NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI
Mai Hồng Quỳ**
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh
Tại Đại hội IX, một lần nữa Đảng ta khẳng định quan điểm đã được đưa ra từ Đại hội VIII về việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Việc cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước có trọng tâm là làm rõ sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Việc nghiên cứu và phân tích nhằm làm rõ vị trí, tính chất, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, đưa ra những giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong điều kiện hiện nay, do vậy, là một nhu cầu rất cấp bách. Cũng tại văn kiện Đại hội IX, phương hướng đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội có trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, quyền quyết định các vấn đề lớn của quốc gia và thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Như vậy, có thể nói việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội phải tập trung nâng cao hiệu quả ba mặt hoạt động của Quốc hội là: lập pháp, ra những quyết định liên quan đến các vấn đề quan trọng của đất nước và hoạt động giám sát tối cao.
Khái niệm “chức năng” của Quốc hội
Trước hết, theo chúng tôi, cần phải làm rõ nội hàm của khái niệm chức năng của Quốc hội, để giải quyết về mặt lý luận, Quốc hội nước ta có những chức năng nào? Có sự khác biệt gì giữa chức năng của Quốc hội Việt Nam với Quốc hội các nước khác không? Trong khoa học pháp lý, khi nói đến chức năng của một cơ quan, tổ chức là nói đến các mặt hoạt động, các phương thức hoạt động; cách thức tác động của một cơ quan, tổ chức lên các quan hệ xã hội nhằm đạt được mục đích của cơ quan, tổ chức đó. Chức năng của một cơ quan, tổ chức quan hệ hữu cơ với tính chất, bản chất của cơ quan, tổ chức ấy. Bản chất của cơ quan, tổ chức là gì thì phương thức hoạt động cũng phải thích ứng, phù hợp. Nói một cách khác, chức năng của một cơ quan, tổ chức phản ánh bản chất, tính chất của cơ quan, tổ chức và ngược lại bản chất, tính chất của cơ quan, tổ chức quyết định phương thức hoạt động, chức năng của cơ quan, tổ chức đó. Tuy nhiên, đây là mối quan hệ hai chiều, nếu chức năng của cơ quan, tổ chức phù hợp, hiệu quả thì nó phản ánh đúng đắn và tác động tích cực lên bản chất của cơ quan, tổ chức.
Như vậy, chức năng của Quốc hội chính là các phương thức hoạt động, các mặt hoạt động, các phương thức tác động của Quốc hội.
Quốc hội nước ta là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, Quốc hội Việt Nam luôn được thừa nhận là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là nơi tập trung tất cả quyền lực nhà nước. Xuất phát từ vị trí là cơ quan đại diện của nhân dân, Quốc hội Việt Nam không phải là cơ quan lập pháp đơn thuần. Có thể nói, tính đại diện nhân dân, bản chất là cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước sẽ quyết định phương thức hoạt động của Quốc hội. Trong một thời gian dài ở nước ta, chỉ nói đến quyền lực nhà nước của Quốc hội mà không nói đến các quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp như nói đến các nhánh quyền lực nhà nước. Bởi vì, về mặt lý luận, Quốc hội Việt Nam không chỉ thực hiện hoạt động lập pháp mà còn thực hiện cả những hoạt động thuộc lĩnh vực hành pháp và tư pháp. Lý thuyết trên quyết định cách thức hoạt động của Quốc hội trong hệ thống cơ quan nhà nước nhưng đồng thời lại có thể dẫn đến những hình dung không chính xác về vị trí của cơ quan này. Quốc hội có thể bị hình dung như một cơ quan vạn năng, nơi giải quyết tất cả các vấn đề, là nơi thực hiện được quyền lực nhà nước một cách trực tiếp mà không cần thông qua bất cứ cơ quan, tổ chức nào khác. Một hình dung như vậy sẽ rất nguy hiểm. Đã có ý kiến chứng minh rằng, hiện nay, đôi khi chúng ta vẫn quan niệm rằng Chính phủ cũng chỉ là cơ quan hành chính của Quốc hội. Tình trạng này dẫn đến hiệu quả không cao của các hoạt động của Quốc hội và có thể làm sai lệch hoàn toàn bản chất của Quốc hội.
Thực tiễn phát triển của đất nước cho thấy, trong thời gian gần đây chúng ta đã có những nhận thức rất mới về vấn đề thực hiện quyền lực nhà nước, về chức năng, nhiệm vụ, về phân công, phân cấp của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước trung ương. Theo chúng tôi, cần xác định rất rõ chức năng chủ yếu của Quốc hội là chức năng lập pháp và chức năng giám sát để luật pháp do Quốc hội làm ra được thực thi trong thực tế. Quốc hội không thể làm thay công việc của Chính phủ, của Toà án và các cơ quan nhà nước khác. Ngay cả trong quá trình giám sát, Quốc hội cũng không thể đưa ra những văn bản thực hiện những hoạt động thuộc chức năng, thẩm quyền của Chính phủ và Toà án. Việc ra các quyết định liên quan đến các vấn đề quan trọng của đất nước, theo chúng tôi, không nằm ngoài chức năng lập pháp; vì tất cả các quyết định của Quốc hội về những vấn đề như vậy phải là luật.
Nâng cao hoạt động lập pháp
Phải nhìn nhận rằng, hiện nay, lý do chính làm cho hiệu quả thi hành luật không cao là do chất lượng của các văn bản luật đó. Các văn bản này khó thi hành vì phần lớn là “luật khung”. Bên cạnh đó, cơ chế giám sát của Quốc hội đối với việc thực thi luật pháp cũng chưa đầy đủ và đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Như vậy, vấn đề là cần phải nâng cao chất lượng của hoạt động lập pháp. Về vấn đề này, chúng tôi xin có một số ý kiến cụ thể sau:
Thứ nhất, Hoạt động làm luật cũng giống như mọi hoạt động khoa học khác, phải có sự thẩm định chéo, cần sự phản biện khoa học cũng như có sự đối chứng giữa nhiều quan điểm khác nhau.
Thứ hai, Chất lượng của sản phẩm lập pháp phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm lập pháp và chủ thể tiến hành lập pháp. Thực tế ở nước ta, cơ quan hành chính, cơ quan hành pháp được giao thực hiện các dự án luật. Chưa nói đến tính khoa học mà mới chỉ nói đến tính khách quan thì điều này đã không đạt. Nhưng trong thực tiễn, đây là một hiện tượng khách quan vì Quốc hội nước ta không phải là cơ quan làm luật chuyên trách. Quốc hội chỉ “làm luật” bằng hoạt động thẩm tra và thông qua dự án luật. Tuy vậy, hoạt động làm luật không chỉ tập trung vào Uỷ ban Pháp luật và sự thẩm tra không thể chỉ diễn ra trong hoặc trước các kỳ họp Quốc hội. Thực tế chứng minh rằng, khi dự án luật đã được soạn thảo thành chương, thành điều thì việc thẩm tra các dự án này chỉ đạt được kết quả là sửa câu, chữ, cách sắp xếp. Nhưng điểm quan trọng là quan điểm để làm dự án luật đó sẽ rất khó thay đổi. Do vậy, theo chúng tôi, Quốc hội không thể chỉ thẩm tra và thảo luận khi thông qua dự án luật mà phải tự mình soạn thảo các dự án luật đó. Tức là, Quốc hội phải thực hiện quyền lập pháp một cách trực tiếp.
Chúng tôi đề nghị thành lập các “Tiểu ban chuyên trách các dự án luật” cụ thể. Nghĩa là, mỗi văn bản pháp luật phải có một Tiểu ban chuyên trách để soạn thảo dự án luật tương ứng. Tiểu ban này có thành viên là các đại biểu Quốc hội thuộc các uỷ ban liên quan đến dự án luật và các đại biểu khác có chuyên môn về lĩnh vực này. Điều quan trọng là Tiểu ban không chỉ thẩm định các dự án luật mà phải chủ động soạn thảo các dự án luật, có quan điểm lập pháp hoàn toàn độc lập với quan điểm của các cơ quan của Chính phủ. Các dự thảo luật do Tiểu ban chuyên trách của Quốc hội soạn thảo được phản biện tại Ban soạn thảo luật của Chính phủ và ngược lại, Tiểu ban của Quốc hội phản biện dự thảo luật của Ban soạn thảo. Cơ chế này cho phép chúng ta có hai dự thảo văn bản luật về một lĩnh vực mà cách tiếp cận và quan điểm làm luật là hoàn toàn độc lập. Điều này là rất cần thiết nhằm bảo đảm tính chất khoa học của dự thảo luật. Uỷ ban của Quốc hội được giao trách nhiệm thẩm tra dự án luật sau đó sẽ thẩm tra một dự thảo đã là kết quả thương lượng, thoả thuận giữa hai cơ quan làm luật là Ban soạn thảo luật của Chính phủ và Tiểu ban soạn thảo dự án luật của Quốc hội. Trong cơ chế này, Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội đóng một vai trò rất quan trọng trong các Tiểu ban dự án luật và chịu trách nhiệm chính về kỹ thuật lập pháp.
Với cơ chế tổ chức một viện của Quốc hội nước ta và tính chất tập trung quyền lực nhà nước, việc giao cho các cơ quan của Chính phủ chủ trì các dự án luật là phù hợp. Nhưng chức năng lập pháp của Quốc hội không thể giao hoàn toàn cho Chính phủ. Xu hướng phát triển của Quốc hội cho thấy là: đã đến lúc, chính Quốc hội phải trực tiếp thực hiện chức năng lập pháp - chức năng chính của mình.
Cách tiếp cận như vậy cũng cho phép chúng ta có những biện pháp rất hữu hiệu để giải quyết việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật đã có hiệu lực. Thực tế hiện nay cho thấy, rất nhiều văn bản chứa đựng những điều khoản phải được sửa đổi, bổ sung nhanh chóng nhằm đáp ứng yêu cầu do thực tiễn đặt ra. Có những văn bản luật mà số lượng điều khoản cần sửa đổi không nhiều nhưng do quy trình sửa đổi luật lại như quy trình làm luật mới nên thời gian để thông qua những sửa đổi như vậy rất dài. Mặt khác, có những trường hợp, yêu cầu sửa đổi, bổ sung luật xuất phát từ Chính phủ và sự biện minh cho tính cần thiết của việc sửa đổi, bổ sung này cũng không hẳn có tính thuyết phục. Với việc thực hiện cơ chế này, khi có yêu cầu sửa đổi, bổ sung luật thì Tiểu ban chuyên trách của Quốc hội sẽ phải xem xét, đánh giá tính hiệu quả của các điều khoản để có được cách giải quyết biện chứng nhất; và, với cách thức này, các Tiểu ban chuyên trách của Quốc hội trực tiếp làm luật và sửa luật. Sau quá trình thương lượng, bàn bạc, khi các Tiểu ban chuyên trách của Quốc hội đã có ý kiến kết luận về việc sửa đổi luật, thì Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có thể ra quyết định về vấn đề này mà không cần thông qua tại phiên họp toàn thể của Quốc hội. Như vậy, vấn đề thời gian và tính thời sự, nhu cầu đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn mới có thể thực hiện được.
Hoạt động quyết định ngân sách nhà nước
Theo Điều 84, Hiến pháp năm 1992 và Điều 2 của Luật Tổ chức Quốc hội năm 1992 thì việc “quyết định dự toán ngân sách nhà nước” là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội về tài chính ngân sách nói chung. Theo chúng tôi, quyết định ngân sách là một hoạt động rất quan trọng, thể hiện rõ nét và trực tiếp nhất quyền lực nhà nước của Quốc hội. Ở các nhà nước thực hiện phân quyền thì cơ chế kiểm soát quyền lực quan trọng và gần như duy nhất (trong bối cảnh hoạt động bình thường của các quan chức - tổ chức của Nghị viện) giữa Nghị viện và Chính phủ. Thông qua hoạt động ngân sách, Nghị viện yêu cầu Chính phủ thực hiện những công việc, chỉ tiêu cụ thể. Có thể nói, hoạt động duyệt chi ngân sách và hoạt động ra những quyết định quan trọng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Thường chúng ta hiểu hoạt động duyệt ngân sách là một trong những hoạt động quyết định các vấn đề quan trọng của Quốc hội. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cho rằng, hai hoạt động này có sự độc lập tương đối. Quốc hội quyết định những chủ trương, chính sách quan trọng và kèm theo đó là một khoản chi ngân sách tương ứng. Có ý kiến cho rằng, đề nghị ngân sách bao giờ cũng xuất phát từ Chính phủ. Chúng tôi không phủ nhận điều này. Đó là những đề nghị với những mục chi rất cụ thể do Bộ Tài chính đề xuất. Nhưng, Quốc hội với vị trí, chức năng của mình có quyền và cần phải yêu cầu cụ thể đối với Chính phủ trong việc xây dựng những dự toán nhằm thực hiện những chủ trương, chính sách quan trọng liên hệ đến an ninh- quốc phòng, quốc kế dân sinh. Chẳng hạn, đối với chương trình chống lũ ở đồng bằng sông Cửu Long, chương trình nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số… Quốc hội hoàn toàn có thể đưa ra những quyết sách thể hiện đúng bản chất của Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Những vấn đề về chủ trương, chính sách lớn phải thể hiện được nguyện vọng của nhân dân, phải xuất phát từ nhân dân. Như vậy, có thể nói đến một cơ chế trong đó Uỷ ban Dân nguyện[1] đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện nguyện vọng, ý nguyện của nhân dân. Trên cơ sở đó, tập hợp, thẩm định các nguyện vọng của nhân dân, Uỷ ban Dân nguyện đề xuất đường lối, chủ trương trong những lĩnh vực cụ thể với những yêu cầu tổng quan về ngân sách. Trên cơ sở những yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ sẽ xây dựng dự toán ngân sách với những mục chi cụ thể.
Với ý nghĩa của hoạt động chi ngân sách, chúng tôi cho rằng, cần quy định thành một khoản độc lập trong Điều 2 và Điều 24, Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi). Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi) cần quy định chi tiết hơn về vấn đề này. Cụ thể là, trong khoản bổ sung này, cần quy định một số quyền hạn của Quốc hội trong việc đề ra các yêu cầu, đường lối, chủ trương để trên cơ sở đó Chính phủ làm ngân sách. Chúng tôi cũng thấy rằng, quyết định về ngân sách nhà nước phải được ban hành dưới hình thức văn bản luật mà không phải là nghị quyết. Phải thấy rằng, chỉ trừ trường hợp rất hãn hữu, các văn bản do Quốc hội ban hành nên là luật. Quyết định của Quốc hội về một chính sách chủ trương lớn, về bản chất là “quy định”, nó phải được cụ thể hoá, thực hiện bởi các tổ chức có liên quan ([2]).
Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội
Có thể nói, thực hiện quyền giám sát tối cao là một chức năng liên hệ chặt chẽ với chức năng lập pháp. Thực sự, đây là hai khía cạnh của một vấn đề, hai mặt của một sự việc. Pháp luật do Quốc hội ban hành phải có hiệu lực thực thi. Trong nhà nước pháp quyền, mọi cá nhân, tổ chức phải tuân theo pháp luật. Chỉ có như vậy, mục đích cuối cùng mới đạt được, bản chất của một cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của dân, do dân, vì dân mới thể hiện toàn diện. Tính hiệu quả của pháp luật trong một chừng mực nhất định phụ thuộc vào hiệu quả của hoạt động giám sát. Quan điểm của chúng ta phải rất rõ ràng: phát huy quyền làm chủ, giao quyền chủ động, nhà nước không can thiệp vào những công việc không cần thiết nhưng phải kèm theo một cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả.
Hiện nay, chức năng giám sát tối cao của Quốc hội cũng có một xuất phát điểm là nguyên tắc tập trung quyền lực. Có nghĩa là về mặt lý luận, Quốc hội Việt Nam cũng có thẩm quyền thực hiện quyền giám sát tối cao thông qua việc uỷ quyền cho các cơ quan, tổ chức thực hiện quyền hạn này. Trong thực tế, Quốc hội giao cho các cơ quan của Quốc hội như: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc hội... thực hiện một số quyền giám sát. Ngoài ra, chức năng giám sát cũng được giao cho Viện kiểm sát nhân dân - mà rất nhiều người lầm tưởng là một loại cơ quan tư pháp. Chính phủ cũng có quyền hạn và nhiệm vụ về việc bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội... (Điều 12 của Hiến pháp năm 1992). Các toà án thì giám sát hoạt động xét xử...
Thành lập Uỷ ban Giám sát
Như đã trình bày ở trên, hoạt động giám sát của Quốc hội hiện nay được thực hiện bởi nhiều cơ quan, tổ chức. Chúng tôi cho rằng, chính yếu tố này làm cho hoạt động giám sát không tập trung và còn mang tính manh mún, khó kiểm soát và do vậy không đạt được hiệu quả cần thiết. Trong giai đoạn hiện nay, việc thành lập Uỷ ban Giám sát của Quốc hội là một giải pháp phù hợp hơn cả. Uỷ ban Giám sát của Quốc hội có thể trực tiếp thực hiện quyền giám sát tối cao một cách tập trung hơn. Cùng với Uỷ ban Dân nguyện, Uỷ ban Pháp luật... Uỷ ban Giám sát sẽ kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc ban hành các văn bản pháp luật phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, cũng như giám sát tính hợp pháp của các hành vi, các hoạt động của các viên chức nhà nước. Ý tưởng mà chúng tôi thấy cần nhấn mạnh là: Uỷ ban Giám sát cũng có chức năng, nhiệm vụ giám sát hoạt động của chính các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội. Việc giám sát này là rất cần thiết. Tuy nhiên, khi xây dựng Quy chế hoạt động của Uỷ ban Giám sát cũng như của các Uỷ ban khác của Quốc hội, cần phải lưu ý một số điểm sau đây:
Về hoạt động giám sát của các uỷ ban
Các Uỷ ban của Quốc hội là các cơ quan của Quốc hội mà chức năng chủ yếu của chúng vẫn là giúp Quốc hội thực hiện quyền lập pháp. Các Uỷ ban của Quốc hội không có chức năng thực hiện các công việc thuộc quyền hành pháp và tư pháp. Hiện nay, có ý kiến cho rằng, các Uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội chỉ làm công việc chuyển đơn thư mà không giải quyết được việc cụ thể nào. Về những vấn đề này, cần nói rõ là: như chúng tôi đã trình bày, các Uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội không thể trực tiếp ra quyết định về những vụ việc cụ thể là do xuất phát từ bản chất, vị trí, chức năng của Quốc hội. Tuy nhiên, do Quốc hội là cơ quan đại diện của dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nên các ý kiến, kết luận của các Uỷ ban của Quốc hội, các đề xuất của các đại biểu Quốc hội trong lĩnh vực giám sát tối cao phải có hiệu lực thi hành. Do vậy, chúng tôi đề nghị: trong những trường hợp cụ thể, nếu các Uỷ ban của Quốc hội đã có kết luận về hành vi trái pháp luật của những cá nhân hoặc văn bản do các cơ quan nhà nước ban hành trái Hiến pháp, pháp luật thì hành vi đó, văn bản đó phải bị đình chỉ hiệu lực ngay. Trong một thời gian nhất định, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải giải trình và có kết luận xử lý đối với những hành vi, sự việc mà các Uỷ ban của Quốc hội đã có kết luận. Thực tiễn này được áp dụng rất phổ biến ở các nước. Nó vừa bảo đảm được hiệu lực của các ý kiến của Quốc hội, vừa đảm bảo chính xác bản chất của cơ quan Quốc hội.
Hoạt động giám sát qua Toà hành chính
Tuy nhiên, theo chúng tôi, trong tương lai, cơ chế giám sát tối cao của Quốc hội cần phải được xây dựng một cách hoàn thiện hơn. Hiện nay, thực tế ở Việt Nam đã tồn tại các toà hành chính trong hệ thống Toà án nhân dân. Các toà hành chính có chức năng xét xử các khiếu kiện của công dân về các hành vi vi phạm pháp luật của các viên chức, công chức nhà nước, về sự vi hiến của các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mặc dù, hiện nay số lượng các vụ kiện được xét xử ở các toà hành chính không nhiều, nhưng đây là cơ chế cần thiết và thích hợp. Theo đánh giá trong báo cáo công tác ngành toà án năm 2000 thì các khiếu kiện trong lĩnh vực hành chính xảy ra rất nhiều trong cuộc sống, nhiều khi trở thành vấn đề thời sự sôi động trong cả nước, nhưng các đơn khởi kiện tại toà án không nhiều và số án hành chính toà án đã thụ lý cũng còn rất ít trong thực tế[3]. Cụ thể là, trong năm 2000, toà án các cấp đã thụ lý 419 vụ (tăng 67 vụ so với năm 1999). Về tương lai, khi trình độ dân trí của ta nâng lên, kiến thức pháp luật được phổ biến rộng rãi, người dân thực hiện các quyền công dân của mình một cách triệt để thì hệ thống các toà hành chính sẽ phát huy hiệu quả.
Giám sát của cơ quan bảo hiến
Với cơ chế tập trung quyền lực của Nhà nước ta, chúng tôi cho rằng, rất cần một cơ quan thực hiện quyền giám sát một cách độc lập, có thể tự mình phát hiện và xử lý các trường hợp ban hành văn bản pháp luật trái Hiến pháp, pháp luật. Cơ quan này phải có vị trí độc lập, có chức năng, thẩm quyền do Quốc hội quy định, có khả năng phán xét một cách khách quan về tính hợp hiến của các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước trung ương ban hành cũng như các hành vi, hoạt động của các viên chức cấp cao của Quốc hội và Chính phủ. Trong lịch sử lập hiến của các nước xã hội chủ nghĩa, chế định toà án hiến pháp, hội đồng hiến pháp không phải là xa lạ. Có thể nói rằng, không chỉ có nhà nước tư bản mới biết đến chế định này. Toà án Hiến pháp của Nam Tư (cũ) ngoài chức năng thực hiện quyền giám sát về việc tuân thủ hiến pháp và pháp luật còn có nhiệm vụ rất quan trọng là hỗ trợ việc hoàn thiện pháp luật. Toà án Hiến pháp trình trước Quốc hội các đề xuất và kết luận về các dự án luật cũng như các biện pháp bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 376, Hiến pháp Cộng hoà Liên bang Nam Tư). Năm 1992, Toà án Hiến pháp cũng được thành lập ở Ba Lan. Theo Điều 4 của Luật sửa đổi Hiến pháp Ba Lan (tháng 3/1982), Uỷ ban giám sát tối cao của Quốc hội được đổi tên thành Hội đồng Hiến pháp.
Điểm đặc biệt của các Toà án Hiến pháp và Hội đồng Hiến pháp so với Uỷ ban Giám sát của Quốc hội là vị thế độc lập tương đối của nó, quy chế bầu các thẩm phán, địa vị pháp lý của các thẩm phán và quy chế hoạt động của các cơ quan này. Tuy được gọi là Toà án Hiến pháp nhưng cơ quan này cũng có nơi mang tính chất của một cơ quan tư vấn tối cao và là một “kênh” thẩm định các dự án luật rất đáng tin cậy. Phương hướng thành lập Toà án Hiến pháp của Việt Nam trong tương lai, theo tôi là thích hợp và cần được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng./.
[1] Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XI có Nghị quyết 370/2003/NQ-UBTVQH11, ngày 17/3/2003, thành lập Ban Dân nguyện là cơ quan chuyên thuộc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (BBT).
[2] Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001, thay thế Luật Tổ chức Quốc hội năm 1992. Theo Khoản 4, Điều 2 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001: Quốc hội “Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế” (BBT).
[3] Báo cáo công tác ngành toà án năm 2000 và phương hướng, nhiệm vụ công tác toà án năm 2001, tr. 56.