác này. Riêng đối với vùng cao, vùng dân tộc ít người thì không hạn chế sinh đẻ, mà hết sức chú ý bảo vệ bà mẹ và trẻ em.

X- GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO, VĂN HÓA, Y TẾ, XÃ HỘI

1. Về giáo dục

Từng bước nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông theo chương trình cải cách giáo dục. Phát triển giáo dục phổ thông ở các tỉnh miền Nam và vùng dân tộc ít người. Coi trọng giáo dục toàn diện, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, kiên quyết thực hiện giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông trung học. Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội; kết hợp học tập và lao động sản xuất.

Cải tiến nội dung dạy và học bổ túc văn hóa cho người lớn, trước hết là số người trong độ tuổi lao động và cán bộ chủ chốt ở xã. Tăng cường công tác bổ túc văn hóa tập trung ở các tỉnh miền Nam. Tìm mọi biện pháp để thanh toán mù chữ ở các huyện vùng cao biên giới, vùng căn cứ kháng chiến cũ.

Tiếp tục phát triển mẫu giáo, củng cố trường lớp hiện có, nhất là ở các thành phố lớn và khu công nghiệp.

Thực hiện đúng đắn phương châm Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo cho nền giáo dục. Nghiên cứu đề ra những chủ trương phù hợp với khả năng đầu tư của Nhà nước và sự đóng góp của nhân dân.

2. Đào tạo cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật

Sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề thật hợp lý, phân công đào tạo giữa các trường phù hợp với yêu cầu và khả năng của nền kinh tế. Hết sức coi trọng bảo đảm chất lượng đào tạo cả về chính trị và chuyên môn, bảo đảm nhu cầu về cán bộ khoa học - kỹ thuật và công nhân cho các địa phương và cơ sở, nhất là các tỉnh miền Nam và miền núi. Mở rộng đào tạo, bồi dưỡng thực tập sinh và nghiên cứu sinh trong nước. Chú trọng đẩy mạnh các hình thức đào tạo tại chức, chuyên tu, bổ túc tập trung.

Chuyển hướng tuyển sinh theo vùng lãnh thổ để gắn việc đào tạo với phân phối sử dụng. Nghiên cứu ban hành chính sách đối với học sinh ra trường được phân công về làm việc ở hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp và đi miền núi, hải đảo... Đó là nơi mà tuổi trẻ được thử thách và rèn luyện, vì sự phồn vinh của đất nước và hạnh phúc của đồng bào mà tuổi trẻ chấp nhận mọi thử thách.

Để kết hợp học tập với lao động sản xuất, để nâng cao chất lượng đào tạo và làm ra thêm sản phẩm cho xã hội, các trường phải đẩy mạnh các hoạt động sản xuất và nghiên cứu khoa học.

Trong ba năm tới, tuyển sinh hàng năm vào các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật 12 vạn người, chuyên tu tại chức 1,5 vạn người và bổ túc tập trung công nhân kỹ thuật hai vạn người.

3. Văn hoá và thông tin

Phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa thông tin hướng vào phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, động viên phong trào thi đua lao động sản xuất và tiết kiệm, thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước. Đấu tranh triệt để và liên tục để quét sạch văn hóa nô dịch, phản động, đồi trụy, bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác.

Bảo vệ và giữ gìn tốt các cơ sở văn hóa hiện có. Chuẩn bị tích cực để từng bước xây dựng có trọng điểm các công trình văn hóa, các di tích lịch sử có ý nghĩa lớn đối với đất nước như Điện Biên, Côn Đảo, Trường Sơn, Đền Hùng, Bảo tàng Chủ tịch Hồ Chí Minh,v.v..

Phát triển các hình thức văn hóa - nghệ thuật, chú trọng phục vụ cơ sở sản xuất, xây dựng, các đơn vị vũ trang, nhất là các tỉnh biên giới, các vùng kinh tế mới. Kết hợp phục vụ và doanh thu để tạo thêm nguồn vốn phát triển ngành.

4. Về y tế - xã hội, thể dục - thể thao

Tăng cường vận động vệ sinh phòng bệnh nhằm cải thiện môi trường sống, môi trường lao động, đẩy mạnh sản xuất vắcxin, nâng cao hiệu suất tiêm chủng để chủ động ngăn ngừa dịch bệnh. Củng cố và nâng cao chất lượng các cơ sở y tế hiện có. Phát huy tác dụng của mạng lưới y tế cơ sở, đặc biệt là y tế xã. Chú trọng xây dựng mạng lưới y tế cơ sở ở miền Nam và miền núi. Phát triển các nguồn dược liệu, hoá dược trong nước để bảo đảm thuốc chữa bệnh thông thường cho nhân dân.

Tổ chức tốt việc tiếp nhận thương binh, chuyển dần số bệnh binh nặng đã được điều trị, điều dưỡng về địa phương và gia đình. Nghiên cứu bổ sung một số chính sách đối với thương binh và gia đình liệt sĩ, thực hiện tốt chính sách hậu phương.

Nâng cao chất lượng các nhà trẻ. Gắn việc xây dựng nhà trẻ với phát triển sản xuất và xây dựng.

Mở rộng cuộc vận động rèn luyện thân thể thành phong trào quần chúng; đầu tư công sức xây dựng những bộ môn thể thao thích hợp đạt trình độ quốc tế.

XI- KHOA HỌC - KỸ THUẬT

Khoa học - kỹ thuật là lực lượng sản xuất trực tiếp, là một tiềm năng to lớn cần khai thác để phục vụ công cuộc xây dựng kinh tế. Trước mắt, đi đôi với việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học cơ bản, cần mở rộng nghiên cứu khoa học ứng dụng, áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và kỹ thuật, các kinh nghiệm tiên tiến vào sản xuất; triển khai 72 chương trình tiến bộ khoa học và kỹ thuật trọng điểm nhà nước và các hoạt động khoa học và kỹ thuật khác, nhằm:

Nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, góp phần giải quyết nhu cầu về ăn, ở, thuốc chữa bệnh, học tập, nguyên liệu cho công nghiệp và cho xuất khẩu. Tạo ra các biện pháp kỹ thuật sử dụng tốt các năng lực sản xuất hiện có, trọng tâm là hoàn thiện quy trình công nghệ, cải tiến trang thiết bị, cải tiến kết cấu sản phẩm, giảm tỷ lệ tiêu hao và phế phẩm, nâng cao hệ số sử dụng công suất máy móc, thiết bị.

Nâng cao chất lượng sản phẩm trên cơ sở đẩy mạnh việc xây dựng, soát xét và áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo đảm các thiết bị, dụng cụ đo lường, các phương tiện kiểm tra sản phẩm.

Đẩy mạnh điều tra, nghiên cứu và tổ chức khai thác, chế biến một số tài nguyên quan trọng để tạo nguồn nguyên liệu ổn định thay thế một phần nguyên liệu nhập như: cây thuốc, kim loại màu, vật liệu xây dựng, các loại hoá chất, v.v..

Nâng cao hiệu suất, chất lượng trong việc sản xuất và cung cấp điện năng, phát triển thủy điện vừa và nhỏ, khai thác và chế biến than; sớm nghiên cứu chính sách năng lượng quốc gia nhằm sử dụng hợp lý các nguồn nhiên liệu - năng lượng hiện có và phát triển nhiều nguồn nhiên liệu - năng lượng mới (dầu khí, khí sinh vật, mặt trời, gió...).

Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng các mặt hàng tiêu dùng, các sản phẩm cơ khí, phương tiện vận tải, các loại phụ tùng, chi tiết máy, sản phẩm điện tử, v.v..

Đẩy mạnh công tác điều tra tài nguyên và điều kiện thiên nhiên, chú trọng các vùng dự kiến mở rộng diện tích lương thực và cây công nghiệp, các khoáng sản có nhiều triển vọng: dầu khí, than, apatít, thiếc, bốcxít, nguyên tố hiếm, vật liệu xây dựng, v.v..

Xác lập các căn cứ khoa học phục vụ cho việc cải tiến tổ chức và quản lý kinh tế - xã hội, chú trọng trước hết các ngành Nông nghiệp, Công nghiệp, Xây dựng cơ bản, Giao thông vận tải.

Tăng cường có trọng điểm cơ sở vật chất cho các cơ quan nghiên cứu, trước hết cho các cơ sở có nguồn thiết bị viện trợ của nước ngoài, các cơ sở đang xây dựng dở dang và cho một số cơ sở chủ trì việc thực hiện các chương trình tiến bộ khoa học - kỹ thuật trọng điểm của Nhà nước.

Mở rộng các hình thức hợp tác xã giữa cơ quan nghiên cứu và cơ sở sản xuất để đẩy mạnh sản xuất và tạo thêm nguồn vốn phát triển khoa học - kỹ thuật.

Sử dụng hợp lý, có hiệu quả lực lượng cán bộ khoa học - kỹ thuật, theo hướng sắp xếp lại cho đúng ngành nghề; củng cố các cơ sở nghiên cứu của Trung ương và tỉnh, thành; tăng cường cán bộ khoa học cho huyện và xí nghiệp lớn. Có chính sách đãi ngộ thoả đáng, khuyến khích cán bộ đi vào những nơi khó khăn.

Về khoa học xã hội, cố gắng vươn lên thực hiện những nhiệm vụ đề ra cho khoa học xã hội trong Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng và Nghị quyết của Bộ Chính trị về chính sách khoa học và kỹ thuật. Trong ba năm trước mắt cần tập trung sức nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về thời kỳ quá độ và về chặng đường đầu tiên của quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cùng các ngành khoa học tự nhiên và khoa học - kỹ thuật tiến hành điều tra cơ bản về kinh tế - xã hội ở một số vùng trọng điểm, trong đó có Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

XII- BỐ TRÍ KINH TẾ TRÊN CÁC ĐỊA BÀN

Đất đai và tài nguyên thiên nhiên ở các vùng trên đất nước ta vô cùng phong phú. Mỗi vùng đều có những thế mạnh rất to lớn và nhiều tiềm năng đang chờ được khai thác. Căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ của các ngành kinh tế và đặc điểm của từng vùng, trong ba năm tới, cần tập trung mọi khả năng để phát huy các thế mạnh của từng vùng, nhất là hai vùng đồng bằng Bắc bộ và Nam bộ, của Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, vừa đáp ứng các nhu cầu về sản xuất và đời sống của nhân dân trong vùng, vừa đóng góp ngày càng nhiều cho nhu cầu của cả nước. Trên cơ sở đó, tạo ra sự chuyển biến cơ bản trong nền kinh tế, thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh chính trị, để sớm ổn định tình hình, tạo thế vững chắc bảo vệ Tổ quốc.

1. Các tỉnh miền Tây và miền Đông Nam bộ

 Các tỉnh này có thế mạnh rất lớn về trồng lúa, chăn nuôi, khai thác thủy sản và hải sản (tôm, cá và tài nguyên biển), cây công nghiệp dài ngày và ngắn ngày, cây ăn quả, khả năng xuất khẩu nông sản, thủy sản, hải sản dồi dào. Nhưng hiện nay, đồng bằng Nam bộ còn thiếu vật liệu xây dựng, nhà ở, trường học, cơ sở chữa bệnh và phương tiện đi lại còn khó khăn.

Để phát huy thế mạnh, khắc phục mặt yếu, cần thực hiện những chủ trương và biện pháp sau đây:

- Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đi đôi với quy hoạch, phân vùng sản xuất, bố trí hợp lý cơ cấu cây trồng, vật nuôi để tạo năng suất ngày một cao. Sử dụng tốt lao động để đẩy mạnh khai hoang, thâm canh, tăng vụ mở nhanh các vùng lúa cao sản, xây dựng thành vựa lúa có sản lượng hàng hóa lớn nhất của cả nước, phấn đấu đạt sản lượng lương thực năm 1983: 6,5 triệu tấn, năm 1985: 8 triệu tấn. Đối với các tỉnh miền Đông Nam bộ chủ yếu là thâm canh trên đất lúa và màu để tự giải quyết phần lớn lương thực, giảm bớt mức cung cấp của Trung ương.

- Phát triển mạnh cây công nghiệp phù hợp với điều kiện ở từng nơi như đỗ tương, mía, lạc, thuốc lá, vừng, v.v. đặc biệt là cao su, cà phê, điều lộn hột ở miền Đông và cây dừa, cây đay ở đồng bằng để bảo đảm nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu.

- Phát triển chăn nuôi trâu, bò để vừa giải quyết sức kéo, vừa lấy thịt. Phát triển chăn nuôi lợn, gia cầm, nhất là vịt thời vụ, trồng rau, quả để cung cấp cho Thành phố Hồ Chí Minh, khu công nghiệp Biên Hoà và Vũng Tàu.

- Tập trung đánh bắt hải sản và nuôi tôm nước mặn ven biển ở các tỉnh Minh Hải, Kiên Giang, Tiền Giang, Cửu Long. Đẩy mạnh thâm canh nuôi cá nước ngọt, nước lợ trên hầu hết diện tích mặt nước còn lại.

- Bảo vệ và phát triển rừng đước, rừng tràm, trồng cây lấy gỗ, cây nguyên liệu giấy làm củi.

- Sắp xếp lại mạng lưới công nghiệp, mở mang tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, hợp tác với Thành phố Hồ Chí Minh để đẩy mạnh chế biến nông sản, hải sản, sản xuất đồ gỗ, đồ gốm, sành sứ, vật liệu xây dựng phục vụ đời sống và xuất khẩu. Khôi phục và phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm dệt vải, lụa. Hợp tác với Tổng cục Cao su để quy hoạch và phát triển cao su với diện tích lớn. Tham gia tích cực vào việc xây dựng Nhà máy thủy điện Trị An.

- Tăng xuất khẩu nông sản để nhập thêm phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu... cho nông nghiệp.

2. Các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc bộ

Ở đây có ưu thế lớn là nguồn lao động dồi dào, có nhiều công trình thủy lợi đã và đang phát huy tác dụng trong việc thâm canh tăng vụ, có khả năng phát triển nông nghiệp toàn diện cả lúa, màu, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi cá, nuôi ong. Nhưng ở đây, dân số quá đông, bình quân diện tích đầu người thấp, thường bị bão lụt ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.

Để phát huy thế mạnh của các tỉnh này, cần phải:

- Mở mang diện tích lúa cao sản, áp dụng rộng rãi các loại giống mới, tích cực hoàn thành đồng bộ các công trình thủy lợi, nhanh chóng đưa vào sử dụng. Phấn đấu năm 1983 đạt sản lượng lương thực 4,5 triệu tấn, năm 1985: 5 triệu tấn để giải quyết lương thực trong vùng, cung cấp lương thực cho các thành phố và khu công nghiệp miền Bắc.

- Phát triển mạnh các cây công nghiệp và cây ăn quả như chè, mía, thuốc lá, đỗ tương, đay, cói, thầu dầu, sơn, dứa, chuối, v.v. để bảo đảm cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu.

- Phát triển chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, vịt, nuôi cá, nuôi ong.

- Tiếp tục phân bố lại lao động và dân cư, mở rộng hợp tác với các tỉnh miền núi để khai thác lâm sản, với các tỉnh Nam bộ, Tây Nguyên để xây dựng các vùng kinh tế mới.

- Sắp xếp lại công nghiệp địa phương, mở mang ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp, khôi phục và phát triển nghề ươm tơ, dệt lụa, hợp tác với công nghiệp Trung ương, với Thủ đô Hà Nội để đẩy mạnh sản xuất, gia công hàng xuất khẩu. Củng cố và phát triển sản xuất muối ở các tỉnh ven biển.

- Phát triển mạnh vận tải đường sông, ven biển, trước hết là phương tiện thủ công để tiết kiệm xăng dầu.

3. Các tỉnh khu IV cũ

Các tỉnh này có ưu thế về trồng cây công nghiệp, về rừng, biển và chăn nuôi gia súc lớn, nhưng mặt yếu là thiếu lương thực:

- Đẩy mạnh sản xuất lương thực, tự giải quyết lương thực trong vùng bằng cách đẩy mạnh thâm canh cả lúa và màu, xuất đổi nông sản và lâm sản. Dự kiến sản lượng lương thực năm 1983: 1,8 triệu tấn và năm 1985: 2,2 triệu tấn.

- Phát triển mạnh lạc, chè, cà phê, cam, chanh, hạt tiêu, ớt, tỏi, cây có sợi (bông, lanh, tơ tằm) để cung cấp trong nước và xuất khẩu.

- Tiếp tục phân bổ hợp lý dân cư trong tỉnh để khai thác tốt nghề biển, nghề rừng, đất đai nông nghiệp và mở mang ngành nghề. Tổ chức lại lực lượng đánh bắt hải sản. Tiến hành giao đất, giao rừng cho hợp tác xã và nhân dân chăm sóc, đẩy mạnh khai thác gỗ.

- Sản xuất muối đủ tiêu dùng và cung cấp cho các tỉnh phía Bắc.

4. Các tỉnh duyên hải miền Trung và Tây Nguyên

Ở đây có khả năng rất lớn về cây công nghiệp, về rừng, biển, về sản xuất lương thực và chăn nuôi gia súc.

- Đẩy mạnh thâm canh cả lúa và màu, phấn đấu đến mức cao nhất để đạt sản lượng lương thực năm 1983: 2,02 triệu tấn, năm 1985: 2,46 triệu tấn.

- Phát triển mạnh các cây công nghiệp như cao su, cà phê, dừa, chè, thầu dầu, quế, mía, thuốc lá, đào lộn hột. Khôi phục và phát triển trồng bông, trồng dâu nuôi tằm và dệt vải để giải quyết một phần nhu cầu về mặc.

- Tận dụng khả năng công nghiệp, phát triển tiểu, thủ công nghiệp, nhằm bảo đảm chế biến lương thực, thực phẩm và nông sản xuất khẩu.

- Tăng cường đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, nhất là tôm, mực xuất khẩu.

 - Tận dụng đồng cỏ và màu để phát triển chăn nuôi trâu, bò, lợn và gia cầm.

- Đẩy mạnh trồng, tu bổ và chăm sóc rừng. Tiếp tục vận động định canh, định cư.

5. Các tỉnh miền núi phía Bắc

Các tỉnh này có ba thế mạnh cơ bản về rừng, cây công nghiệp và chăn nuôi gia súc lớn, nhưng mặt yếu là thiếu lương thực, đời sống văn hóa của nhân dân còn thấp. Các tỉnh biên giới phía bắc có vị trí quan trọng trong công cuộc phòng thủ đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy:

- Đẩy mạnh sản xuất lương thực bằng thâm canh trên diện tích cây lương thực hiện có là chính, không phá rừng, làm tốt công tác định canh, định cư. Ưu tiên đầu tư thâm canh tạo các vùng lúa cao sản trên diện tích 35 vạn ha. Coi trọng thâm canh cây lương thực, nhất là lúa nước, ngô, lúa nương. Phấn đấu năm 1983 đạt sản lượng lương thực 1,1 triệu tấn, năm 1985 đạt 1,3 triệu tấn, để giảm bớt số lượng lương thực Trung ương cấp.

- Phát triển mạnh các cây công nghiệp, cây đặc sản có giá trị kinh tế cao như chè, quế, hoa hồi, trẩu, thuốc lá, đỗ tương, lạc, cánh kiến đỏ, dược liệu và các cây có dầu, v.v. để bảo đảm nguyên liệu cho công nghiệp và dành nhiều nông sản xuất khẩu.

- Phát triển đàn gia súc, trước hết là phát triển đàn trâu, bò, bảo đảm sức kéo tại chỗ và cung cấp cho các tỉnh đồng bằng Bắc bộ.

- Chú trọng công tác giáo dục, y tế, văn hóa.

- Phải bảo đảm vận chuyển cho nhu cầu đời sống và đi lại của nhân dân.

- Cùng với lực lượng quốc phòng, an ninh xây dựng các tuyến đường bộ, các công trình thủy lợi, khai thác lâm sản, trồng rừng, giữ gìn trật tự an ninh và nâng cao cảnh giác.

6. Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh

Hai thành phố này có vị trí rất quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa và khoa học - kỹ thuật của cả nước. Các hoạt động sản xuất, lưu thông, dịch vụ của mỗi thành phố có liên quan mật thiết với yêu cầu phát triển kinh tế và đời sống ở từng khu vực.

Trung ương, các ngành, các địa phương có trách nhiệm xây dựng và tạo mọi điều kiện cho hai thành phố ổn định sản xuất, đời sống và từng bước phát triển, nhất là Thủ đô Hà Nội. Hai thành phố này cần tìm mọi cách phát huy thế mạnh của mình, nhất là khả năng công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, có tay nghề giỏi sản xuất hàng tiêu dùng, khả năng khoa học - kỹ thuật để hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau với các địa phương khác phát triển kinh tế, văn hóa, hình thành những quan hệ liên kết kinh tế về sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và xuất khẩu, thực sự trở thành một trung tâm kinh tế của khu vực. Mặt khác, bản thân hai thành phố cũng nghiên cứu mở rộng hơn nữa sự hợp tác với nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển trên cả ba mặt: công nghiệp - khoa học - kỹ thuật và xuất khẩu.

Phân công và tổ chức lại sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố, phục vụ đắc lực nông nghiệp ngoại thành, đồng thời hợp tác với các tỉnh lân cận để tạo thêm nguyên liệu cho công nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, mở rộng gia công với các nước ngoài. Tăng mạnh sản xuất phụ tùng xe đạp, quạt điện, đồ sứ, giầy vải xuất khẩu, vải, lụa, hàng dệt kim và các loại hàng tiêu dùng khác.

- Phát triển mạnh tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, ở Hà Nội cần tập trung vào các nghề thêu, thảm, mây tre, hàng mỹ nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh cần phát huy thế mạnh về gia công chế tạo nhiều mặt hàng có chất lượng và giá trị cao phục vụ xuất khẩu.

- Các huyện ngoại thành phải triệt để tận dụng đất đai, lao động, lực lượng khoa học - kỹ thuật để phát triển nông nghiệp theo hướng tăng vụ, thâm canh. Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi cá, nuôi ong, trồng rau, quả, xây dựng vành đai thực phẩm mạnh, bảo đảm cung cấp rau quả, một phần cá, trứng, thịt, sữa cho thành phố. Phát triển cây công nghiệp xuất khẩu và tạo thêm nguồn nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp để sử dụng hợp lý số lao động nội thành.

- Tiếp tục giải quyết việc làm cho người lao động, trước hết cho số thanh niên thôi học và bộ đội xuất ngũ, v.v. theo hướng thu hút vào các ngành tiểu, thủ công nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu, tham gia kiến thiết thành phố, mở mang dịch vụ. Phát triển nông nghiệp ở các huyện ngoại thành. Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hợp tác lao động và cung cấp lao động cho các nông trường cao su, lâm trường trồng rừng, khai thác gỗ, lâm sản và các vùng kinh tế mới. Thành phố Hà Nội bố trí lao động cho việc trồng cây gây rừng, phủ xanh đồi trọc ở các huyện Ba Vì, Sóc Sơn, v.v..

- Tích cực giải quyết điện, nước, nhà ở cho nhu cầu đời sống. Tiếp tục xây dựng 30 vạn m2 nhà ở cho Thủ đô Hà Nội trong ba năm 1983 - 1985. Chú trọng sửa chữa nhà cửa cho Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

- Đẩy mạnh cải tạo công thương nghiệp tư nhân. Củng cố và tăng cường mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa để nắm chắc nguồn hàng, bảo đảm cung cấp đủ lương thực, thực phẩm và các hàng hóa khác cho công nhân, viên chức và nhân dân. Cải tạo người buôn bán nhỏ, quản lý chặt thị trường và giá cả để thiết lập trật tự mới trên lĩnh vực phân phối lưu thông. Mở rộng các hoạt động ăn uống công cộng và các dịch vụ khác.

Nhìn chung lại, theo những phương hướng, chủ trương như trên, trong ba năm tới, có thể khai thác tốt hơn khả năng về lao động, đất đai và các năng lực sản xuất hiện có, phát huy được các nhân tố tích cực, tạo bước chuyển biến mới để ổn định tình hình kinh tế và đời sống xã hội.

Kế hoạch nhà nước đã được bố trí tập trung thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu nhằm giải quyết một bước những vấn đề cấp bách: đẩy mạnh sản xuất ổn định và bảo đảm đời sống nhân dân, tăng cường xuất khẩu, thiết lập trật tự mới trên mặt trận phân phối lưu thông, bảo đảm củng cố quốc phòng và an ninh.

Những triển vọng hiện thực của sự phát triển kinh tế những năm trước mắt là:

- Từng bước tự giải quyết được lương thực, thực phẩm; từ năm 1983 không phải nhập lương thực để ăn, từ năm 1984 có thêm dự trữ.

- Phát triển mạnh cây công nghiệp, bảo đảm đủ nguyên liệu cho công nghiệp thực phẩm (mía, thuốc lá, chè, rau quả), cho công nghiệp nhẹ và tiểu, thủ công nghiệp (đay, cói...) và tăng thêm nhiều nông sản và nông sản chế biến cho xuất khẩu.

- Kim ngạch xuất khẩu năm năm 1981 -1985 sẽ đạt gấp đôi năm năm 1976 - 1980.

- Các hàng tiêu dùng thiết yếu như vải, giấy, đường, thuốc chữa bệnh, hàng phục vụ học tập và phương tiện đi lại tăng khá hơn.

- Giao thông vận tải có phát triển, nhất là vận tải đường sông và đường biển. Những khó khăn ách tắc ở khu vực Hà Nội, Hải Phòng và các đầu mối giao thông được giảm bớt. Giao thông Bắc - Nam được thông suốt hơn.

- Các công trình xây dựng trọng điểm được tập trung đẩy mạnh hơn, đầu tư có hiệu quả hơn, và một số công trình quan trọng sẽ hoàn thành và đi vào sản xuất.

- Đời sống nhân dân, với những yêu cầu tối cần thiết được bảo đảm ổn định hơn, tình hình lương thực, thực phẩm, một số hàng tiêu dùng thiết yếu và vật liệu xây dựng đỡ căng thẳng hơn; lao động được thu hút vào mặt trận nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp địa phương, tiểu, thủ công nghiệp, dịch vụ nhiều hơn.

Song, những cân đối lớn của nền kinh tế vẫn còn nhiều vấn đề phải tiếp tục giải quyết, nhất là năng lượng, nguyên liệu, thị trường, giá cả, tài chính, tiền tệ, việc làm cho lao động nhất là ở các thành phố lớn.

PHẦN THỨ BA

ĐỔI MỚI CÔNG TÁC QUẢN LÝ KINH TẾ
VÀ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

 Chúng ta đã kết thúc năm thứ hai của kế hoạch năm năm 1981 - 1985 với những thắng lợi đáng kể, với những nhân tố mới, những chuyển biến mới tuy chưa mạnh và đều khắp, nhưng rất quan trọng. Trong cuộc đấu tranh gian khổ để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch hai năm qua, chúng ta đã nhận thức sâu sắc hơn những tiềm năng kinh tế phong phú và to lớn cũng như những khả năng hiện thực của đất nước, thấy rõ hơn những thuận lợi và khó khăn trên bước đường đi tới, đồng thời cũng đang rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu đối với công tác tổ chức, quản lý và điều hành kinh tế.

Việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1983 đòi hỏi khai thác có hiệu quả những tiềm năng kinh tế của cả nước, của mỗi ngành và cơ sở để tiến lên tự cân đối các điều kiện cơ bản của sản xuất, xây dựng và đời sống. Phải tập trung các điều kiện cần thiết cho những mục tiêu quan trọng nhất, đáp ứng những nhu cầu cấp bách nhất đồng thời để tạo thế đi lên vững chắc cho nền kinh tế trong những năm sau.

Muốn vậy, phải tiếp tục đổi mới công tác quản lý kinh tế và kế hoạch hoá, nâng cao hiệu lực điều hành của bộ máy Nhà nước, phải "xác lập chế độ quản lý và kế hoạch hóa đúng đắn, đổi mới chế độ quản lý và kế hoạch hoá hiện hành. Xoá bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp, khắc phục bằng được tình trạng trì trệ, bảo thủ, vô trách nhiệm, vô kỷ luật, phát huy động lực làm chủ tập thể, nâng cao tính năng động sáng tạo, tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật" như Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) đã đề ra. Chúng ta coi việc đổi mới quản lý kinh tế và kế hoạch hoá là một khả năng hiện thực có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để tác động vào các yếu tố bên trong, khai thác các khả năng sẵn có cũng như tạo thêm những lực lượng vật chất mới.

1. Đổi mới cơ chế kế hoạch hoá

Kế hoạch hoá là khâu trung tâm của cơ chế quản lý kinh tế. Phải bảo đảm cho các cấp quản lý Trung ương, địa phương, cơ sở đều thực sự làm chủ kế hoạch, nghĩa là thực sự xây dựng kế hoạch, cân đối, bảo vệ và tổ chức việc thực hiện kế hoạch của mình; nhất thiết phải xây dựng kế hoạch từ cơ sở; kế hoạch phải thấu suốt nguyên tắc hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Để tạo điều kiện cho các ngành, các địa phương và các cơ sở thực sự chủ động trong việc xây dựng và cân đối kế hoạch một cách tích cực và vững chắc, cần mở rộng nhiều hình thức hợp tác, liên kết kinh tế giữa các ngành, các địa phương và các cơ sở, coi đây là một nguồn khả năng hiện thực để khai thác mọi tiềm năng hiện có, tự cân đối đến mức cao nhất, sản xuất thêm sản phẩm, xây dựng thêm công trình, tăng thêm khả năng xuất khẩu, cải thiện thêm đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Nội dung quan hệ liên kết kinh tế phải dựa trên các phương án kinh tế - kỹ thuật và bằng hợp đồng kinh tế để đưa vào cân đối trong kế hoạch của từng ngành, từng cấp và được tổng hợp trong kế hoạch nhà nước. Mặt khác, phải bảo đảm sự quản lý tập trung thích đáng của Trung ương, xây dựng hệ thống kế hoạch hoá theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, hình thành hệ thống kế hoạch hoá năng động và linh hoạt, cho phép khai thác mọi khả năng của nền kinh tế đang trong quá trình từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Phải xóa bỏ cơ chế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp, chuyển mạnh sang cơ chế kế hoạch hoá gắn liền với hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Các đơn vị kinh tế trong khi xây dựng và thực hiện kế hoạch, phải kết hợp chặt chẽ chỉ tiêu hiện vật với chỉ tiêu giá trị, chú trọng các chỉ tiêu năng suất, chất lượng và hiệu quả theo nguyên tắc "tăng thu để bảo đảm chi", "đẩy xuất, tăng nhập", tăng nhanh tích luỹ để tái sản xuất mở rộng và đóng góp nhiều hơn cho Nhà nước. Phải tổ chức lại bộ máy quản lý, xuất phát từ yêu cầu của cơ sở sản xuất và hiệu quả của sản xuất, kiên quyết thu gọn đầu mối, giảm bớt cấp trung gian, giảm nhẹ biên chế, đi sát giúp đỡ, phục vụ tốt cơ sở sản xuất. Hoạt động của các ngành nghiên cứu khoa học, các ngành sự nghiệp, các tổ chức khảo sát thiết kế, các trạm trại thí nghiệm, v.v. vừa theo tinh thần phục vụ, vừa thực hiện hạch toán kinh doanh, tự trang trải một phần các khoản chi và tạo thêm nguồn vốn để mở rộng hoạt động.

Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh nhà nước phù hợp với cơ chế quản lý hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường tính chủ động sáng tạo và tinh thần trách nhiệm cao của ngành, địa phương và cơ sở đối với nhiệm vụ thực hiện kế hoạch nhà nước. Trước mắt, cải tiến các chỉ tiêu thể hiện quan hệ hai chiều giữa các ngành, địa phương đối với Trung ương cũng như các chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ liên kết kinh tế giữa các ngành, các địa phương và các đơn vị cơ sở.

Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng kế hoạch với chỉ đạo thực hiện kế hoạch nhà nước. Trong việc xây dựng kế hoạch, các ngành, các địa phương phải chỉ đạo và tạo điều kiện cho các đơn vị cơ sở mở rộng quan hệ kinh tế, trực tiếp ký hợp đồng kinh tế để xây dựng kế hoạch và tổng hợp kế hoạch từ cơ sở và huyện lên. Các Bộ, các địa phương không được tự ý rút bớt chỉ tiêu kế hoạch nhà nước, phải có kế hoạch, biện pháp cụ thể cho cả năm và phân theo từng quý, từng tháng để chỉ đạo thực hiện. Phải điều hành công việc theo kế hoạch được duyệt, không được sử dụng nguồn vật tư, tiền vốn của mục tiêu này sang mục tiêu khác. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện kế hoạch, phải thường xuyên kiểm tra thực hiện kế hoạch ở tất cả các cấp. Hằng tháng, hằng quý, các Bộ, địa phương phải báo cáo Hội đồng Bộ trưởng, Tổng cục Thống kê và Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước tình hình thực hiện kế hoạch cùng các vấn đề cần giải quyết để bảo đảm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước. Kết thúc năm kế hoạch, phải nghiêm chỉnh thực hiện chế độ quyết toán, xét duyệt kết quả thực hiện kế hoạch ở tất cả các đơn vị cơ sở, huyện, tỉnh, thành phố, Bộ, Tổng cục, có chế độ thưởng, phạt nghiêm minh đối với những đơn vị hoàn thành hoặc không hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch nhà nước được giao.

2. Phân cấp quản lý kinh tế, xây dựng và tăng cường cấp huyện

Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và kế hoạch hoá đòi hỏi phải tiến hành phân cấp quản lý kinh tế. Đây là một công việc rất quan trọng và cấp bách nhằm bảo đảm quyền lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương về những vấn đề cơ bản của công tác quản lý kinh tế - xã hội, đồng thời mở rộng mạnh mẽ quyền chủ động sáng tạo của địa phương và cơ sở hoạt động theo kế hoạch và chính sách chế độ của Nhà nước. Cần phân cấp quản lý cho các địa phương những cơ sở và công việc mà xét thấy giao cho địa phương là hợp lý và có hiệu quả hơn. Kiên quyết giao quyền chủ động sản xuất, kinh doanh và tài chính cho cơ sở trong khuôn khổ kế hoạch và chính sách của Nhà nước.

Trong phân cấp quản lý kinh tế, phải nắm vững nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc mở rộng quyền hạn phải đi đôi với tăng cường trách nhiệm mà cái cốt lõi là tất cả các ngành, các địa phương đều phải tôn trọng các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước; mọi hoạt động kinh tế đều phải có kế hoạch và được điều hành theo kế hoạch.

Tư tưởng chỉ đạo của việc phân cấp quản lý kinh tế là:

- Phát huy mạnh mẽ các động lực tinh thần và vật chất, thống nhất ba loại lợi ích kinh tế: lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân người lao động.

- Quán triệt quan điểm làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, kết hợp tốt ba loại biện pháp: kinh tế, hành chính và giáo dục, trong đó biện pháp kinh tế là gốc.

- Công tác phân cấp quản lý kinh tế phải tiến hành từng bước, trên cơ sở tích cực tạo những điều kiện và tiền đề cần thiết cho các cấp về các mặt, bảo đảm quản lý kinh tế đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao, nhưng phải làm khẩn trương không kéo dài.

Xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện là một nhiệm vụ rất quan trọng có ý nghĩa chiến lược hiện nay để phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, phát huy mọi khả năng sáng tạo của huyện, tạo cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội đã đề ra trong kế hoạch năm 1983 và ba năm 1983 - 1985 và xây dựng huyện thành pháo đài trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương và tỉnh, thành, cần phát huy quyền chủ động, sáng tạo của huyện và đơn vị cơ sở, xúc tiến tổ chức lại sản xuất, phân bố lại lao động, xây dựng cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp hoặc nông - lâm - công nghiệp, hoặc nông - ngư - công nghiệp huyện. Trước mắt, cần soát xét lại quy hoạch tổng thể và quy hoạch từng ngành ở huyện phù hợp với quy hoạch của Trung ương và của tỉnh. Đổi mới việc xây dựng kế hoạch huyện theo tinh thần dân chủ hoá kế hoạch, tận dụng đến mức cao nhất tiềm lực kinh tế của huyện và các nguồn khác để tự giải quyết được các mặt cân đối cho sản xuất và đời sống của nhân dân trong huyện và hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tổ chức và sắp xếp lại lực lượng sản xuất của huyện và cơ sở, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật trên địa bàn huyện, phân bố lại lao động, nhằm gắn nông nghiệp với công nghiệp, sản xuất với phân phối lưu thông, thực hiện sự liên kết giữa các thành phần kinh tế lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo. Thống nhất quản lý và chỉ đạo thu mua hàng nông, lâm, thủy sản, tổ chức bán lẻ và các hoạt động sự nghiệp phục vụ đời sống nhân dân trên địa bàn huyện.

3. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung và ban hành các chính sách, chế độ quản lý kinh tế

Đổi mới cơ chế kế hoạch hoá liên quan chặt chẽ với sự hoàn thiện các chính sách, chế độ quản lý kinh tế, tài chính. Lâu nay, chúng ta đã có nhiều Nghị quyết tốt, song việc cụ thể hoá và thể chế hoá thành văn bản pháp luật thường làm chậm, không đồng bộ. Để khắc phục tình trạng ấy, các cấp, các ngành phải quán triệt và nghiêm chỉnh chấp hành những chính sách, chế độ đã có; đẩy mạnh kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn cụ thể việc thi hành, kịp thời uốn nắn những lệch lạc. Đồng thời, khẩn trương tổ chức nghiên cứu để bổ sung, sửa đổi một số chính sách hiện hành cho phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay và ban hành một số chính sách kinh tế mới, nhất là các chính sách phục vụ việc đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, nhằm phát huy hơn nữa tinh thần hăng say lao động sản xuất, triệt để tiết kiệm, khai thác mọi tiềm năng của đất nước.

Trước mắt, cần xúc tiến tổng kết, bổ sung và hướng dẫn thi hành đúng đắn chính sách khoán trong nông nghiệp; ban hành chính sách khuyến khích phát triển các loại hoa màu lương thực, cây có sợi (bông, đay, lanh, gai, v.v.), chính sách phát triển kinh tế vườn, chính sách đối với các vùng sản xuất nông sản nguyên liệu tập trung như mía, thuốc lá, chè... Nghiên cứu gấp để bổ sung chính sách khuyến khích, giúp đỡ phát triển tiểu, thủ công nghiệp, v.v..

Hội đồng Bộ trưởng sẽ giao nhiệm vụ cho một số Bộ, ngành chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan với Hội đồng nhân dân các cấp để nghiên cứu và ban hành theo thời hạn cụ thể.

4. Tăng cường tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1983

Trong điều kiện của nền kinh tế còn mất cân đối nghiêm trọng thì điều kiện để xây dựng kế hoạch cân đối vững chắc ngay từ đầu là rất khó. Quá trình chỉ đạo thực hiện kế hoạch là quá trình tạo ra sự cân đối để bảo đảm cho các hoạt động kinh tế triển khai mạnh mẽ vững chắc. Vì vậy, việc chỉ đạo, điều hành theo kế hoạch để tiếp tục bổ sung kế hoạch là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Phải hết sức coi trọng khâu tổ chức, chỉ đạo thực hiện, bảo đảm rất tập trung và đồng bộ, nhanh chóng khắc phục tình trạng lỏng lẻo, phân tán trong chỉ đạo thực hiện như hiện nay.

Việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch nhà nước và đổi mới quản lý đòi hỏi phải có bộ máy tổ chức quản lý mạnh và có hiệu lực, có đội ngũ cán bộ có năng lực và phẩm chất tốt. Do vậy, trong 6 tháng đầu năm 1983 phải kiên quyết và tích cực sắp xếp lại bộ máy tổ chức các ngành Trung ương, đồng thời rà xét lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý ở các cấp, chú trọng tăng cường cán bộ có năng lực quản lý cho các huyện, các liên hiệp xí nghiệp, các công ty... Phải thực hiện một bước việc giảm biên chế quản lý hành chính, kiên quyết giảm bớt những người và những khâu thừa chuyển sang sản xuất.

Tổ chức việc kiểm tra, đôn đốc thường xuyên, nhằm vào các nhiệm vụ trọng tâm, các biện pháp chủ yếu để chỉ đạo và quản lý được nhạy bén, thông suốt và có hiệu lực. Tăng cường cải tiến quản lý các đơn vị kinh tế cơ sở, bằng mọi cách nắm vững và sử dụng tối đa năng lực sản xuất ở từng cơ sở, giúp cơ sở có điều kiện làm chủ kế hoạch của mình và đề cao tinh thần trách nhiệm của cơ sở trong sản xuất, kinh doanh, xóa bỏ chế độ quản lý quan liêu, bao cấp.

Hội đồng Bộ trưởng và thủ trưởng các cấp, các ngành cần đề cao chế độ trách nhiệm và kỷ luật, chế độ thủ trưởng, tăng cường chỉ đạo và kiểm tra sát sao việc thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước. Trong quá trình thực hiện kế hoạch, nếu có vướng mắc, khó khăn, phải kịp thời báo cáo, xin chỉ thị cấp trên. Cấp trên phải kịp thời xử lý, bãi truất những người không đủ năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ kế hoạch ở các cấp trực thuộc.

Từng ngành, từng cấp phải xem xét nhanh, nhạy những vấn đề liên quan đến việc thực hiện kế hoạch của cơ sở, hướng mọi hoạt động phục vụ cho cơ sở, bảo đảm thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước từ cơ sở.

Các ngành thông tin tuyên truyền cần đẩy mạnh giáo dục, động viên toàn dân đánh giá đúng thắng lợi, nhận rõ tình hình, thấm nhuần phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch nhà nước năm 1983, nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, ý chí cách mạng tiến công và tinh thần tự lực tự cường, ra sức phấn đấu, phát huy các nhân tố thuận lợi, khai thác triệt để các tiềm năng, kiên quyết đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ kế hoạch nhà nước.

5. Phát động phong trào cách mạng của quần chúng thi đua thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước

Kế hoạch nhà nước gắn bó với lợi ích của quần chúng và chính vì vậy, các nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch có sức động viên to lớn phong trào cách mạng của quần chúng. Phải làm cho quần chúng biết rất rõ những mục tiêu kế hoạch của đơn vị mình, của địa phương mình, tổ chức đưa ra quần chúng thảo luận, bàn bạc và quyết định các biện pháp thực hiện kế hoạch, bảo đảm quần chúng làm chủ cuộc sống của mình trên cơ sở kế hoạch. Từ đó, động viên quần chúng hăng hái thi đua thực hiện nhiệm vụ kế hoạch bằng hành động cách mạng của mình, bằng các sáng kiến và tài năng, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch nhà nước cả về số lượng và chất lượng. Các tổ chức Đảng, các đoàn thể quần chúng, nhất là Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội liên hiệp Phụ nữ có vai trò to lớn trong các cuộc vận động này.

Để thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng, công tác tư tưởng, văn hóa có tầm quan trọng đặc biệt, cần có những nỗ lực lớn, cùng với các biện pháp kinh tế, hành chính, hình thành sức mạnh tổng hợp động viên khí thế thi đua sôi nổi, rộng khắp hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước năm 1983.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Bước sang năm 1983, năm thứ ba của kế hoạch năm năm 1981 - 1985, nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh được đặt ra rất lớn và cấp bách, nhưng phương hướng tiến lên đã được Đại hội lần thứ V của Đảng vạch ra sáng tỏ. Thực tiễn của cuộc sống, những chuyển biến mới và nhân tố mới nảy nở trên khắp các lĩnh vực hoạt động, ở hầu khắp các miền của đất nước đã và đang mở ra nhiều cách làm ăn mới đem lại năng suất và hiệu quả cao. Tiềm năng phát triển của đất nước ta, dân tộc ta rất phong phú. Trong một số năm trước mắt, nền kinh tế và đời sống nhân dân ta đang còn gặp nhiều khó khăn, song triển vọng là tươi sáng. Đất nước Việt Nam ta sẽ được xây dựng với tầm vóc "to đẹp hơn, đàng hoàng hơn" như lời Bác Hồ đã căn dặn, xứng đáng với những tiềm năng kinh tế cũng như vị trí của nước ta trên thế giới. Với sức mạnh của chuyên chính vô sản và chế độ làm chủ tập thể, với cơ chế quản lý kinh tế ngày càng đổi mới, lại có sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong Hội đồng Tương trợ kinh tế, tình đoàn kết đặc biệt với hai nước Lào và Campuchia anh em, tình hữu nghị của nhân dân tiến bộ trên thế giới, nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa yêu quý của chúng ta.

Anh chị em công nhân, nông dân, trí thức cách mạng, các tầng lớp lao động khác, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân và đồng bào các dân tộc trong cả nước hãy nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, truyền thống chiến đấu dũng cảm và cần cù, sáng tạo, dấy lên cao trào thi đua lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm, khai thác mọi khả năng, phấn đấu tạo ra những chuyển biến mới về kinh tế và xã hội, thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước năm 1983, tạo điều kiện tiến lên mạnh mẽ hơn nữa trong những năm sau. Kiều bào ta ở nước ngoài luôn luôn hướng về Tổ quốc hãy tăng cường đoàn kết, hăng hái góp công, góp sức vì sự phồn vinh của đất nước và hạnh phúc của nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là đồng chí Lê Duẩn kính mến, toàn Đảng, toàn dân ta hãy siết chặt hàng ngũ, phấn khởi tiến lên!


 

Toàn văn Văn kiện
lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội