PHÁP LỆNH
BẢO VỆ TÀI LIỆU LƯU TRỮ QUỐC GIA
Tài liệu lưu
trữ quốc gia là di sản của dân tộc, có giá trị đặc biệt đối với việc xây dựng và
bảo vệ đất nước.
Để bảo vệ an toàn và sử dụng có hiệu quả tài liệu lưu trữ quốc gia;
Để đề cao trách
nhiệm và kỷ luật của các cơ quan Đảng và Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân đối với việc bảo vệ, quản lý và sử dụng tài liệu
lưu trữ quốc gia;
Căn cứ vào Điều
100 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Pháp lệnh này
quy định việc bảo vệ tài liệu lưu trữ quốc gia.
CHƯƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1.
Tài liệu lưu trữ quốc gia là tài liệu có giá trị về chính trị, quân sự, kinh tế,
văn hóa, giáo dục, xã hội, khoa học, kỹ thuật, được hình thành trong quá trình
hoạt động của các cơ quan Đảng và Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và
các nhân vật, trải qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc Việt Nam, phục vụ việc
nghiên cứu lịch sử, khoa học và công tác thực tiễn.
Tài liệu lưu trữ
quốc gia phải là bản chính của văn kiện hoặc tài liệu khác ghi trên giấy, phim,
ảnh, băng, đĩa ghi âm, hoặc bằng các phương pháp ghi tin khác; trong trường hợp
không còn bản chính mới được thay thế bằng bản sao có giá trị như bản chính.
Điều 2.
Tài liệu lưu trữ quốc gia thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước quản lý theo nguyên
tắc tập trung, thống nhất; không một cơ quan, tập thể hoặc cá nhân nào được
chiếm làm của riêng.
Nghiêm cấm việc
mua bán, trao đổi, cất giữ, tiêu hủy trái phép tài liệu lưu trữ quốc gia hoặc sử
dụng vào các mục đích trái với lợi ích của Nhà nước.
Điều 3.
Tài liệu riêng của các cá nhân, gia đình, giòng họ và tập thể có giá trị như nói
ở Điều 1 của Pháp lệnh này được Nhà nước đăng ký và bảo hộ, các cơ quan lưu trữ
hướng dẫn, giúp đỡ về mặt bảo quản.
Nhà nước khuyến
khích việc ký gửi, tặng tài liệu đó vào các cơ quan lưu trữ nhà nước, cấm chuyển
ra nước ngoài dưới mọi hình thức; trong trường hợp muốn bán thì chỉ được bán cho
cơ quan lưu trữ nhà nước.
Điều 4.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân
Việt Nam có nghĩa vụ bảo vệ các tài liệu lưu trữ quốc gia và chấp hành nghiêm
chỉnh mọi chế độ, quy định của Nhà nước về các tài liệu đó.
CHƯƠNG II
VIỆC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU LƯU TRỮ QUỐC GIA
Điều 5.
Tài liệu lưu trữ quốc gia phải được bảo quản trong các cơ quan lưu trữ nhà nước.
Căn cứ vào tính
chất, ý nghĩa của tài liệu lưu trữ quốc gia, Nhà nước phân cấp cho cơ quan lưu
trữ nhà nước Trung ương, địa phương hoặc chuyên ngành tập trung bảo quản.
Đối với những tài
liệu đặc biệt quý, hiếm, tuyệt mật, phải lập bản sao để bảo hiểm và phải được
bảo quản, sử dụng theo chế độ đặc biệt do Hội đồng Bộ trưởng quy định.
Điều 6.
Các cơ quan lưu trữ nhà nước, trong phạm vi được phân cấp quản lý, phải thực
hiện những biện pháp cần thiết để bảo đảm sự toàn vẹn của tài liệu lưu trữ quốc
gia.
Điều 7.
Thủ trưởng các ngành từ Trung ương đến cơ sở, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp,
trong phạm vi quyền hạn của mình, có trách nhiệm chỉ đạo việc tổ chức quản lý
tài liệu lưu trữ quốc gia.
Điều 8.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, trong quá trình
hoạt động, phải tổ chức công tác lập hồ sơ và lưu trữ hồ sơ trong cơ quan, đơn
vị; đến thời hạn nộp lưu thì phải nộp vào các cơ quan lưu trữ nhà nước theo quy
định của Hội đồng Bộ trưởng.
Điều 9.
Việc lựa chọn những tài liệu lưu trữ quốc gia để bảo quản và loại ra những tài
liệu hết giá trị để tiêu hủy phải do Hội đồng xác định giá trị tài liệu lưu trữ
quyết định, theo quy định của Hội đồng Bộ trưởng.
Điều 10.
Cấm mang tài liệu lưu trữ quốc gia ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, trừ trường hợp có
giấy phép của cơ quan được Hội đồng Bộ trưởng ủy nhiệm và chỉ được mang bản sao.
Điều 11.
Các cơ quan của Đảng và Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân được
sử dụng tài liệu lưu trữ quốc gia để phục vụ các nhu cầu công tác và nghiên cứu
khoa học.
Công dân Việt Nam
được sử dụng tài liệu lưu trữ quốc gia vào các nhu cầu chính đáng theo quy định
của Hội đồng Bộ trưởng.
Điều 12.
Việc sử dụng và công bố tài liệu lưu trữ quốc gia phải phục vụ đường lối, chính
sách và bảo đảm bí mật của Đảng và Nhà nước.
Chế độ sử dụng và
công bố tài liệu lưu trữ quốc gia do Hội đồng Bộ trưởng quy định.
Điều 13.
Người nước ngoài muốn nghiên cứu và sử dụng tài liệu lưu trữ quốc gia của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được Hội đồng Bộ trưởng cho phép.
CHƯƠNG III
CÁC CƠ QUAN LƯU TRỮ NHÀ NƯỚC
Điều 14.
Cơ quan lưu trữ nhà nước Trung ương thuộc Hội đồng Bộ trưởng có trách nhiệm quản
lý tập trung, thống nhất công tác lưu trữ; xây dựng các chế độ quản lý, chế độ
nghiệp vụ lưu trữ; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chế độ đó
trong cả nước; quản lý các cơ quan nghiên cứu khoa học lưu trữ, các cơ sở đào
tạo và bồi dưỡng cán bộ lưu trữ; trực tiếp quản lý các tài liệu lưu trữ có ý
nghĩa toàn quốc.
Điều 15.
Cơ quan lưu trữ ở các Bộ, Uỷ ban Nhà nước, cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ
trưởng, dưới sự chỉ đạo của thủ trưởng cơ quan, quản lý công tác và tài liệu lưu
trữ trong ngành và các đơn vị trực thuộc.
Cơ quan lưu trữ
thuộc Uỷ ban nhân dân các cấp, quản lý công tác lưu trữ và tài liệu lưu trữ
trong địa phương.
Điều 16.
Tổ chức, biên chế của các cơ quan lưu trữ nhà nước do Hội đồng Bộ trưởng quy
định.
CHƯƠNG IV
VIỆC KHEN THƯỞNG VÀ XỬ PHẠT
Điều 17.
Cơ quan, tập thể và cá nhân có thành tích trong việc bảo vệ tài liệu lưu trữ
quốc gia, phát hiện, nộp, tặng cho Cơ quan lưu trữ nhà nước những tài liệu có
giá trị thì được khen thưởng theo quy định của Nhà nước.
Điều 18.
Người nào vi phạm những điều quy định trong Pháp lệnh này thì tùy theo mức độ
nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc bị truy tố trước pháp
luật.
CHƯƠNG V
ĐIỀU KHOẢN CUỐI
CÙNG
Điều 19.
Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bị bãi bỏ.
Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết việc thi hành Pháp lệnh này.
Hà Nội, ngày 30
tháng 11 năm 1982
HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Chủ tịch
TRƯỜNG CHINH
Lưu tại Trung tâm
Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội