PHÂN BIỆT GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
Nguyễn Đình Quyền**
Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật,
Văn phòng Quốc hội
Việc bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất trong cả nước thuộc trách nhiệm của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Các hoạt động kiểm tra, kiểm sát, giám đốc có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo đảm tính đúng đắn, có hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan, công chức nhà nước, tôn trọng và phát huy quyền dân chủ của công dân. Các hoạt động này do nhiều cơ quan nhà nước có vị trí, vai trò khác nhau tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan do luật định, nhưng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước thuộc chức năng riêng có của Quốc hội, mang tính quyền lực nhà nước do nhân dân trực tiếp giao.
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, bên cạnh thành tựu, kết quả đạt được trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và ngoại giao, tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước cũng đã bộc lộ một số hạn chế, tồn tại cần được khắc phục, đó là biên chế, tổ chức bộ máy cồng kềnh, thủ tục hành chính nặng nề, phiền hà, hiệu lực và hiệu quả hoạt động còn thấp, chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, mối quan hệ giữa một số cơ quan còn chưa rõ, trùng lặp. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương tiến hành công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và chính quyền địa phương, phúc đáp yêu cầu của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước. Các hoạt động kiểm tra, kiểm sát, giám sát, giám đốc là một trong những hoạt động quan trọng cần được đổi mới để thực hiện nhiệm vụ này. Do đó, về mặt khoa học, xuất phát từ nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước cũng cần nghiên cứu đầy đủ và kỹ lưỡng hơn về lý luận cũng như thực tiễn hoạt động giám sát, một chức năng quan trọng của Quốc hội.
1. Về tính chất quyền giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp
Trước hết phải khẳng định giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp là giám sát mang tính chất quyền lực nhà nước, quyền lực do nhân dân giao cho Quốc hội thông qua chế độ bầu cử trực tiếp và hiến định. Quyền lực đó mang tính tối cao, được bắt nguồn từ vị trí của Quốc hội trong bộ máy Nhà nước mà Hiến pháp quy định "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
Về đối tượng chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội là những cơ quan tư pháp có vị trí pháp lý cao nhất, đó là Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tuy nhiên, là cơ quan có chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, nên phạm vi đối tượng giám sát của Quốc hội không chỉ duy nhất bó hẹp đối với các cơ quan tư pháp này (mặc dù đây là các cơ quan chịu sự giám sát trực tiếp và chủ yếu) mà còn có thể đối với bất kỳ toà án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án ở cấp nào khi xét thấy cần thiết trong việc làm rõ trách nhiệm của những người đứng đầu các cơ quan tư pháp ở cấp cao nhất.
Thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp không có nghĩa Quốc hội can thiệp trực tiếp vào hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, vào các bản án của Toà án, quyết định của thủ trưởng cơ quan điều tra, cơ quan công tố, cơ quan thi hành án mà nội dung của quyền giám sát là theo dõi, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp đối với các văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; xử lý những người có hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động tư pháp bằng việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức vụ cao nhất, người đứng đầu các cơ quan tư pháp; bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và ra nghị quyết khi xét thấy cần thiết.
Giám sát tối cao của Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp là giám sát mang tính chất vĩ mô để hoạch định chính sách phù hợp với vị trí, tính chất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Trên thực tế, Quốc hội thường tổ chức các Đoàn công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Uỷ ban pháp luật của Quốc hội để tiến hành giám sát trực tiếp ở một số cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án, cơ quan thi hành án đối với một số vụ việc cụ thể. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, hoạt động giám sát trực tiếp của các Đoàn không can thiệp vào hoạt động, việc giải quyết các vụ án của cơ quan tư pháp, không ra quyết định để huỷ bản án của toà án này, đình chỉ hoặc bãi bỏ quyết định của thủ trưởng cơ quan điều tra, cơ quan công tố, cơ quan thi hành án kia mà trên cơ sở hoạt động của các Đoàn ở cơ sở để Quốc hội xác định chất lượng hoạt động, trách nhiệm của những người đứng đầu các cơ quan tư pháp trong việc thi hành, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án..., đồng thời, có những căn cứ thực tiễn trong việc hoạch định các chính sách cho phù hợp với yêu cầu mà thực tế cuộc sống đặt ra. Trong trường hợp thấy có sai lầm trong hoạt động, nhất là trong việc giải quyết các vụ án thì kiến nghị, yêu cầu các cơ quan tư pháp hữu quan chỉ đạo, xem xét giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
2. Phân biệt giữa giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án của Viện kiểm sát và chức năng giám đốc của Toà án nhân dân tối cao đối với Toà án nhân dân các cấp
Hoạt động giám sát, kiểm sát, giám đốc thuộc trách nhiệm của nhiều cơ quan trong việc bảo đảm và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy có chung mục đích như vậy, song mỗi hoạt động đều mang nội dung, tính chất đặc thù riêng về chủ thể, phạm vi, đối tượng, phương thức và hậu quả pháp lý, đồng thời lại bao gồm các yếu tố có quan hệ và tác động qua lại với nhau. Do vậy, việc nghiên cứu để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hoạt động này, không thể tách rời việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động khác. Với cách đặt vấn đề như vậy, chúng tôi cho rằng việc làm rõ về nội dung, tính chất của mỗi hoạt động giám sát, kiểm sát, giám đốc là một vấn đề có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn, tránh trùng lặp làm thay hoặc bỏ trống đối tượng không ai chịu trách nhiệm.
2.1. Về mặt chủ thể thực hiện quyền giám sát, kiểm sát và giám đốc
- Xuất phát từ vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín và nguyên tắc tập trung, thống nhất quyền lực nhà nước, có thể khẳng định rằng, Quốc hội là cơ quan duy nhất thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Đó là quyền chủ thể riêng có của Quốc hội. Tuy nhiên, hiểu Quốc hội theo quy định của Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước phải bao gồm tất cả các bộ phận cấu thành của nó được tổ chức thành một thiết chế bộ máy hoàn chỉnh. Do đó, hoạt động giám sát tối cao đối với hoạt động tư pháp phải bao gồm hoạt động giám sát của Quốc hội tại kỳ họp, hoạt động của UBTVQH, Uỷ ban pháp luật của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Tất cả các hoạt động này tạo nên một phạm vi khá bao quát khái niệm về Quốc hội với tính chất là chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Có ý kiến nghiên cứu cho rằng, Quốc hội thực hiện quyền giám sát bằng hai cách: trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp chính là hoạt động của Quốc hội, còn gián tiếp là thông qua hoạt động của một số cơ quan nhà nước bằng cách thành lập, giao chức năng giám sát và quyền hạn tương ứng cho các cơ quan này như giao cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao thực hiện các hoạt động kiểm tra việc tuân theo pháp luật và giám đốc xét xử. Nếu theo quan niệm như vậy thì ở phương diện nào đó, các cơ quan tư pháp cũng thực hiện các hoạt động giám sát do Quốc hội giao bằng cách quy định trong các đạo luật. Theo chúng tôi, quan niệm như vậy là chưa thoả đáng, dễ dẫn tới trùng lặp hoặc làm thay đổi trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, vì đây là các cơ quan nhà nước có vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nguyên tắc tổ chức hoạt động rất khác nhau.
Hiểu Quốc hội là chủ thể duy nhất thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước không thể tách rời các bộ phận cấu thành trong một chỉnh thể thống nhất, đó là các cơ quan của Quốc hội, từng đại biểu Quốc hội. Tính cao nhất ở đây thể hiện ở hậu quả pháp lý cao nhất mà Quốc hội thực hiện đối với các cơ quan tư pháp, người đứng đầu các cơ quan tư pháp có vị trí pháp lý cao nhất trong bộ máy theo từng hệ thống, đó là Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Nếu tách rời hoạt động giám sát của UBTVQH, Uỷ ban pháp luật của Quốc hội, đại biểu Quốc hội thì hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đối với các cơ quan tư pháp tại kỳ họp sẽ thiếu cơ sở thực tiễn và căn cứ pháp luật.
- Theo quy định tại Điều 137 của Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1992 thì viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố nhà nước nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong lĩnh vực tư pháp, bên cạnh chức năng thực hiện quyền công tố, viện kiểm sát nhân dân còn có nhiệm vụ tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Chủ thể thực hiện quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất dưới sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người đứng đầu cơ quan thực hiện quyền kiểm sát hoạt động tư pháp do Quốc hội bầu, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, UBTVQH.
Như vậy, chủ thể thực hiện quyền kiểm sát trong hoạt động tư pháp là một cơ quan tư pháp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội và là đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội.
- Với vị trí là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Toà án nhân dân tối cao thực hiện chức năng giám đốc việc xét xử của toà án địa phương và các toà án quân sự; giám đốc hoạt động của toà án đặc biệt và toà án khác trừ các trường hợp Quốc hội quy định khác khi thành lập Toà án đó. Như vậy, chủ thể thực hiện quyền giám đốc là một cơ quan tư pháp, người đứng đầu là Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội và là đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội, sự kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Mối quan hệ giữa chủ thể thực hiện quyền giám đốc với đối tượng chịu sự giám sát là mối quan hệ về tố tụng.
2.2. Về phạm vi đối tượng chịu sự giám sát, kiểm sát và giám đốc
Về mặt chủ thể thì Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao là các đối tượng chịu sự giám sát trực tiếp nhất của Quốc hội. Tuy nhiên, khi xét thấy cần thiết Quốc hội có quyền giám sát đối với bất kỳ hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Hiến pháp không hạn chế quyền này của Quốc hội. Do đó, mọi hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án của các cơ quan tư pháp đều chịu sự giám sát của Quốc hội và các cơ quan này đều có thể trở thành đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội.
Có ý kiến nghiên cứu cho rằng, khi Quốc hội đã giao cho Viện kiểm sát nhân dân chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, giao cho Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của toà án nhân dân các cấp thì đối tượng chịu sự kiểm sát và giám đốc không còn là đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội. Theo tôi, quan niệm như vậy là chưa phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, theo đó đối tượng chịu sự kiểm sát, giám đốc, chủ thể thực hiện quyền kiểm sát, giám đốc là đối tượng giám sát của Quốc hội.
Việc xác định cụ thể đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định phạm vi và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, nhất là giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp. Vì mỗi đối tượng chịu sự giám sát có vị trí pháp lý, cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, do vậy, khi Quốc hội thực hiện quyền giám sát sẽ phát sinh trách nhiệm và hậu quả pháp lý khác nhau đối với từng đối tượng chịu sự giám sát. Đây là cơ sở để Quốc hội xem xét, đánh giá chất lượng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát, đồng thời là căn cứ để chính Quốc hội đánh giá chất lượng hoạt động của mình.
Đối tượng chịu sự kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tư pháp
Hoạt động của các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án, cơ quan thi hành án ở các cấp trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đều là đối tượng chịu sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật do viện kiểm sát nhân dân tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ do luật định. Mối quan hệ giữa chủ thể thực hiện quyền kiểm sát và chịu sự kiểm sát là mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp, mối quan hệ về mặt tố tụng trong việc giải quyết các vụ án ở tất cả các giai đoạn từ khởi tố, khởi kiện, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Đây là các mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp và chủ yếu là quan hệ về mặt tố tụng.
Đối tượng chịu sự giám đốc của Toà án nhân dân tối cao
Theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức toà án nhân dân thì đối tượng chịu giám đốc của Toà án nhân dân tối cao là toà án nhân dân các cấp, các toà án quân sự, trong một số trường hợp còn là toà án đặc biệt, toà án khác (trừ trường hợp Quốc hội có quy định khác khi thành lập). Đặc điểm quan hệ giữa đối tượng chịu sự giám đốc và cơ quan thực hiện quyền giám đốc tuy cùng nằm trong hệ thống tổ chức toà án nhân dân song lại không có mối quan hệ về quản lý hành chính, cấp trên cấp dưới (các toà án nhân dân địa phương chịu sự quản lý về mặt tổ chức của Bộ Tư pháp). Hoạt động xét xử bao gồm thẩm phán và hội thẩm thuộc các toà án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không chịu sự chỉ đạo, ràng buộc của Chánh án hoặc bất kỳ cơ quan quản lý nào. Do đó, chỉ phát sinh mối quan hệ giữa Toà án nhân dân tối cao là cơ quan thực hiện quyền giám đốc và đối tượng chịu sự giám đốc là toà án nhân dân các cấp, toà án quân sự về mặt tố tụng và về việc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
2.3. Về phương thức thực hiện quyền giám sát, kiểm sát, giám đốc
Về phương thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội
- Đại biểu Quốc hội chất vấn Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại các kỳ họp Quốc hội;
- Quốc hội, UBTVQH, Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội giám sát tính hợp hiến, hợp pháp đối với các văn bản quy phạm pháp luật của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Xét báo cáo của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại các kỳ họp Quốc hội;
- Tổ chức các Đoàn giám sát của UBTVQH, Uỷ ban pháp luật tiến hành giám sát trực tiếp việc thi hành và áp dụng pháp luật của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, thi hành án ở các cấp trong việc giải quyết các vụ án cụ thể.
Về phương thức thực hiện quyền kiểm sát trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án của Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện kiểm sát trực tiếp việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Khi thực hiện phương thức kiểm sát này, viện kiểm sát với tư cách là người tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng trong việc giải quyết các vụ án ở các giai đoạn và sử dụng các nhiệm vụ, quyền hạn do luật định để can thiệp trực tiếp vào việc giải quyết các vụ án, chẳng hạn viện kiểm sát nhân dân có thể phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn, hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra...
Về phương thức thực hiện quyền giám đốc của Toà án nhân dân tối cao
Phương pháp thực hiện quyền giám đốc của Toà án nhân dân tối cao là kiểm tra, xem xét hiệu lực, tính có căn cứ pháp luật, tính hợp pháp của các bản án, quyết định của toà án nhân dân các cấp để tiến hành kháng nghị và xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm. Nếu như quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của viện kiểm sát có thể tác động trực tiếp đối với việc giải quyết các vụ án trong các giai đoạn tố tụng, thì hoạt động giám đốc của Toà án nhân dân tối cao chỉ ở giai đoạn xét xử của toà án nhân dân các cấp.
2.4. Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát, kiểm sát, giám đốc
Hậu quả giám sát tối cao của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp
- Trong việc xem xét trách nhiệm, việc chấp hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội của những người đứng đầu các cơ quan tư pháp như Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Quốc hội có quyền ra nghị quyết để miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh đó;
- Trong việc giám sát văn bản có quyền đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ, huỷ bỏ các văn bản của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi các văn bản này trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh và nghị quyết của UBTVQH;
- Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp có quyền kiến nghị yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi trái pháp luật.
Như vậy, hậu quả pháp lý hay còn gọi là chế tài của hoạt động giám sát của Quốc hội được trực tiếp áp dụng đối với những người đứng đầu, các cơ quan tư pháp có vị trí pháp lý cao nhất. Còn đối với các cơ quan tư pháp khác thì chế tài không được trực tiếp áp dụng mà thông qua các kiến nghị, yêu cầu đối với các cơ quan tư pháp hữu quan để các cơ quan này có trách nhiệm xem xét thực hiện, khi cần thiết phải áp dụng các biện pháp do luật định, kể cả việc áp dụng các chế tài để thực hiện các yêu cầu, kiến nghị đó. Việc quy định hậu quả pháp lý trong hoạt động giám sát của Quốc hội như vậy là xuất phát từ nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, tránh được sự chồng chéo về chức năng giám sát giữa Quốc hội và các cơ quan nhà nước khác, nhất là với các hoạt động kiểm sát, giám đốc.
Hậu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp
- Trong công tác kiểm sát điều tra: phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra: phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn, huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra; yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra...
- Trong công tác kiểm sát xét xử: kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của toà án nhân dân theo quy định của pháp luật; yêu cầu toà án nhân dân cùng cấp áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật, kiến nghị với toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới khắc phục những vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử.
- Trong công tác kiểm sát thi hành án: kháng nghị, yêu cầu toà án nhân dân, cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp cần thiết bảo đảm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời.
Hậu quả giám đốc của Toà án nhân dân tối cao đối với toà án nhân dân các cấp
- Kháng nghị các bản án, quyết định đã có hiệu lực của toà án nhân dân các cấp để xét xử lại theo trình tự giám đốc thẩm;
- Trong việc xét xử theo trình tự giám đốc thẩm, Toà án nhân dân tối cao có quyền cải, sửa, huỷ bỏ toàn bộ hay một phần các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, giao lại cho toà án nhân dân các cấp giải quyết hoặc ra phán quyết trong những trường hợp do luật định.
Với trình bày trên đây cho thấy, hoạt động giám sát, kiểm tra, giám đốc có tính chất và nội dung rất khác nhau. Do đó, có thể khẳng định rằng: về lý luận cũng như trên thực tế, chưa bao giờ Quốc hội giao việc thực hiện chức năng giám sát, nhất là giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp cho các cơ quan nhà nước khác thực hiện./.