THUYẾT TRÌNH
CỦA ỦY BAN KINH TẾ, KẾ HOẠCH VÀ NGÂN SÁCH CỦA QUỐC HỘI
VỀ KẾ HOẠCH VÀ NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC
(Do ông Đào Văn Tập, Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế,
kế hoạch và ngân sách của Quốc hội
trình bày tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa VII,
ngày 21-12-1982)
Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các đồng chí đại biểu
Quốc hội,
Ủy ban kinh tế, kế hoạch và ngân
sách của Quốc hội đã họp vào tháng 10 năm nay để sơ bộ nghiên cứu và chuẩn
bị ý kiến về tình hình thực hiện kế hoạch và ngân sách nhà nước năm 1982 và
phương hướng nhiệm vụ của kế hoạch và ngân sách nhà nước năm 1983 và mức
phấn đấu đến năm 1984. Mấy ngày vừa qua, Ủy ban chúng tôi đã nghiên cứu,
thảo luận các báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về các vấn đề nói trên. Tôi xin
thay mặt Ủy ban trình Quốc hội những ý kiến của Ủy ban về mấy vấn đề:
1. Về đánh giá
tình hình hai năm vừa qua.
2. Về sản xuất nông nghiệp và vấn
đề lương thực.
3. Về sản xuất công nghiệp.
4. Về xây dựng cơ bản.
5. Về giao thông vận tải.
6. Về ngân sách nhà nước.
7. Về tiền lương và đời sống.
I- VỀ ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH HAI NĂM VỪA QUA
Chúng tôi
nhất trí với sự đánh giá của Hội đồng Bộ trưởng về tình hình thực hiện kế
hoạch nhà nước năm 1982 và hai năm 1981-1982. Năm 1981, nền kinh tế đã có
những chuyển biến bước đầu, năm 1982 lại có những chuyển biến tốt hơn. Những
chuyển biến đó là rất có ý nghĩa. Tuy nền kinh tế nước nhà hiện nay còn
nhiều khó khăn, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nỗ lực phấn đấu để
khắc phục, song những chuyển biến mới “đã chỉ rõ khả năng hiện thực và
soi sáng hướng đi để đưa nền kinh tế vượt qua khó khăn”, chứng tỏ “đất
nước ta đang ở thế tốt hơn”.
Thế tốt hơn đó thể hiện khá rõ
nét trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Nó cũng thể hiện trên một chừng mực
nhất định trong một số lĩnh vực hoạt động khác của nền kinh tế quốc dân.
Sở dĩ có thế tốt hơn, đó là nhờ
đường lối chung và đường lối kinh tế của Đại hội IV và Đại hội V của Đảng
đang được cụ thể hóa thành những chính sách mới về quản lý kinh tế - xã hội
được các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở và đông đảo quần chúng công nhân,
nông dân tập thể, cán bộ khoa học - kỹ thuật và cán bộ quản lý tiếp thu và
vận dụng một cách sáng tạo. Hướng đi đúng của chính sách được thực tiễn kiểm
nghiệm là nhân tố có ý nghĩa quyết định tạo nên những chuyển biến mới trong
một bộ phận của nền kinh tế. Điều đó càng thôi thúc các cơ quan soạn thảo
chính sách ra sức nghiên cứu để đưa ra những đề nghị bổ sung, sửa đổi những
chính sách xét thấy không còn hoàn toàn phù hợp với tình hình mới, ban hành
những chính sách mới nhằm tạo nên sự chuyển biến toàn diện và mạnh mẽ hơn
của nền kinh tế, đặc biệt là để sớm hoàn thành việc xóa bỏ cơ chế quản lý
hành chính, quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế quản lý mới dựa trên các
nguyên tắc kinh doanh xã hội chủ nghĩa và hạch toán kinh tế. Ủy ban chúng
tôi cho rằng, đó là một kết luận quan trọng có thể rút ra từ những chuyển
biến mới của tình hình kinh tế hai năm qua.
Những kết luận khác có thể rút ra là nắm vững chuyên chính vô sản, không
buông lơi cuộc đấu tranh giữa hai con đường, quán triệt nguyên tắc tập trung
dân chủ, thống nhất quản lý kinh tế - tài chính, đề cao pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong quản lý kinh tế và xã hội. Tất cả những điều đó đã được đề cập
và phân tích trong các báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về kế hoạch và ngân
sách nhà nước.
II- VỀ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ
VẤN ĐỀ LƯƠNG THỰC
Trong năm 1982, sản xuất nông
nghiệp phát triển đáng kể, tương đối toàn diện và trên hầu hết các vùng. Đặc
biệt là sản lượng lương thực đạt trên 16 triệu tấn, vượt chỉ tiêu kế hoạch
nhà nước và tăng hơn 1 triệu tấn so với năm 1981. Đây là lần đầu tiên nước
ta đạt được sản lượng lương thực lớn như thế với bình quân đầu người 284 kg
trong cả nước.
Nông nghiệp đạt được thắng lợi
như thế là do những nguyên nhân sau đây:
1. Chính sách khoán sản phẩm
trong các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất và các chính sách khuyến khích sản
xuất đã gây một không khí phấn khởi có tác dụng động viên được thêm lao
động, vốn, vật tư để đẩy mạnh thâm canh, tận dụng đất đai.
2. Chúng ta đã tranh thủ điều kiện thời tiết thuận lợi, giải quyết tốt khâu
thời vụ. Nhờ vậy, mặc dù có thiên tai cục bộ ở Nghệ Tĩnh vào cuối năm và ở
Thuận Hải hồi đầu năm nhưng nông nghiệp vẫn đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch
sản xuất lương thực cả năm.
3. Các vật tư, kỹ thuật, đặc biệt
là phân bón, xăng dầu, được chuẩn bị tốt và sớm hơn trước. Các địa phương và
người sản xuất đã chủ động tìm nguồn giải quyết một cách tích cực để đảm bảo
tăng năng suất lúa.
4. Việc đưa tiến bộ khoa học - kỹ
thuật vào sản xuất đã được chú trọng hơn, đặc biệt là việc sử dụng trên diện
rộng các loại giống mới, ngắn ngày, năng suất cao và chống chịu sâu bệnh
hơn.
Trên đây là những kinh nghiệm cần
được đúc kết để đi vào cuộc phấn đấu mới, thực hiện tốt các chỉ tiêu kế
hoạch năm 1983 và các năm sau. Trên tinh thần đó, Ủy ban chúng tôi nhất trí
với các mục tiêu sản xuất lương thực của năm 1983 và đến năm 1985.
Nhưng trong sản xuất nông nghiệp
hai năm qua cũng còn những vấn đề cần được quan tâm giải quyết.
1. Vì sao sản lượng màu không
ngừng bị sụt và năm 1982 bị sụt 45 vạn tấn so với năm 1980? Thực tế trong
mấy năm qua cho thấy rõ, sản xuất màu rất không ổn định; những vùng trồng
màu để tự túc cho gia đình thì vẫn được duy trì, còn những vùng sản xuất màu
hàng hóa lớn như Tây Nguyên, miền Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long thì
sản lượng màu không ngừng bị sụt, trong khi đất để trồng màu còn nhiều, các
biện pháp kỹ thuật trồng màu và bảo vệ đất không thiếu, nông dân có nhiều
kinh nghiệm để đạt năng suất cao. Sở dĩ có tình trạng đó là vì cho đến nay,
đối với cây màu chúng ta chưa có chính sách rõ rệt và toàn diện. Tất cả các
khâu từ sản xuất đến tiêu thụ đều bị vướng mắc. Việc chế biến còn rất thô sơ
chưa được chú trọng nâng cao, do đó, giá trị kinh tế thấp và khó bảo quản.
Việc thu mua không được tổ chức thường xuyên, còn tùy tiện và gò ép; giá cả
chưa thỏa đáng nên không có lãi hoặc lãi thấp hơn nhiều so với các cây trồng
khác. Việc vận chuyển khó khăn và quá đắt. Vì thế mà trồng màu ra rất khó
tiêu thụ.
Chúng tôi nghĩ rằng, nếu ngay từ
bây giờ, Nhà nước ta không có chính sách khuyến khích thỏa đáng và thiếu sự
phân công rõ ràng cho từng ngành đối với từng khâu cụ thể thì chỉ tiêu kế
hoạch 2,7 triệu tấn màu quy thóc của năm 1983 khó mà thực hiện được.
2. Các cây công nghiệp ngắn ngày
quan trọng như mía, thuốc lá, đỗ tương, đay, dứa, v.v. ở các tỉnh miền Nam
có rất nhiều điều kiện để phát triển, nhưng do thiếu những tổ chức chuyên
trách và đặc biệt là thiếu những chính sách cụ thể, nhất quán và thống nhất
giữa ngành chủ quản ở Trung ương với các tỉnh, nên việc phát triển sản xuất
gặp khó khăn, nhiều khi bị trở ngại và gây nhiều lãng phí.
Tình trạng này cần được nghiên
cứu khắc phục sớm, vì đây là những mặt hàng rất cần thiết cho sản xuất, tiêu
dùng nội địa và cho xuất khẩu.
3. Chăn nuôi tuy có phát triển,
nhưng sự phát triển của đàn lợn chưa vững chắc, chưa được ổn định vì còn phụ
thuộc nhiều vào giá thức ăn gia súc và giá thịt trên thị trường tự do.
Điều đáng quan tâm là đàn lợn chỉ
phát triển trong khu vực cá thể và ở các gia đình, còn trong hai khu vực tập
thể và quốc doanh thì bị giảm sút nhiều, đặc biệt là sự giảm sút của đàn lợn
giống về số lượng cũng như về chất lượng trong các cơ sở quốc doanh ở miền
Nam là nghiêm trọng.
Nguyên nhân
có nhiều, ví dụ: chính sách khuyến khích chăn nuôi và bảo vệ đàn gia súc;
chính sách sử dụng đất chăn nuôi (15%) ở các vùng đã hợp tác hóa; chính sách
phát triển ngành chế biến thức ăn gia súc, v.v.. Song có một vấn đề được
thảo luận nhiều trong Ủy ban chúng tôi, đó là việc sử dụng nguồn cám để nuôi
lợn.
Trước đây, Hội đồng Chính phủ có
chỉ thị chuyển cám từ các cơ sở xay sát cho ngành Nông nghiệp để làm thức ăn
cung cấp cho các cơ sở chăn nuôi. Nhưng việc này chưa được Bộ Lương thực
thực hiện đầy đủ.
Chúng tôi đề nghị, Hội đồng Bộ
trưởng xem xét lại vấn đề này và có biện pháp giải quyết để chỉ thị nói trên
được thi hành nghiêm chỉnh.
Một trở ngại mới cho ngành chăn
nuôi là trong thời gian qua, tại một số tỉnh miền Nam có hiện tượng thu gom
sắn, ngô, v.v. để xuất khẩu, làm ảnh hưởng đến việc cung cấp thức ăn gia súc
và tác động đến giá cả nội địa. Chúng tôi cũng đề nghị, Hội đồng Bộ trưởng
xem xét và giải quyết vấn đề này.
Nói tóm lại, để ngành chăn nuôi
có thể phát triển ăn nhịp với ngành trồng trọt, chúng tôi kiến nghị Hội đồng
Bộ trưởng soát xét và bổ sung chính sách phát triển chăn nuôi; giải quyết
những vấn đề cơ bản, ngắn hạn và dài hạn đang được đặt ra trong ngành sản
xuất quan trọng này.
Một điều đáng phấn khởi là trên
cơ sở sản xuất nông nghiệp phát triển khá, việc huy động lương thực tăng lên
liên tiếp trong hai năm, năm 1982 tăng hơn năm 1981 gần 1 triệu tấn và cho
phép giảm nhập khẩu lương thực từ 2,25 triệu tấn (quy thóc) năm 1979 xuống
còn 40 vạn tấn năm 1982. Theo dự kiến kế hoạch thì năm 1983 sẽ huy động 3,6
triệu tấn quy thóc, tăng 70 vạn tấn so với năm 1982 và đến năm 1985 số huy
động có thể vượt 4 triệu tấn. Muốn thực hiện được chỉ tiêu trên đây, phải có
quyết tâm phấn đấu của Nhà nước và toàn dân ta.
Hiện nay, trong việc phân phối
lương thực, có nhiều vấn đề đặt ra cần phải được nghiên cứu giải quyết một
cách khẩn trương.
Tại sao lương thực được làm ra
nhiều hơn nhưng giá lương thực vẫn tăng?
Tại sao phẩm chất gạo cung cấp
cho cán bộ, công nhân viên và lực lượng vũ trang còn rất thấp, có đợt gạo
phân phối không thể nào ăn được? Một số không nhỏ cán bộ, công nhân viên ở
các thành phố thường phải đem số gạo xấu được ngành Lương thực cung cấp bán
đi để mua lại loại gạo ăn được với giá cao hơn so với giá bán. Trong trường
hợp này, chủ trương cung cấp mặt hàng thiết yếu để tạm thời thay cho việc
cải tiến chế độ tiền lương rõ ràng là đã bị việc phân phối lương thực kém
phẩm chất làm mất ý nghĩa.
Vấn đề phẩm chất gạo phân phối
cho cán bộ, công nhân viên và các lực lượng vũ trang là một vấn đề tồn tại
từ nhiều năm nay nhưng hiện nay nó thành vấn đề nghiêm trọng vì mức độ hư
hỏng có xu hướng tăng lên, gây thiệt hại và tâm trạng bất bình cho người
được cấp lương thực.
Có tình trạng gạo hư kém, theo ý
kiến chúng tôi là do những nguyên nhân sau đây:
- Khối lượng lương thực được huy
động tăng nhanh (từ 2 triệu tấn năm 1981 lên gần 3 triệu tấn năm1982) nên
việc chuẩn bị các cơ sở kho tàng, phương tiện để bảo quản và vận chuyển
không đi kịp yêu cầu.
Việc xây dựng kho tàng chứa thóc
chưa được Nhà nước đầu tư đúng mức và cũng chưa được ngành Lương thực quan
tâm đầy đủ.
- Việc quản lý của ngành Lương
thực thiếu chặt chẽ để xảy ra những hiện tượng tiêu cực, gây tổn thất, hư
hao, không những phẩm chất không bảo đảm mà tiêu chuẩn lương thực của người
tiêu dùng có không ít trường hợp đã bị bớt xén do những tiêu cực trong khâu
cân đong.
Vấn đề cung cấp lương thực cho
cán bộ, công nhân viên và lực lượng vũ trang là một vấn đề rất lớn, cần có
sự tập trung sức để giải quyết khẩn trương và có hiệu quả. Ủy ban chúng tôi
xin kiến nghị một số biện pháp như sau:
- Cần ưu tiên đầu tư xây dựng các kho chứa, mua sắm phương tiện cần thiết để
đáp ứng kịp theo các chỉ tiêu huy động ở từng vùng.
- Cần xác định rõ trách nhiệm cho
ngành Lương thực là việc cung cấp lương thực cho cán bộ, công nhân viên và
các lực lượng vũ trang phải đứng trên quan điểm phục vụ là chính. Trong phạm
vi trách nhiệm của mình, ngành Lương thực cần ra sức cải tiến khâu bảo quản
và phân phối, nâng cao ý thức phục vụ của nhân viên trong ngành, tiến hành
kiểm tra chặt chẽ, bảo đảm cung cấp lương thực cho người tiêu dùng đúng số
lượng, chất lượng và kỳ hạn.
- Với những khả năng về bộ máy và
về cơ sở vật chất còn hạn chế của Bộ Lương thực hiện nay, cần sớm thực hiện
phân công, phân cấp giữa Bộ Lương thực và các tỉnh, thành một cách hợp lý.
Cụ thể, xin đề nghị:
+ Bộ Lương thực chủ yếu lo phần
lương thực chung theo nhu cầu toàn quốc, đồng thời tăng cường kiểm tra việc
thi hành thống nhất chính sách lương thực trên phạm vi cả nước.
+ Các tỉnh, thành phố và các đơn
vị lớn có nhu cầu lương thực chịu trách nhiệm bảo đảm lương thực cho địa
phương mình và các cơ sở Trung ương đóng tại địa phương và được chỉ định
trực tiếp giao nhận với nhau số lương thực được Nhà nước phân phối dưới sự
kiểm soát của Bộ Lương thực.
Giải quyết theo cách này sẽ mang
lại nhiều điều lợi, tránh được lãng phí trong vận tải, bớt vận tải vòng
quanh, hạn chế được hư hao tổn thất không đáng có.
Thưa các đồng chí đại biểu
Quốc hội,
Chúng ta có cơ sở để phấn khởi về
thắng lợi sản xuất lương thực trong hai năm vừa qua. Mặt khác, Ủy ban chúng
tôi thấy rằng, nông nghiệp còn phụ thuộc nặng vào thiên nhiên, sản xuất nông
nghiệp còn chưa vững chắc, trong ba năm tới, không thể loại trừ còn có thể
có thiên tai lớn, thậm chí phải tính đến cả thiên tai lớn trên diện rộng. Vì
vậy, chúng tôi cho rằng, Nhà nước và nhân dân ta cần luôn luôn chăm lo đến
một hệ thống biện pháp đồng bộ từ dự báo, dự phòng, phòng chống đến khắc
phục hậu quả của thiên tai. Mặt khác, trên cơ sở tiếp tục tăng mức sản xuất
và mức huy động lương thực, chúng ta cần sớm có dự trữ của Nhà nước và trong
nông dân, triệt để thực hiện chủ trương Nhà nước thống nhất quản lý lương
thực, loại trừ tư thương ra khỏi thị trường lương thực, tiết kiệm nghiêm
ngặt trong tiêu dùng lương thực. Như vậy, chúng ta sẽ tạo ra thế chủ động và
vững vàng trên mặt trận nông nghiệp và lương thực.
III- VỀ SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP
Chúng tôi thấy, về mặt ưu điểm
của sản xuất công nghiệp nên đánh giá là hai năm qua đã có nhiều cố gắng
khắc phục các khó khăn gay gắt trên nhiều mặt, cố gắng duy trì sản xuất, duy
trì đội ngũ công nhân kỹ thuật. Nhiều xí nghiệp công nghiệp nêu cao tinh
thần tự lực tự cường, sáng tạo, năng động, tìm thêm vật tư, làm thêm sản
phẩm, duy trì và phát triển sản xuất. Sản xuất tiểu và thủ công nghiệp phát
triển khá. Một số năng lực mới về công nghiệp được huy động vào sản xuất đã
góp phần làm phong phú thêm mặt hàng và tăng thêm giá trị.
Tuy nhiên, tình hình sản xuất
công nghiệp vẫn thấy có những đặc điểm nổi lên như sau:
Một là, nhiều chỉ tiêu về số
lượng của sản xuất công nghiệp còn đang giảm sút.
Trong 66 sản phẩm chủ yếu nhất của công nghiệp được thống kê từ ngành điện,
than, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng, công nghiệp thực phẩm,
dệt, hàng tiêu dùng, v.v. thì có đến 27 sản phẩm có sản lượng hàng năm sụt
dần, năm 1983 còn tiếp tục sụt xuống; 10 sản phẩm dừng lại không tiếp tục
sụt xuống nhưng chưa tăng lên; 18 sản phẩm có sản lượng năm 1982 bằng hoặc
vượt một ít so với năm 1980; chỉ có 7 sản phẩm đến năm 1983 mới đạt hoặc
vượt mức sản xuất so với năm trước đây đã đạt cao nhất.
Ở phần lớn các xí nghiệp công
nghiệp có tình trạng chung là mới dùng phần nửa năng lực sản xuất, chất
lượng sản phẩm xấu, thiết bị phương tiện hư hỏng xuống cấp ngày càng nhanh,
không đủ phụ tùng và khả năng sửa chữa, các mặt quản lý kinh tế - kỹ thuật
lỏng lẻo.
Hai là, các chỉ tiêu chất lượng của sản xuất công nghiệp sút giảm.
Năng suất lao động giảm, giá thành sản phẩm tăng, nhiều sản phẩm phải bù lỗ,
giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh năm 1982 và dự kiến năm 1983 vẫn
chưa bằng năm 1978, các sản phẩm công nghiệp chủ yếu nhất có nguồn thu ngân
sách lớn nhất đều đạt thấp, làm hụt thu ngân sách đến hàng nghìn triệu đồng,
Bộ Công nghiệp không thực hiện được kế hoạch thu ngân sách năm 1982.
Như vậy, tình hình sản xuất công
nghiệp trong cả nước, trong đó trước hết là công nghiệp quốc doanh, đặc biệt
là công nghiệp quốc doanh Trung ương vẫn đang trong tình hình chưa có tiến
bộ đáng kể, đòi hỏi Hội đồng Bộ trưởng, các ngành và xí nghiệp áp dụng những
biện pháp cần thiết tạo ra sự chuyển biến mới và nhân tố mới làm đà thoát ra
khỏi khó khăn để đi lên.
Về phương hướng, nhiệm vụ, mục
tiêu của công nghiệp trong thời gian tới:
Ủy ban chúng tôi tán thành phương
hướng, nhiệm vụ và mục tiêu sản xuất công nghiệp nói trong bản kế hoạch kinh
tế - xã hội năm 1983 và mức phấn đấu đến năm 1985. Chúng tôi nhất trí với
các quan điểm tập trung phấn đấu sử dụng hết năng lực hiện có trong công
nghiệp, hướng chính là khai thác nguồn tài nguyên trong nước, nhất là nông
sản, cây công nghiệp, sắp xếp lại nền kinh tế nói chung và công nghiệp nói
riêng theo hướng ưu tiên tập trung lo làm ra hàng tiêu dùng, đẩy mạnh sản
xuất hàng xuất khẩu, gắn với phân công, phân cấp hợp lý, thắt chặt hợp tác
giữa Trung ương và địa phương, gắn các ngành công nghiệp nặng phục vụ thiết
thực cho mục tiêu nông nghiệp làm lương thực, cho hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu.
Chúng tôi có một số đề nghị thêm
như sau:
1. Để có thể
bảo đảm nguồn nguyên liệu ngày càng ổn định cho các ngành Công nghiệp chế
biến, thực phẩm và Công nghiệp nhẹ, khai thác tốt các nguồn nông sản và tài
nguyên, nguyên liệu trong nước, cần có chính sách thu mua và chính sách giá
cả có tác dụng khuyến khích phát triển sản xuất và bán hàng cho Nhà nước.
Nghiên cứu sớm phân công và phân cấp sao cho hợp lý và quản lý có hiệu quả
đối với từng cây trồng, đặc biệt là mía đường, thuốc lá, dừa, cà phê, chè,
dâu, đay và một số cây ăn quả, v.v. sao cho sớm tránh được sự chồng chéo,
vướng mắc trong công việc của nhau của nhiều ngành Công nghiệp đối với một
cây trồng hiện nay.
2. Để giảm bớt khó khăn và tạo
điều kiện cho các xí nghiệp công nghiệp khai thác tốt hơn tiềm năng và công
suất thiết bị máy móc, chúng tôi thấy phải tiến hành biện pháp quản lý hợp
lý vật tư trong cả nước, ngăn chặn được các lãng phí vật tư đang lan tràn
hiện nay, chặn đứng vật tư tuồn ra ngoài. Chỉ cần sử dụng hợp lý số vật tư
đang có và số nhập được theo khả năng ngoại tệ có thể nhập hàng năm là đã
đáp ứng được ở mức khá cho yêu cầu vật tư và năng lượng cho sản xuất công
nghiệp quốc doanh. Chỉ cần có biện pháp quản lý tốt hơn, không bị thất
thoát, không bị thất thu, thì với sản lượng điện đang phát ra cũng bảo đảm
cung ứng ở mức tạm đủ dùng cho các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp,
chứ không đến mức sản xuất công nghiệp bị cắt điện liên miên như hiện nay.
Nếu giải quyết được khâu vận
chuyển và phân phối than, không để tồn đọng hàng mấy chục vạn tấn như lâu
nay, thì có thể nâng mức huy động công suất máy móc của nhiều nhà máy, huy
động các phương tiện vận tải thủy bộ tăng mức hoạt động. Những vướng mắc
trong quản lý và phân phối điện và than đã gây những hậu quả tác hại cho sản
xuất công nghiệp và giao thông vận tải.
3. Để tạo điều kiện cho các ngành
công nghiệp có thể chuyển biến, sáng tạo, năng động, thoát ra khỏi các khó
khăn hiện nay, cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng cơ chế quản lý mới thực sự
thoát ra khỏi tình trạng hành chính quan liêu bao cấp; cơ chế đó phải được
thể hiện bằng một loạt các chính sách đồng bộ theo hướng giúp cho các xí
nghiệp quốc doanh thực sự có các điều kiện tối thiểu và có các quyền hạn cần
thiết trong kinh doanh, sản xuất, thì xí nghiệp mới có thể tự chịu trách
nhiệm vật chất và tự chủ tài chính, mới có thể thực hiện được hạch toán kinh
tế đầy đủ và triệt để, không hạch toán nửa vời, hình thức như hiện nay.
Chúng tôi nghĩ rằng, có tạo ra
một cơ chế đồng bộ và tạo điều kiện tối thiểu cho xí nghiệp đi vào hạch toán
đúng nguyên tắc hạch toán xã hội chủ nghĩa, chính là chúng ta đi vào giải
quyết lợi ích của công nghiệp và lợi ích của công nhân sản xuất công nghiệp
và như vậy mới tạo lối thoát thực sự cho công nghiệp. Mặt khác, chúng tôi đề
nghị quán triệt chủ trương đầu tư theo chiều sâu, hoàn chỉnh và đồng bộ hóa
các dây chuyền hiện có, mạnh dạn đưa khoa học - kỹ thuật vào công nghiệp,
thay thế các quy trình công nghệ thủ công cần thay thế và đem lại hiệu quả
kinh tế cao (như trong công nghiệp thực phẩm chẳng hạn).
4. Cần xác định quy hoạch và kế
hoạch có thời hạn rõ ràng cho việc sắp xếp lại sản xuất, một chủ trương lớn
đã được Đại hội V quyết định. Trong khi sắp xếp lại sản xuất các ngành công
nghiệp, chúng tôi đề nghị cần rà soát kỹ lại danh mục sản phẩm công nghiệp
nào cần duy trì, cần phát triển, hoặc cần đình sản xuất, nên soát xét theo
tinh thần toàn diện đồng bộ, tức bao gồm cả quy cách, kiểu, chất lượng sản
phẩm làm ra, gắn với xem xét nhu cầu của xã hội lẫn vấn đề giá thành và giá
cả. Có xem xét đồng bộ và toàn diện thì mới tránh được sản xuất khi thiếu
khi thừa, tránh được tình hình xã hội còn cần nhưng không mua trong lúc sản
phẩm ứ đọng ở kho không tiêu thụ được. Sau khi rà xét và sắp xếp lại sản
xuất, chúng tôi đề nghị công tác kế hoạch hóa trong các ngành công nghiệp từ
nay trở đi phải thể hiện cho được tinh thần sản xuất phải gắn với các yêu
cầu sử dụng và tiêu dùng, yêu cầu về chất lượng và giá cả quy định.
Nâng cao chất lượng sản phẩm phải
được coi là một mục tiêu chủ yếu, một yêu cầu có tính chất pháp lệnh của sản
xuất công nghiệp hiện nay.
IV- VỀ XÂY DỰNG CƠ BẢN
Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch xây dựng cơ bản năm 1982, cho thấy đã
chi gần hết vốn đầu tư cả năm (92% vốn xây lắp và 82% vốn thiết bị), nhưng
chỉ hoàn thành được 10/37 công trình phải hoàn thành trong năm. Năm 1981,
cũng chỉ hoàn thành 18/104 công trình cần phải hoàn thành và 15/40 công
trình phải khởi công trong năm. Như vậy, trong hai năm qua vẫn tồn tại tình
hình xây dựng cơ bản kéo dài, số công trình dở dang còn quá nhiều.
Chúng tôi
đề nghị Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính và các ngành có các công
trình đầu tư dở dang, không hoàn thành xây dựng đúng hạn cần kiểm tra chặt
chẽ để chống thất thoát vật tư, thiết bị. Vì trong xây dựng cơ bản, tình
trạng kéo dài thời hạn hoàn thành công trình, thường nảy sinh hiện tượng vật
tư thiết bị tồn đọng trong kho; đến năm sau, khi rót vốn và cấp vật tư tiếp
cho công trình thì vật tư thiết bị của năm trước chưa sử dụng hết rất dễ bị
hư hao, mất mát, không được sử dụng cho công trình.
Về hướng
chung xây dựng cơ bản của bản kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1983 có nhìn đến
năm 1985, Ủy ban chúng tôi nhất trí. Nhưng đi vào xem xét việc phân bổ vốn
đầu tư cho các công trình và thời hạn hoàn thành xây dựng, chúng tôi thấy
vốn còn bị dàn trải, chưa thể hiện được đầy đủ chủ trương sắp xếp lại xây
dựng và tư tưởng chỉ đạo trong xây dựng cơ bản là tập trung dứt điểm, sớm
đưa vào sử dụng các công trình thật sự có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế. Do
phải sử dụng tới 98% vốn đầu tư cho các công trình dở dang nên không còn đủ
vốn và vật tư để thực hiện đầu tư theo chiều sâu cần ít vốn, phát huy hiệu
quả sớm. Chúng tôi xin kiến nghị Hội đồng Bộ trưởng và Ủy ban Xây dựng cơ
bản Nhà nước soát xét thêm vấn đề này, làm thế nào để chúng ta sớm ra khỏi
tình trạng bị động bởi số công trình dở dang còn quá nhiều và bởi những công
trình đã được quyết định xây dựng nhưng nay xét ra hiệu quả chưa được tính
toán đầy đủ. Một trong những công trình mà Ủy ban chúng tôi đề nghị xem xét
là công trình hồ chứa Dầu Tiếng.
Về xây dựng cơ bản, chúng tôi xin
lưu ý thêm Hội đồng Bộ trưởng tăng cường chỉ đạo để bảo đảm hoàn thành kế
hoạch xây dựng nhà ở cả về khối lượng và chất lượng tại các thành phố và khu
công nghiệp, đặc biệt là ở Thủ đô Hà Nội. Chúng tôi cũng xin lưu ý Hội đồng
Bộ trưởng chỉ đạo các ngành hữu quan quan tâm đầy đủ đến việc phục vụ và
giúp đỡ Thủ đô Hà Nội thực hiện các chương trình mở mang xây dựng theo kế
hoạch đầu tư của Trung ương và của thành phố.
V- VỀ GIAO THÔNG VẬN TẢI
Ủy ban
chúng tôi thấy năm 1982, việc vận tải lương thực miền Nam ra, vận tải than
Quảng Ninh và việc tiếp nhận bốc chuyển hàng hóa từ nước ngoài ở các cảng có
khá hơn trước, nhưng nhìn chung, việc vận chuyển hàng hóa và hành khách vẫn
còn đang là khâu yếu, không đáp ứng được các yêu cầu của sản xuất và đi lại
của nhân dân, chưa chặn đứng được các hiện tượng tiêu cực, chưa khôi phục
được lòng tin của cán bộ, nhân dân đối với ngành Giao thông.
Chúng tôi nghĩ
rằng, tiếp tục đầu tư cho ngành Giao thông có thêm cơ sở vật chất và nhiên
liệu như xăng dầu, than mỡ, v.v. để ngành này có điều kiện cần thiết phục vụ
các yêu cầu vận chuyển và đi lại là cần thiết. Nhưng bài toán lớn nhất đặt
ra là làm sao ngành Giao thông vận tải và các cơ quan có lực lượng vận tải
huy động tốt hơn các tiềm năng đang có trong ngành. Cụ thể là:
- Huy động được số hàng trăm đầu
máy, hàng nghìn toa xe để đường sắt Bắc - Nam chạy đều đặn, tốc độ nhanh
hơn, an ninh và an toàn tốt hơn.
- Tìm thêm nguồn hàng chuyên chở
để tận dụng gần nửa triệu tấn tàu biển, sà lan biển hiện có của ngành đường
biển, của ngoại thương và của địa phương để tàu đi tàu về đều có hàng.
- Khai thác gần 30 vạn tấn tàu,
thuyền sà lan chạy đường sông của Trung ương và địa phương để vận chuyển
hàng hóa đáp ứng tốt hơn cho các yêu cầu của sản xuất, xây dựng và đời sống,
giảm bớt được số tàu thuyền hư hỏng không đủ tiêu chuẩn vận tải, chấm dứt
được hư hao thất thoát hàng hóa.
- Sử dụng có hiệu quả hơn năng
lực của gần 3 vạn ôtô vận tải đường bộ đang còn phải nằm bến, nằm bãi nhiều
(bởi nhiều lý do khác nhau), hạn chế đến mức thấp nhất việc chở hàng một
chiều, chặn đứng việc thất thoát hàng hóa và xăng dầu.
Chúng tôi nghĩ, bài toán trên đây
là lớn lao và không dễ giải quyết, là công việc chung của Hội đồng Bộ
trưởng, của nhiều ngành hữu quan. Nhưng chúng tôi thấy, để giải quyết tình
hình cấp bách hiện nay, trước hết ngành Giao thông vận tải tiến hành kiện
toàn tổ chức và bằng sự chấn chỉnh công tác quản lý theo hướng kinh doanh có
hiệu quả, bằng việc xây dựng và áp dụng dần sự điều hành và quản lý bằng
luật pháp, quy chế cộng với giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa ba lợi ích
trong ngành.
Ngoài sự chấn chỉnh công tác tổ
chức và quản lý của bản thân ngành Giao thông vận tải, chúng tôi đề nghị Hội
đồng Bộ trưởng chỉ đạo các ngành và các địa phương có liên quan làm đúng
trách nhiệm của mình để thực sự hỗ trợ cho ngành Giao thông vận tải. Ví dụ:
trong việc xây dựng nhà máy xe lửa Gia Lâm cần sớm kết thúc để có nơi sửa
chữa đầu máy toa xe. Ví dụ: đẩy mạnh việc nạo vét lòng sông để tàu ra vào
cảng Hải Phòng không phải chuyển tải 3 - 4 lần. Ví dụ nữa là quy hoạch lại
để sử dụng hợp lý và xây dựng nhanh các xí nghiệp đóng và sửa chữa tàu
thuyền, ôtô vận tải, v.v.. Đó là những công việc mà ngành Giao thông vận tải
không thể tự lo được, phải có các ngành khác làm, có giới hạn thời gian với
sự chỉ đạo chặt chẽ và có hiệu lực của Hội đồng Bộ trưởng.
VI- VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Trong kỳ họp thứ 6 tháng 12 năm
1980, Quốc hội đã thông qua ngân sách nhà nước năm 1981 với tổng số thu chi
thăng bằng là 12.070 triệu đồng.
Sau khi
điều chỉnh giá và phụ cấp lương, ngân sách được tính lại với tổng số thu là
21.160 triệu đồng, tổng số chi là 26.280 triệu đồng.
Ngân sách nhà
nước năm 1981 thực hiện trong điều kiện kinh tế, tài chính của nước nhà còn
nhiều khó khăn. Miền Bắc bị thiên tai cuối năm 1980. Vật tư, xăng dầu thiếu
thốn. Kế hoạch sản xuất, thu mua lương thực, nông sản đạt thấp. Ngân sách
phải tăng chi để phụ cấp lương và bù giá các mặt hàng cung cấp theo mặt bằng
giá mới. Việc quản lý thị trường, vật giá còn quá yếu. Công tác quản lý sản
xuất, quản lý hàng hóa, vật tư và quản lý tài chính còn nhiều sơ hở và
khuyết điểm.
Trong tình hình nói trên, ngân
sách nhà nước năm 1981 bội chi 4.127.700.843 đồng do tổng số thu đạt
22.786.919.451 đồng (tăng 1.626.919.415 đồng so với số thu tính lại) và tổng
số chi đạt 26.914.620.294 đồng (tăng 634.620.294 đồng so với số chi tính
lại).
Bài học rút ra từ việc thực hiện ngân sách nhà nước năm 1981, là cần quản
lý, điều hành chặt chẽ và đồng bộ trên tất cả các mặt sản xuất, phân phối
lưu thông, đặc biệt là cần tính toán đầy đủ đến những ảnh hưởng có thể có
của việc điều chỉnh giá trong tình hình kinh tế nước nhà còn nhiều mặt mất
cân đối nghiêm trọng.
Dự toán ngân sách nhà nước năm
1982 được kỳ họp thứ 3 của Quốc hội quyết định với tổng số thu là 48.250
triệu đồng, tổng số chi 52.250 triệu đồng, kế hoạch bội chi 4.000 triệu
đồng. Quốc hội giao trách nhiệm của Hội đồng Bộ trưởng phấn đấu giữ mức bội
chi đó, nếu phải tăng chi thì hạn chế bội chi ở mức thấp nhất.
Kết quả bước đầu của việc thực
hiện ngân sách nhà nước năm 1982 đã được Bộ trưởng Tài chính báo cáo: tổng
số thu ước là 50.480 triệu đồng; tổng số chi ước là 54.990 triệu đồng, ngân
sách bội chi 4.510 triệu đồng, vượt số bội chi kế hoạch là 510 triệu đồng.
Qua xem xét tình hình thực hiện
ngân sách nhà nước năm 1982, Ủy ban chúng tôi có một số nhận xét sau đây:
1. Việc thu
chi ngân sách nhà nước còn tiếp tục chịu ảnh hưởng trực tiếp của ba yếu tố
quan trọng: nền kinh tế còn những mặt mất cân đối nghiêm trọng, thị trường
vật giá chưa ổn định, quản lý kinh tế còn nhiều sơ hở và thiếu sót. Do đó,
cần có sự nỗ lực vượt bậc để khắc phục khó khăn và yếu kém về cả ba mặt để
cải thiện từng bước tình hình tài chính quốc gia.
2. Năm 1982 đã có những cố gắng
đáng kể trong việc tăng thu nhưng chưa đủ mức và chưa đều. Điều cần đặc biệt
nhấn mạnh là các nguồn thu của kinh tế quốc doanh sau khi đã loại trừ những
yếu tố tăng thu có liên quan nhiều đến sự biến động và điều chỉnh về giá, đã
không đạt kế hoạch, một số ngành quan trọng như vận tải, thương nghiệp đạt
thấp. Hơn nữa, theo báo cáo của Bộ Tài chính thì tỷ lệ huy động thu nhập
thuần túy tập trung của kinh tế quốc doanh đã giảm nhiều và số được huy động
ấy chỉ còn bảo đảm một phần nhỏ các nhu cầu chi của ngân sách về hành chính,
sự nghiệp, quốc phòng, an ninh. Điều đó đòi hỏi Nhà nước ta gấp rút tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong việc tăng cường lực lượng và quản lý kinh tế quốc
doanh, lực lượng chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, nhằm bảo đảm sản xuất
không ngừng phát triển, nâng cao hiệu quả đồng vốn, bảo đảm kinh tế quốc
doanh luôn luôn là chỗ dựa quan trọng nhất trong các nguồn thu của ngân
sách.
3. Tổng số chi của ngân sách một phần quan trọng là do yếu tố giá cả tăng.
Nhưng cần phải nhấn mạnh rằng, việc chưa thật sự đề cao nguyên tắc thống
nhất quản lý tài chính và kỷ luật tài chính trong cả nước đã có tác dụng
không nhỏ làm tăng chi ngân sách nhà nước. Vẫn còn xảy ra hiện tượng khá phổ
biến là chi tiêu sai chế độ quy định, tùy tiện tăng giá hàng, kể cả việc một
số địa phương đã tự động bán với giá cao số hàng công nghiệp dùng để trao
đổi hai chiều với nông dân, rồi lại lấy tiền mặt từ ngân hàng đó để mua nông
sản, thực phẩm theo giá thỏa thuận. Điều đó đòi hỏi đi đôi với việc tăng
cường quản lý thị trường, vật giá, cần phải đề cao thống nhất quản lý và kỷ
luật tài chính trong cả nước.
4. Nếu chỉ xem xét riêng ngân
sách nhà nước do Bộ Tài chính quản lý thì số bội chi vượt kế hoạch là 510
triệu đồng không đủ gây tác động quá lớn đến tình hình khẩn trương của thị
trường và vật giá hiện nay. Song, xem xét tình hình tài chính của đất nước
phải kết hợp xem xét tình hình thu chi ngân sách với tình hình thu chi tiền
mặt của Ngân hàng Nhà nước. Cho đến nay, việc bội chi tiền mặt còn lớn; theo
báo cáo của ngân hàng Nhà nước thì mấy năm lại đây, bội chi tiền mặt của năm
sau vượt xa năm trước. Nguyên nhân một phần là do điều chỉnh giá, đòi hỏi
phải tăng khối lượng tiền tệ một cách tương ứng để bảo đảm phương tiện lưu
thông trên cơ sở hệ thống giá mới; phần khác là do những nhu cầu cấp phát
tài chính mà trong nhiều trường hợp ngân sách nhà nước chưa kịp bảo đảm. Năm
1982, đã diễn ra tình hình như vậy. Do đó, áp lực tăng chi không chỉ thể
hiện ở ngân sách nhà nước mà còn thể hiện cả ở hoạt động của ngân hàng. Số
bội chi ngân sách 4.510 triệu đồng mới phản ánh một phần hiện tình tài chính
quốc gia. Từ tình hình trên đây, ủy ban chúng tôi kiến nghị với Quốc hội lưu
ý Hội đồng Bộ trưởng quản lý và điều hòa toàn diện và nhạy bén hơn hoạt động
của cả hai cơ quan Tài chính và Ngân hàng Nhà nước, nói cách khác là quản lý
điều hòa tất cả hoạt động thu chi ngân sách và thu chi tiền mặt, hết sức hạn
chế tác động của bội chi ngân sách đối với bội chi tiền mặt và ngược lại.
Hội đồng Bộ trưởng đã trình với
Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước năm 1983 với những số liệu chính như
sau:
Tổng số thu là 59.100 triệu;
Tổng số chi là 62.100 triệu đồng,
trong đó, khoản chi lớn nhất là bù lương, bù giá, sau đó là chi đầu tư xây
dựng cơ bản.
Sau khi thẩm tra, Ủy ban kinh tế,
kế hoạch và ngân sách của Quốc hội xin trình với Quốc hội những ý kiến sau
đây:
1. Nói chung dự toán ngân sách nhà nước năm 1983 đã được bố trí nhằm cố gắng
khai thác các nguồn thu, trong đó, thu thuế công thương nghiệp tăng gần 80%
so với năm 1982 và động viên các nguồn thu khác như xổ số kiến thiết, thu từ
tiết kiệm dài hạn, công trái quốc gia, làm cho tổng số thu tăng đáng kể so
với năm 1982.
Mặt khác cần lưu ý rằng, tỷ trọng
của kinh tế tư nhân và cá thể còn đang lớn ở các tỉnh miền Nam. Dự kiến đưa
số thu về thuế công thương nghiệp năm 1983 lên 8.000 triệu là một cố gắng
mới, song nếu trừ yếu tố tăng giá còn có thể diễn ra thì số thu đó chưa hẳn
đã phản ánh hết khả năng hiện thực. Do đó, Ủy ban chúng tôi kiến nghị Hội
đồng Bộ trưởng xem xét và có thể dự kiến tăng thêm khoản thu này trên cơ sở
sửa đổi và bổ sung chính sách thuế công thương nghiệp.
Về khoản thu từ phát hành công
trái; Ủy ban chúng tôi nhất trí với chủ trương này và kiến nghị Hội đồng Bộ
trưởng nghiên cứu đầy đủ việc bảo đảm quyền lợi hợp lý cho người mua công
trái có liên quan đến sức mua của đồng tiền chưa ổn định. Mặt khác, cần có
chủ trương rõ ràng đối với số nợ mà nhân dân miền Nam cho chính quyền cách
mạng vay trong thời kỳ chống Mỹ.
2. Hiện nay, khoản chi về bù giá
hàng cung cấp là 21.000 triệu đồng, chiếm trên 1/3 tổng số chi ngân sách. Ủy
ban chúng tôi kiến nghị Hội đồng Bộ trưởng nghiên cứu sớm chuyển khoản chi
này vào quỹ lương và hạch toán vào giá thành đối với khu vực sản xuất và
dịch vụ phù hợp với phương hướng cải tiến tiền lương mà Nghị quyết của Đảng
và Quốc hội đã ghi. Ủy ban chúng tôi cho rằng, làm việc này càng sớm thì
càng có thể sớm sửa đổi chế độ bao cấp hiện nay, đồng thời, cải thiện một
bước đáng kể tình hình tài chính quốc gia.
3. Ngân sách nhà nước năm 1983 dự
kiến bội chi là 3.000 triệu đồng bằng 4,9% so với tổng số chi. Như vậy, ngân
sách đang đi vào xu thế dần dần giảm bội chi. Theo quyết toán ngân sách năm
1981, mức bội chi là 15,3% so với tổng số chi và ước tính năm 1982 tỷ lệ bội
chi giảm còn 8,2%. Song, vấn đề đặt ra liệu chúng ta có thể giảm số bội chi
đó không?
Ủy ban
chúng tôi cho rằng, trong năm 1983 nếu chúng ta cố gắng hơn nữa trong kinh
tế quốc doanh và trong toàn bộ nền kinh tế để đảm bảo nguồn thu cho ngân
sách, nếu chống thất thu có kết quả thực hiện tốt chính sách về thu thuế
công thương nghiệp và các nguồn thu khác, thanh lý các kho hàng vật tư hiện
còn ứ đọng nhiều ở các bến bãi và trong các xí nghiệp, triệt để tiết kiệm
chi, soát xét lại để giảm một cách hợp lý số vốn dự kiến cho đầu tư xây dựng
cơ bản thì ngân sách nhà nước năm 1983 vẫn có khả năng giảm bội chi xuống
dưới mức 3 tỷ đồng, từ đó có khả năng thực hiện thăng bằng thu chi sớm hơn
dự định. Ủy ban chúng tôi cho rằng, trong khi xây dựng dự án kế hoạch và
ngân sách nhà nước cần chú ý đầy đủ đến việc động viên khả năng của 26 triệu
lao động. Chúng tôi nghĩ rằng, đó là một tiềm năng hết sức to lớn có thể góp
phần vào việc giảm bớt và tiến tới xóa bỏ bội chi ngân sách nhà nước, trên
cơ sở Nhà nước ta có chính sách động viên thỏa đáng.
4. Để chấp hành ngân sách nhà
nước năm 1983 được tốt, ủy ban chúng tôi kiến nghị với Quốc hội động viên
các ngành, các cấp, động viên toàn dân, toàn quân ra sức đẩy mạnh sản xuất,
thực hành tiết kiệm hết sức xem trọng hiệu quả và chất lượng. Phải sử dụng
mỗi đồng vốn của Nhà nước và của tập thể với hiệu quả kinh tế cao, bảo đảm
chất lượng sản phẩm và chất lượng công tác, tiết kiệm vật tư, xăng dầu,
lương thực. Giảm nhẹ biên chế hành chính, thực hiện tốt việc thống nhất quản
lý tài chính trong cả nước, đồng thời, đề cao tinh thần trách nhiệm và phát
huy tính chủ động tích cực của các địa phương, bảo đảm nghiêm ngặt các nguồn
thu vào ngân sách Trung ương, sớm ổn định tỷ lệ điều tiết các nguồn thu và
nhiệm vụ chi của các địa phương.
VII- VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ ĐỜI SỐNG
Trong tình hình cụ thể hiện nay,
ủy ban chúng tôi tán thành báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng là trong khi chuẩn
bị điều kiện để cải tiến chế độ tiền lương thì cần thi hành những biện pháp
ổn định đời sống của cán bộ, công nhân viên chức, bộ đội, công an bằng cách
bảo đảm cung cấp bằng hiện vật, tập trung sức bảo đảm cung cấp theo định
lượng các mặt hàng quy định đúng số lượng, chất lượng, thời gian và giá cả,
đồng thời, thực hiện khoản phụ cấp tạm thời.
Để thực hiện chủ trương này, chúng tôi đề nghị Hội đồng Bộ trưởng giao trách
nhiệm cho các ngành phân phối lưu thông bảo đảm bằng mọi cách cung cấp đầy
đủ các mặt hàng cung cấp. Trong trường hợp không đủ hàng cung cấp thì bù
bằng tiền bảo đảm cho người được cung cấp mua đủ số hàng hóa theo định
lượng, chấm dứt tình trạng bù thấp hơn số tiền cần thiết để mua số hàng
tương đương.
Về vấn đề cải tiến chế độ tiền
lương, ủy ban chúng tôi đề nghị Quốc hội và Hội đồng Bộ trưởng khẳng định
xúc tiến công việc chuẩn bị để thực hiện càng sớm càng tốt vì đây là một yêu
cầu rất bức thiết của sự nghiệp phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao
động, ổn định và cải thiện một bước đời sống, góp phần bảo đảm trật tự xã
hội. Ủy ban chúng tôi cho rằng, việc cải tiến tiền lương cần được nghiên cứu
theo quan điểm toàn diện, dựa trên cơ sở thứ nhất là phát triển sản xuất
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng và cơ sở thứ hai không kém quan
trọng là làm tốt khâu phân phối lưu thông. Phân phối nói ở đây trước hết là,
phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân theo hướng có lợi cho chủ nghĩa
xã hội, cho nhân dân lao động. Điều này đòi hỏi một mặt phải tính toán và
cân đối việc sản xuất và sử dụng thu nhập quốc dân; mặt khác, bằng các biện
pháp kinh tế, giáo dục và hành chính, tiến hành điều tiết thu nhập của các
tầng lớp xã hội vì lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của người lao động. Có
như vậy, chúng tôi nghĩ rằng, chúng ta mới có thể sớm thực hiện cải tiến chế
độ tiền lương.
Thưa các đồng chí đại biểu
Quốc hội,
Kết quả thực hiện kế hoạch và
ngân sách nhà nước tùy thuộc có tính chất quyết định ở công tác quản lý điều
hành. Kế hoạch nhà nước phải gắn liền với chính sách, với bộ máy tổ chức và
sự điều hành. Các chỉ tiêu kế hoạch phải được bảo đảm vật tư và tiền vốn cần
thiết và được cung cấp đúng khối lượng, chất lượng và thời hạn. Quan hệ kinh
tế giữa các ngành, các cấp và cơ sở phải được thể hiện bằng hợp đồng và hợp
đồng ấy phải được thực hiện nghiêm chỉnh từ các bên hữu quan. Việc cân đối
vật tư và các điều kiện khác phải được tiến hành cả theo ngành dọc và trên
địa bàn tập trung các cơ sở sản xuất trọng yếu. Chính là công tác quản lý
điều hành và điều hành hướng vào giải quyết các yêu cầu đó. Được như vậy,
nền kinh tế nước nhà sẽ có những chuyển biến mới toàn diện và mạnh mẽ hơn.
Trên đây là những ý kiến Ủy ban
kinh tế, kế hoạch và ngân sách trình Quốc hội xem xét.
Lưu tại Trung
tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội