THUYẾT TRÌNH
CỦA ỦY BAN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
CỦA QUỐC HỘI VỀ VẤN ĐỀ KHẮC PHỤC
NHỮNG VƯỚNG MẮC VỀ TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ, PHÁT HUY MẠNH MẼ HƠN NỮA VỐN QUÝ
VỀ KHOA HỌC - KỸ THUẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
(Do ông Trần Đức Lương, Phó Chủ nhiệm
Ủy ban khoa học và kỹ thuật của Quốc hội
trình bày tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa VII,
ngày 22-12-1982)
Kính thưa Đoàn Chủ tịch,
Kính thưa các đồng chí đại
biểu Quốc hội,
Trong hai năm 1981, 1982, Ủy ban
khoa học và kỹ thuật của Quốc hội đã thực hiện một số đợt nghiên cứu khảo
sát tại các cơ sở nghiên cứu, sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp ở đồng
bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng, một số cơ sở của các ngành than
và điện, một số cơ sở làm hàng tiêu dùng và xuất khẩu của Thủ đô Hà Nội. Ủy
ban cũng đã tổ chức các cuộc gặp gỡ làm việc với Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật
Nhà nước, Ủy ban Khoa học xã hội, Viện Khoa học Việt Nam, các Bộ Nông
nghiệp, Mỏ và Than, Điện lực, Giao thông vận tải. Thông qua các hoạt động
nói trên, cũng như thông qua hoạt động của các thành viên Ủy ban đang công
tác ở nhiều cương vị và địa bàn khác nhau, chúng tôi xin trình bày với Quốc
hội một số ý kiến xoay quanh vấn đề: Khắc phục những vướng mắc về tổ chức
quản lý, phát huy mạnh mẽ hơn nữa vốn quý về khoa học - kỹ thuật của đất
nước nhằm góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước năm 1983, những
mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 1985 và những năm 80.
Thưa các đồng chí đại biểu,
Năm 1982 được ghi nhận là năm có những chuyển biến mới rất có ý nghĩa trong
nền kinh tế quốc dân trên mặt trận tự lực giải quyết vấn đề lương thực bằng
sản xuất trong nước trong việc duy trì và phát triển công nghiệp, nhất là
công nghiệp địa phương và tiểu, thủ công nghiệp, trên những tiến bộ về giao
thông vận tải, xây dựng cơ bản các công trình trọng điểm, đẩy mạnh xuất
khẩu, v.v..
Thực tiễn đó chứng minh hùng hồn
sức sống, sức sáng tạo và khả năng to lớn của nhân dân ta trong việc khắc
phục những khó khăn lớn đang đặt ra trong tình hình kinh tế - xã hội của đất
nước ta hiện nay. Công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ
thuật đã có những cống hiến quan trọng trong các năm qua đặc biệt là
trong các năm gần đây, sau khi có Nghị quyết 37 của Bộ Chính trị. Rõ ràng
việc ứng dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới về sinh học, cũng như
việc nghiên cứu và đưa vào áp dụng cơ chế quản lý tiến bộ hơn đã là những
nhân tố có tính chất quyết định trong những tiến bộ vượt bậc trong nông
nghiệp hiện nay. Thực vậy, do chúng ta còn gặp nhiều khó khăn về phân bón,
về thủy lợi, về cơ khí hóa, về thuốc trừ sâu, v.v. những tiến bộ về sản
lượng và năng suất cây trồng vừa qua chủ yếu nhờ vào việc ứng dụng các thành
tựu khoa học, tiến bộ sinh học về giống cũng như bảo vệ cây trồng bằng biện
pháp sinh học. Việc nghiên cứu, tìm hiểu các nguồn năng lượng và nguyên liệu
trong nước như việc: khai thác và chế biến quy mô nhỏ các nguồn nguyên liệu
khoáng sản, nguyên liệu sinh vật sẵn có ở các địa phương, việc cải tiến
thiết bị và chế tạo phụ tùng thay thế, việc huy động các cán bộ khoa học -
kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề tham gia xây lắp và tham gia giải quyết
các dịch vụ khoa học - kỹ thuật của các công trình xây dựng trọng điểm của
Nhà nước (ví dụ, các trường hợp giấy Bãi Bằng, điện Phả Lại, xi măng Hoàng
Thạch, thủy điện Sông Đà, v.v.) cũng đã góp phần quan trọng vào việc tạo nên
những chuyển biến mới ở hầu khắp các ngành kinh tế - kỹ thuật, ở các địa
phương và cơ sở trong năm qua.
Tuy nhiên, nếu trên mặt trận nông nghiệp việc đưa tiến bộ khoa học - kỹ
thuật đã có thể thấy được trên quy mô tương đối rộng lớn thì trên các lĩnh
vực khác gần như còn dừng ở mức độ lẻ tẻ, quy mô nhỏ, chưa đưa lại hiệu quả
lớn trong việc phát triển sức sản xuất xã hội. Trong suốt mấy chục năm qua,
ngay cả trong những năm tháng chiến tranh ác liệt và kéo dài, Đảng và Nhà
nước ta đã chăm lo gây dựng cho đất nước ta một tiềm lực khoa học - kỹ thuật
không nhỏ với trên 3.500 cán bộ trên đại học, trên ba trăm ngàn cán bộ đại
học, hàng trăm viện nghiên cứu, nhiều trường đại học và trung học chuyên
nghiệp thuộc 230 ngành nghề khác nhau. Những thành tựu đã đạt được rõ ràng
là còn nhỏ bé so với tiềm lực to lớn đó. Tháo gỡ những mắc mứu, chắp cánh
cho lực lượng khoa học - kỹ thuật này đi vào phong trào quần chúng, đi vào
giải đáp đúng những yêu cầu của sản xuất, đời sống và quốc phòng là đòi hỏi
bức thiết hiện nay. Trong đó, việc tháo gỡ những mắc mứu về tổ chức quản lý
có tầm quan trọng hàng đầu.
Hệ thống các tổ chức nghiên
cứu và thí nghiệm khoa học - kỹ thuật
ở nước ta tuy đã khá phát triển
song còn thiếu tính hệ thống và đồng bộ, vừa có sự chồng chéo, vừa có những
chỗ trống.
Yếu tố tổ chức có tính cản trở
việc đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và đời sống hiện nay là
sự phát triển chậm của hệ thống các viện, các cơ quan nghiên cứu những vần
đề kinh tế chung cho toàn nền kinh tế quốc dân cũng như kinh tế ngành và
vùng lãnh thổ. Do đó, việc đưa các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào kế
hoạch kinh tế, đời sống và quốc phòng theo yêu cầu ứng dụng rộng rãi, không
được chuẩn bị tốt về vốn và vật tư, về quy trình công nghệ, về định mức, về
tính toán hiệu quả để có đủ quyết tâm trong việc đầu tư và tổ chức thực
hiện, (trong số 92 tiến bộ kỹ thuật được kết luận năm 1981 chỉ mới có 15
tiến bộ thực sự đưa vào kế hoạch nhà nước trong kế hoạch năm 1982). Mặt
khác, việc kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, kế hoạch hóa ngành và vùng
lãnh thổ chưa được chuẩn bị chu đáo trên cơ sở những tính toán khoa học, sử
dụng những tiến bộ mới về phương pháp luận khoa học quản lý hiện đại. Có thể
lấy trường hợp quy hoạch tổng thể của ngành điện và vấn đề xuất khẩu làm ví
dụ.
Trước những khó khăn lớn của đất nước hiện nay, nhân dân ta vô cùng phấn
khởi và được khích lệ bởi việc các công trình phát điện lớn đang được khẩn
trương thi công như nhiệt điện Phả Lại, thủy điện Sông Đà hoặc đang được
tích cực chuẩn bị như thủy điện Trị An. Tuy nhiên, hầu hết cán bộ khoa học -
kỹ thuật và kinh tế am hiểu về điện đều còn rất lo lắng về hiệu quả tác động
đối với đời sống kinh tế - xã hội của các công trình này sau khi xây dựng
xong. Vấn đề là hiện nay vẫn thiếu một quy hoạch đồng bộ về hệ thống phân
phối, chuyển tải và tiêu dùng điện hợp lý. Chỉ riêng nguồn phát thì chưa
giải quyết được vấn đề. Trong khi đó, chương trình duy nhất trong số 72
chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước không triển khai được trong năm 1982
lại chính là chương trình nghiên cứu về quy hoạch và cân bằng năng lượng
(cái khó ở đây không phải là về mặt khoa học - kỹ thuật mà là về mối liên
kết giữa kỹ thuật và kinh tế của vấn đề được đặt ra).
Đối với một nước đang phát triển như nước ta, vấn đề xuất khẩu có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với công cuộc công nghiệp hóa. Nhiều loại tài nguyên
sinh vật (cây, con) và một số loại tài nguyên khoáng sản của nước ta được kể
đến như là những hướng quan trọng cho xuất khẩu. Tuy nhiên, chúng ta không
có đủ năng lực để đầu tư cùng một lúc trên nhiều hướng mà phải có mũi nhọn
hay nói cách khác là cần có sự lựa chọn theo nguyên tắc kế hoạch hóa tối ưu.
Ở đây cũng đang thiếu một sự liên kết cần thiết về các mặt nghiên cứu điều
tra cơ bản, khoa học - kỹ thuật và kinh tế kế hoạch.
Vấn đề khác trong hệ thống tổ
chức, làm hạn chế nhiều việc phát huy năng lực của cơ sở nghiên cứu khoa học
- kỹ thuật, thậm chí còn để lãng phí đáng tiếc những cơ sở vật chất kỹ thuật
vốn ít ỏi hiện có là tình trạng phân tán, tản mạn các thiết bị nghiên
cứu, thí nghiệm, tính toán, đo lường. Vấn đề này cần được xem xét không
những theo quan điểm ngành mà rất cần thiết được xem xét theo quan điểm
ngành và vùng lãnh thổ.
Hình thức tổ chức các trạm, trại, tổ đội ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ
thuật sát đến từng cơ sở sản xuất ở nông thôn và việc thành lập các ban khoa
học - kỹ thuật cấp tỉnh, cấp huyện vốn là hình thức sáng tạo phù hợp với
thực tiễn nước ta cần được nuôi dưỡng và mở ra rộng khắp cho toàn bộ các
lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Hình thức này còn có tác dụng gắn liền
việc đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, đời sống, cải tạo xã hội
chủ nghĩa.
Hệ thống tổ chức quản lý
khoa học - kỹ thuật của nước ta đang còn những chỗ trống cần sớm xem xét
giải quyết. Ở cấp Trung ương cũng như ở các tỉnh, thành phố hiện nay, Ủy ban
Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước và các Ban khoa học - kỹ thuật tỉnh, thành phố
chỉ quản lý các lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học - kỹ thuật. Những vấn
đề quản lý khoa học xã hội gần như không có cơ quan phụ trách về mặt quản lý
nhà nước. Vì vậy, việc kế hoạch hóa, việc huy động lực lượng và quản lý các
công tác nghiên cứu khoa học xã hội vào việc giải quyết các mục tiêu kinh tế
- xã hội của đất nước thiếu đầu mối tập trung thống nhất. Trong khi đó,
nhiều vấn đề cấp thiết đang đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của các
ngành khoa học xã hội như vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa Việt
Nam và con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vấn đề cải cách giáo dục và đặc
biệt quan trọng là vấn đề quản lý khoa học nền kinh tế quốc dân xã hội chủ
nghĩa, các chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước hiện nay về cơ bản cũng là
các chương trình khoa học tự nhiên và khoa học - kỹ thuật. Ủy ban Khoa học
xã hội hiện nay hoạt động như một viện nghiên cứu hơn là ủy ban Nhà nước.
Về mặt cơ chế quản lý, bên
cạnh việc kế hoạch hóa thì hệ thống các chính sách cụ thể nhằm phát
huy tiềm năng khoa học - kỹ thuật đang còn nhiều vướng mắc.
Vấn đề đầu tư cho công tác
khoa học - kỹ thuật
đang là mối quan tâm chung của nhiều ngành, nhiều cấp, của đông đảo cán bộ
khoa học - kỹ thuật trong cả nước. Ủy ban khoa học - kỹ thuật của Quốc hội
bày tỏ sự đồng tình nhiệt liệt đối với những cố gắng của Hội đồng Bộ trưởng
trong quyết tâm tăng thêm đầu tư cho công tác khoa học - kỹ thuật cũng như
công tác điều tra cơ bản trong kế hoạch nhà nước năm 1983 và cho những năm
tới.
Tuy nhiên, do khó khăn lớn của
ngân sách nhà nước hiện nay thực tế trong kế hoạch các năm qua và dự kiến kế
hoạch năm 1983, mức đầu tư này còn ở tỷ lệ rất thấp, nếu so sánh với mức chỉ
tiêu cần đạt như Nghị quyết 37 của Bộ Chính trị đã nêu. Chúng tôi đề nghị
với các ngành, các cấp, trước hết, vận dụng các hình thức sáng tạo theo tinh
thần “Nhà nước và nhân dân cùng làm, Trung ương, địa phương và cơ sở cùng
làm” tìm nhiều hình thức phong phú và sáng tạo tăng thêm vốn và cơ sở vật
chất kỹ thuật cho công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Chúng
tôi đề nghị rằng, trong năm 1983 và những
năm tới, trong khuôn khổ những cải tiến mới mà Trung ương Đảng và Nhà nước
chủ trương về việc tăng cường mạnh mẽ quyền chủ động tài chính và sản xuất
- kinh doanh của cơ sở, quyền chủ động sáng tạo của các ngành, các địa
phương trong phát triển sản xuất và huy động các nguồn vốn tiềm tàng, các
ngành các địa phương và cơ sở cần dành một phần quan trọng nhất trong các
nguồn vốn “tự có” cho quỹ phát triển sản xuất, trong đó chủ yếu là đầu tư
cho việc ứng dụng tiến bộ mới về khoa học - kỹ thuật.
Một trong nguồn vốn quan trọng từ
phía hợp tác và giúp đỡ quốc tế, cũng như từ nhiệt tình đóng góp của đông
đảo kiều bào và trí thức yêu nước ở nước ngoài cũng còn chưa được khai thác
và tận dụng hợp lý vì thiếu những chủ trương cụ thể một cách thích hợp.
Bằng những cách nêu trên, chúng ta vẫn có khả năng phát triển công tác khoa
học - kỹ thuật, đưa công tác khoa học - kỹ thuật thực sự trở thành một trong
những biện pháp quan trọng nhất để phát triển sức sản xuất, đưa năng suất
lao động xã hội nước ta không ngừng tăng lên. Bằng những hình thức đó, ít
nhất là trong những năm trước mắt, chúng ta vẫn có thể có được sự đầu tư cần
thiết cho hàng loạt những phương hướng rất có triển vọng của các ngành kinh
tế - kỹ thuật có khả năng tổ chức thực hiện ở quy mô vừa và nhỏ (không cần
đầu tư lớn) song dễ đưa thành phong trào rộng rãi trong quần chúng (ví dụ,
việc tổ chức khai thác chế biến các nguồn nguyên liệu khoáng sản sẵn có
trong nước, làm thủy điện nhỏ và vừa, hệ thống chuồng và hố ủ phân khoa học,
vấn đề sử dụng xi măng lưới thép trong việc đóng tàu, sà lan và nhiều hướng
tương tự được vạch ra ở hầu khắp các ngành, các địa phương, v.v..). Đồng
thời bằng các cách đó, có thể dành một phần cần thiết trong số đầu tư của
ngân sách nhà nước cho một số công việc nghiên cứu có tính chất chuẩn bị cho
lâu dài.
Trong thời gian gần đây, nhiều cơ
sở nghiên cứu, trường học trong nước đã đưa ra được những điển hình tốt về
việc cần thiết áp dụng hạch toán kinh tế đối với công tác nghiên cứu
và nhất là đối với ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Đây
là cách làm cần được tổng kết phổ biến rộng rãi và quy định thành chính
sách. Cách làm này vừa có tác dụng là thước đo hiệu quả của một bộ phận quan
trọng các đề tài, chương trình và các viện nghiên cứu, vừa có thể tạo nên
thêm nguồn bổ sung vốn cho công tác nghiên cứu khoa học và kỹ thuật, vừa có
thể thực hiện một phần việc kích thích vật chất đối với cán bộ nghiên cứu
lấy ngay từ hiệu quả do công tác nghiên cứu khoa học và kỹ thuật đưa lại.
Mặt khác, khi sử dụng phương thức này cũng cần chống những mặt trái đã và
đang nẩy sinh. Cần tránh tình trạng để các viện nghiên cứu, các trường học,
các cán bộ khoa học - kỹ thuật bỏ việc chính theo việc phụ (vì thu nhập)
thậm chí phải đi làm những công việc không còn mang ý nghĩa nghiên cứu nữa.
Cần kiên quyết ngăn chặn hiện
tượng Nhà nước bị mất chất xám do có sự móc ngoặc của các tập đoàn, tổ hợp
sản xuất “ma” và của những cách làm ăn phi pháp khác”.
Vấn đề chất lượng sản phẩm từ lâu
vẫn là mặt yếu trong sản xuất của xã hội chúng ta và ngày càng trở nên cấp
bách hơn. Do buông lỏng nghiêm trọng về quản lý chất lượng sản phẩm xã hội,
bọn phá hoại, bọn trục lợi ngày càng tung ra thị trường rất nhiều hàng giả
kể cả thuốc chữa bệnh giả. Các xí nghiệp Nhà nước cũng có chiều hướng ngày
càng buông lỏng mặt quản lý chất lượng, hàng hỏng, hàng kém phẩm chất ngày
càng nhiều.
Chúng tôi đề nghị Nhà nước kiên
quyết cho chấm dứt tình trạng nói trên và phải trở lại với những chế độ
nghiêm ngặt về nghiệm thu và thưởng phạt thích đáng về chất lượng sản phẩm.
Ủy ban chúng tôi bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với những cố gắng gần đây của
Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, của một số ngành và địa phương trong
việc phát động trở lại một phong trào “chất lượng” trong sản xuất, trong đó
có hình thức cấp nhãn hiệu Nhà nước về sản phẩm có chất lượng cao. Đề nghị
các ngành lưu thông phân phối cần mạnh mẽ áp dụng đòn bẩy giá cả thích đáng
để khuyến khích phong trào này.
Cuối cùng, con người vẫn là yếu
tố quyết định. Vì vậy, các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
cán bộ khoa học và kỹ thuật vẫn là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt.
Chúng tôi xin lưu ý với Quốc hội và Ủy ban khoa học và kỹ thuật của Quốc hội
đã phát biểu chuyên đề này vào kỳ họp cuối năm 1981. Trong năm 1982, nhiều
vấn đề cấp thiết thuộc các mặt công tác này chưa có được những chuyển biến
đáng kể, chưa có được những cải tiến cụ thể của Nhà nước về các mặt nói
trên. Bên cạnh đó, do tình hình tiếp tục diễn biến theo chiều hướng xấu hơn
trên mặt trận lưu thông phân phối, tiền lương và đời sống của bộ đội, cán bộ
viên chức Nhà nước trong đó bao gồm tuyệt đại đa số cán bộ khoa học - kỹ
thuật rơi vào tình trạng hết sức khó khăn. Ủy ban khoa học và kỹ thuật của
Quốc hội mong rằng các ngành, các cấp sẽ làm hết sức mình với tinh thần khẩn
trương nhất trên lĩnh vực điều tiết hợp lý, phân phối xã hội theo các quyết
định mới đây của Trung ương và quyết nghị lần này của Quốc hội nhằm giúp cho
đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có thể vượt qua được các khó khăn rất lớn
trong đời sống hiện nay để họ có điều kiện góp phần xứng đáng cùng toàn dân
vượt lên thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch nhà
nước năm 1983 và các mục tiêu phấn đấu đến năm 1985. Trong khi chờ đợi việc
cải tiến tiền lương, đang khi áp dụng tạm thời các hình thức phụ cấp chung
cho cán bộ viên chức khu vực hành chính sự nghiệp và các lực lượng vũ trang,
chúng tôi đề nghị Nhà nước có sự quan tâm thích đáng hơn cho đội ngũ các nhà
khoa học - kỹ thuật có trình độ cao và đang có những đóng góp quan trọng.
Từ những điều trình bày trên đây,
Ủy ban khoa học và kỹ thuật của Quốc hội xin có một số kiến nghị sau đây:
Về mặt tổ
chức:
1. Đề nghị Hội đồng Bộ trưởng cho
nhanh chóng xây dựng và kiện toàn hệ thống các viện nghiên cứu kinh tế (cho
toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như ở các ngành và các địa phương).
2. Cho sắp xếp lại và tổ chức hệ
thống các trung tâm mạnh về thông tin, thí nghiệm, tính toán, đo lường theo
hướng liên ngành và vùng lãnh thổ trên cơ sở tập trung các cán bộ giỏi về
thiết bị tốt hiện có.
3. Khuyến khích và hướng dẫn các
hợp tác xã, tập đoàn, xí nghiệp xây dựng các bộ phận tiếp thu tiến bộ khoa
học - kỹ thuật một cách rộng rãi và theo những hình thức thích hợp.
4. Sớm giải quyết vấn đề hệ thống
quản lý nhà nước các công tác nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học xã hội.
Về mặt chính
sách cụ thể:
1. Ấn định tỷ lệ tăng đầu tư cho
công tác khoa học - kỹ thuật từng năm một sao cho sau một số năm nữa tỷ lệ
này đạt mức như Nghị quyết 37 đã ghi.
2. Có chính
sách khuyến khích các ngành, các địa phương các cơ sở tăng cường mức tự đầu
tư và sử dụng có hiệu quả quỹ phát triển sản xuất trong đó chú trọng thích
đáng đối với công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Đề
nghị cho phép hình thành quỹ phát triển sản xuất ở cấp Bộ, Tổng cục và tỉnh,
thành phố,
3. Có chính sách huy động sự đóng
góp của khu vực tập thể trong công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp vào việc
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật các mạng lưới trạm trại ứng dụng tiến bộ
khoa học - kỹ thuật. Có chính sách cho phép các cơ quan nghiên cứu được thu
lại một phần hiệu quả kinh tế của các công trình nghiên cứu đã được áp dụng
để tiếp tục phát triển công tác nghiên cứu.
4. Phát động lại một cách khẩn trương và mạnh mẽ một phong trào chất lượng
sản phẩm bằng mọi biện pháp và huy động sự tác động tích cực của cả hệ thống
chuyên chính vô sản vào mục tiêu này.
Kính thưa các đồng chí đại
biểu Quốc hội,
Ý thức được những khó khăn lớn mà
đất nước ta phải trải qua trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, vui mừng
trước những chuyển biến với nhiều nhân tố mới xuất hiện chỉ rõ sức sáng tạo
và bản lĩnh anh hùng của nhân dân ta, Ủy ban khoa học và kỹ thuật của Quốc
hội tin tưởng sâu sắc rằng đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật nước ta nhất
định sẽ cống hiến hết sức mình để góp phần xứng đáng thực hiện thắng lợi
những nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước năm 1983 và các mục tiêu phấn đấu đến
năm 1985 cũng như những mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng lần thứ V
đã chỉ ra cho những năm 1980.
Để giúp cho anh chị em làm được như vậy, Ủy ban chúng tôi mong được Quốc hội
chấp nhận và xem xét những đề nghị trên đây.
Lưu tại Trung
tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội