MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ ĐỔI MỚI
QUY TRÌNH LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI
TS. Ngô Đức Mạnh**
Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin- Thư viện và Nghiên cứu khoa học,
Văn phòng Quốc hội
Vừa qua, Hội nghị lần thứ Bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã tập trung bàn về công tác kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị ở nước ta[1]. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác lập pháp của Quốc hội hiện nay, theo tinh thần của Nghị quyết là “đổi mới quy trình chuẩn bị và thông qua các dự án luật tại kỳ họp Quốc hội”. Điều này đã nói lên được mức độ, tính thời sự, cấp bách, “độ chín” của vấn đề cả về mặt lý luận và thực tiễn, không chỉ dừng lại ở suy nghĩ của các luật gia[2], của các đại biểu Quốc hội[3], mà đã trở thành một trong những nội dung quan trọng và chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước.
Để có thể hình dung được nội hàm của việc đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, trước hết, thử nhìn lại “đầu vào” của quy trình hiện nay. Thứ nhất, đó là việc soạn thảo và trình các dự án. Điểm mới so với trước đây là Hiến pháp 1992 đã mở rộng các chủ thể có quyền sáng kiến lập pháp[4], tính chung có đến 15 tổ chức và cá nhân có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội[5], riêng đại biểu Quốc hội có thêm quyền trình kiến nghị về luật[6]. Điểm thứ hai, đặc điểm nổi bật trong hoạt động lập pháp ở nước ta là việc soạn thảo và trình các dự án luật, pháp lệnh được tiến hành theo kế hoạch và đã trở thành một trong những nhiệm vụ cụ thể của Quốc hội: Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh[7]. Có thể nói, xây dựng pháp luật theo kế hoạch đã có bước kiện toàn và phát triển đáng kể từ năm 1981, khi lần đầu tiên, Danh mục soạn thảo các luật (bộ luật), pháp lệnh được Hội đồng Nhà nước ban hành. Hiện nay, Quốc hội thông qua Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và cho những năm tiếp theo. Trong năm 2000 này, chưa kể việc cho ý kiến một số nội dung về tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992 cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và quyết định thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp, theo Chương trình, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua 8 dự án luật và thảo luận, cho ý kiến về 5 dự án. Điểm thứ ba của quy trình đầu vào là việc soạn thảo và trình các dự án luật, pháp lệnh cũng như trước đây, vẫn là trách nhiệm chính của Chính phủ. Căn cứ vào Bản phân công cơ quan soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khoá X kèm theo Nghị quyết số 76/1999 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khoá X, chúng ta thấy sự tham gia đông đảo của các bộ, ngành có liên quan. Trong tổng số 7 cơ quan đầu mối để trình 42 dự án thuộc chương trình chính thức và dự bị, gồm Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Hội luật gia Việt nam, thì đã có đến 37 bộ, cơ quan thuộc Chính phủ chịu trách nhiệm chuẩn bị 29 dự án luật, pháp lệnh.
Còn ở “đầu ra”, tính về số lượng, trong nhiệm kỳ khoá IX (1992-1997) vừa qua, Quốc hội đã ban hành 36 dự án luật, bộ luật và có 43 pháp lệnh đã được thông qua. Điều này đã nói lên được kết quả hoạt động lập pháp của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thể hiện “sự cố gắng lớn của Quốc hội khoá IX, góp phần khẳng định vai trò của Quốc hội trong công tác lập pháp”[8]. Không chỉ tăng về số lượng, mà điều quan trọng hơn cả chính là nội dung của các văn bản đã ban hành, là “các luật, pháp lệnh được thông qua đều bảo đảm quan điểm cơ bản, đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Một hệ thống pháp luật phục vụ cho yêu cầu đổi mới được hình thành, đã và đang phát huy tác dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ đa dạng của đời sống kinh tế-xã hội trên đất nước ta”[9].
Tuy vậy, có một thực tế là quy trình xây dựng và ban hành các văn bản luật, pháp lệnh còn chưa theo kịp yêu cầu công tác xây dựng pháp luật phục vụ sự nghiệp đổi mới như Nghị quyết của Hội nghị trung ương đã nêu. Nhìn vào tiến độ thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh thì chưa năm nào hoàn thành Chương trình đã đề ra và còn chậm rất nhiều so với kế hoạch. Lấy ví dụ, dự án Bộ luật Hình sự (sửa đổi) được đưa vào Chương trình chính thức của Quốc hội từ năm 1995, nhưng mới được thông qua toàn văn vào kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá X, năm 1999 vừa qua. Cũng thuộc Chương trình xây dựng chính thức từ năm 1995, nhưng đến nay dự án Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) vẫn đang trong quá trình chuẩn bị để trình Quốc hội xem xét, thông qua vào kỳ họp tháng 4/2000 này. Với tốc độ làm luật như hiện nay, “có lẽ phải trong nhiều thập kỷ nữa chúng ta mới có được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ”[10]. Và trong quá trình thảo luận dự án luật tại kỳ họp đã xảy ra tình trạng “làm văn tập thể” như ý kiến nhận xét của nhiều người...[11].
Từ những nét chung, khái quát trên đây về quy trình xây dựng và ban hành các văn bản luật, pháp lệnh cho chúng ta thấy mức độ cấp thiết, tính phức tạp và mối quan hệ đan xen của vấn đề. Thứ nhất, trong quy trình xây dựng và thông qua luật, pháp lệnh có sự tham gia của rất nhiều cơ quan từ Chính phủ, các bộ, ngành đến các Uỷ ban của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và toàn thể Quốc hội tại kỳ họp. Như vậy, giải pháp đầu tiên cho vấn đề này, thiết nghĩ, phải là một giải pháp tổng thể, có định hướng dưới sự lãnh đạo của Đảng để phát huy đầy đủ sức mạnh tổng thể của tất cả các cơ quan trong quá trình soạn thảo, xây dựng luật, pháp lệnh.
Bên cạnh đó, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta theo nguyên tắc tập quyền, tất cả quyền lực tập trung vào Quốc hội- cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, trên cơ sở phân công, phân nhiệm và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước. Đồng thời, Hiến pháp- đạo luật cơ bản cao nhất của nhà nước đã quy định những thẩm quyền rất cụ thể của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong việc thẩm tra, cho ý kiến và thông qua các dự án luật, pháp lệnh. Vì vậy, nói đến việc đổi mới quy trình lập pháp, không thể không nói đến việc kiện toàn, đổi mới tổ chức và hoạt động Quốc hội - “cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”, của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong việc thẩm tra, cho ý kiến về các dự án luật, pháp lệnh.
Từ những suy nghĩ, cách đặt vấn đề như vậy cho chúng ta thấy phạm vi và nội hàm của công việc đổi mới quy trình xây dựng và thông qua các văn bản luật, pháp lệnh. Phân tích tiếp theo cho chúng ta suy nghĩ là phải làm rõ “dấu ấn” của từng công đoạn và tính kết nối của vấn đề trong quá trình hình thành, xây dựng và thể hiện chính sách thành dự án luật, pháp lệnh cụ thể.
Nói cách khác, cả quy trình chỉ vận hành thông suốt khi từng công đoạn cùng nhịp và liên kết với nhau. Mặt khác, lại phải rõ thành phẩm của mỗi bước. Vậy cái gì là “sợi chỉ đỏ” liên kết các khâu, các công đoạn lại với nhau? Thiết nghĩ đó là chính sách pháp luật cụ thể về phạm vi điều chỉnh của dự án và kỹ thuật lập pháp thể hiện thống nhất. Nói cách khác, dự án luật, pháp lệnh qua mỗi lần soạn thảo, mỗi công đoạn “lớn” dần lên, hình thành rõ nét và cụ thể hoá. Chính sự nhất quán về nội dung và hình thức thể hiện (kỹ thuật lập pháp) là những điều kiện tiên quyết bảo đảm cho dự án có tính thống nhất trong tổng thể chung trong hệ thống pháp luật, giữa các văn bản và trong từng đạo luật cụ thể.
Như vậy, trước khi bắt tay vào việc soạn thảo, rất cần phải có giai đoạn nghiên cứu và phân tích chính sách về vấn đề đang đặt ra. “Làm luật phần nào đó cũng giống như bốc thuốc, phải hiểu đúng bệnh mới bốc đúng thuốc[12]”, tức là xây dựng, phân tích chính sách pháp luật trước, tổ chức thi công, soạn thảo sau. Về mặt phương pháp luận, khó mà tách quy trình xây dựng nội dung, chính sách luật pháp mà mỗi văn bản phải thể chế hoá thành quy trình riêng, độc lập với quy trình soạn thảo. Kinh nghiệm cho thấy, nếu không kịp thời quan tâm đúng mức và giải quyết những vấn đề thuộc chủ trương, chính sách, mà đi vào soạn thảo các quy định cụ thể thì đến lúc phải làm lại khi việc soạn thảo đã đi được một quãng khá dài và khá lâu, tốn kém kinh phí, bắt buộc phải sửa lại hoặc không thì dự án luật, pháp lệnh coi như đổ vỡ. Chính sách pháp luật ở đây gồm các quan điểm, đường lối chung và các biện pháp tổ chức cụ thể của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình xây dựng và hình thành chính sách cụ thể này, sự tham gia và đóng góp tích cực của các viện nghiên cứu chuyên ngành, của các nhà khoa học đầu đàn và của các cán bộ thực tiễn có bề dày kinh nghiệm là rất quan trọng.
Có thể thấy, cách đặt vấn đề này không mâu thuẫn với quy trình lập pháp hiện nay đã được cải tiến nhiều hơn trước, đã luật hoá được cả quy trình[13] thành từng công đoạn cụ thể, bởi chính khi đã nhận diện được vấn đề cần phải giải quyết thì Ban soạn thảo sẽ có kế hoạch, biện pháp làm rõ nội hàm của vấn đề đó ngay từ những bước đi đầu tiên, đồng thời sẽ cải thiện được thực tế đáng lo ngại là tại kỳ họp khi bị hạn hẹp về thời gian và đã không ít lần xảy ra là phải sửa cơ bản dự thảo về mặt nội dung.
Ở đây có thể tham khảo kinh nghiệm lập pháp của Thụy Điển và một số nước khác. Ví dụ, trong suốt cả quá trình soạn thảo, chuẩn bị dự án cho đến khi thông qua, dấu ấn của các lần soạn thảo được thể hiện qua việc lưu giữ thành từng tập kết quả điều tra, phân tích chính sách kèm theo ý kiến của các chuyên gia, Bản giải thích từng quy định của dự thảo thành hồ sơ về dự án. Điều này có tác dụng để các nhà lập pháp, các chuyên viên giúp việc của các Uỷ ban dễ dàng đối chiếu, so sánh, tìm hiểu căn nguyên của vấn đề trong quá trình nhận xét, thẩm tra về dự luật và cũng rõ trách nhiệm, sự đóng góp của các bộ phận, chuyên gia trong quá trình soạn thảo[14].
Điểm nữa liên quan đến việc soạn thảo, quy trình “đầu vào”, là phải kiện toàn tổ chức và năng lực của cơ quan soạn thảo. Với cách cấu tạo thành phần của Ban gồm các cán bộ kiêm nhiệm từ các ban, ngành trên thực tế là khó thực hiện đầy đủ 7 hạng mục công việc theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đề ra như: 1) tổng kết tình hình thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; 2) tổ chức nghiên cứu thông tin, tư liệu liên quan đến dự án; 3) chuẩn bị đề cương, biên soạn và chỉnh lý dự án; 4) tổ chức lấy ý kiến bằng các hình thức thích hợp về dự thảo; 5) chuẩn bị tờ trình và tài liệu có liên quan; 6) phối hợp với các cơ quan hữu quan để chuẩn bị dự thảo các văn bản quy định chi tiết và 7) phải tính đến các điều ước quốc tế mà nước ta đã ký kết hoặc tham gia[15]. Thiết nghĩ, giải pháp cho vấn đề này là phải thành lập các Ban soạn thảo dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ, cơ quan chủ quản, gồm các chuyên gia am hiểu sâu về lĩnh vực chuyên ngành và các chuyên gia pháp lý có đủ năng lực, làm việc chuyên trách để tập trung cho việc chuẩn bị các dự án.
Liên quan đến quy trình xem xét các dự án luật không thể không tính đến các thủ tục công việc này tại kỳ họp Quốc hội. Vai trò của các quy tắc và thủ tục tại kỳ họp là hết sức quan trọng để Quốc hội có thể xử lý được khối lượng công việc đồ sộ với sự tham gia của hàng trăm đại biểu. Có thể nêu một số vấn đề cụ thể như là thủ tục đăng ký và thời gian phát biểu, xử lý tình huống khi có nhiều ý kiến khác nhau về cùng một vấn đề giữa cơ quan trình và cơ quan thẩm tra, nhất là quy định rõ những vấn đề nào được xem xét tại phiên họp toàn thể của Quốc hội và tại các cuộc thảo luận của đoàn, của tổ. Theo cách làm hiện nay, thuyết trình của cơ quan, tổ chức trình dự án và báo cáo thẩm tra của Hội đồng Dân tộc hoặc Uỷ ban chủ trì thẩm tra được đọc toàn văn. Kết quả là Quốc hội đã dành không ít thời gian để nghe đọc toàn văn cả hai tài liệu này, mặc dầu trước đó các đại biểu đã được nhận đầy đủ, trong trường hợp sớm nhất là 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp như luật định[16]. Tiếp đó, các đại biểu thảo luận dự án tại phiên họp toàn thể theo từng vấn đề, từng chương hoặc toàn bộ dự án. Trước khi thảo luận ở phiên họp toàn thể, dự án luật được trao đổi ở Đoàn, ở Tổ đại biểu Quốc hội[17]. Qua các quy định này, về mặt thủ tục công việc của kỳ họp, có thể làm rõ một số vấn đề sau như: a) quan niệm “thuyết trình” là như thế nào; có phải đọc toàn văn hay là phát biểu ngắn gọn của cơ quan có đủ thẩm quyền báo cáo với Quốc hội về việc soạn thảo đã tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật và dự thảo đã được chính thức trình ra Quốc hội và b) phân biệt phạm vi và mức độ, yêu cầu của việc “thảo luận” và “trao đổi” về dự án như đã trình bày. Cũng từ thực tế thảo luận về dự án luật mà có thể quy định tại phiên họp toàn thể, Quốc hội chỉ xem xét những vấn đề có tính nguyên tắc thuộc quan điểm, phạm vi, đối tượng điều chỉnh của dự án..., còn với những ý kiến về câu, chữ, cách hành văn... thì được chuyển cho bộ phận thư ký, bộ phận biên tập dự án. Thiết nghĩ, đấy là những nội dung công việc mà muốn thực hiện tốt thì cần quy định cụ thể, rõ ràng, được các đại biểu Quốc hội nhất trí. Trong trường hợp ngược lại, không bị ràng buộc bởi phạm vi thảo luận, các đại biểu có quyền trình bày về những vấn đề mà mình quan tâm, bức xúc[18].
Cuối cùng, như đã trình bày ở trên, chất lượng soạn thảo và xây dựng các dự án luật còn được nâng cao bằng việc đẩy mạnh công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách luật pháp phục vụ công tác lập pháp của Quốc hội[19], về việc thành lập một cơ quan chuyên môn của Quốc hội gồm những chuyên gia giỏi để đảm trách những vấn đề về kỹ thuật lập pháp, chính lý câu chữ...[20].
Từ những vấn đề đã nêu, chúng ta thấy nội hàm công việc xây dựng và ban hành văn bản luật, pháp lệnh không chỉ đơn thuần là trình tự, thủ tục, đơn giản là “các bước phải tuân theo khi tiến hành một công việc nào đó”[21]. Thực tế cho thấy, khi tâm niệm của các nhà làm luật, của tất cả mọi người về nội dung và mục đích của hoạt động lập pháp là thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, ý chí và nguyện vọng của nhân dân thành các quy phạm pháp luật cụ thể để mọi người biết và thực hiện, thì rõ ràng, một quy trình lập pháp hữu hiệu phải là một quy trình khoa học, hợp lý giữa các công đoạn, các bước, là phương tiện, công cụ liên quan chặt chẽ với quá trình xây dựng và hoạch định chính sách để kịp thời thể chế hoá cho đúng, đầy đủ các chủ trương, chính sách và nguyện vọng của nhân dân.
[1] Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá VIII) về một số vấn đề về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách nhà nước.
[2] Phùng Văn Tửu- Xây dựng, hoàn thiện nhà nước và pháp luật của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội 1999, tr.77-86; Nguyễn Văn Yểu - Đổi mới hoạt động lập pháp - một nội dung quan trọng của đổi mới hoạt động của Quốc hội trong cuốn Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội 1998, tr.267-270.
[3] Cải tiến quy trình xây dựng pháp luật là đòi hỏi bức xúc. Báo Lao động. Số 196/99 ngày 9/12/ 1999; bài trả lời phỏng vấn báo Nhân dân ngày 1/12/1999 của đồng chí Vũ Đức Khiển - Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật về “Đổi mới công tác xây dựng pháp luật”.
[4] Nguyễn Thị Nguyệt - Ngô Đức Mạnh - Nguyễn Đức Giao- Tìm hiểu Luật Tổ chức Quốc hội. Nxb. Sự thật. Hà Nội. 1992, tr.59-60.
[5] Ở đây mới tính đến những chủ thể đã được ghi rõ trong Hiến pháp, chưa tính cụ thể “các tổ chức thành viên của Mặt trận” vì điều này chưa được cụ thể hoá trong luật.
[6] Điều 84(1) của Hiến pháp năm 1992.
[7] Điều 87 của Hiến pháp năm 1992.
[8] Báo cáo công tác của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội nhiệm kỳ khoá IX (1992-1997)- Văn phòng Quốc hội. Tháng 9/1997, tr.6. (Báo cáo công tác của Quốc hội).
[9] Báo cáo công tác của Quốc hội, tr.8.
[10] Vũ Mão - Về đổi mới công tác lập pháp. Tạp chí Cộng sản số 8/1995, tr.3.
[11] Vũ Đức Khiển - Đổi mới công tác xây dựng pháp luật. Nhân dân số 16217 ngày 1/12/1999, tr.6.
[12] Vũ Mão - Về đổi mới công tác lập pháp, tr.5-6.
[13] Trước đây, công tác xây dựng luật, pháp lệnh được tiến hành theo Quy chế xây dựng luật và pháp lệnh do Hội đồng Nhà nước ban hành năm 1988. Quy chế này gồm có 44 điều, 10 chương, trong đó, ngoài phần Những quy định chung, có các chương quy định việc Chuẩn bị và thông qua kế hoạch xây dựng luật, pháp lệnh; tổ chức nghiên cứu, soạn thảo dự án luật, pháp lệnh; Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban Pháp luật và các Uỷ ban thường trực khác của Quốc hội thẩm tra dự án luật, pháp lệnh; trình Hội đồng Nhà nước thông qua pháp lệnh và cho ý kiến về dự án luật; tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự án luật, pháp lệnh; đại biểu Quốc hội cho ý kiến về dự án luật trước khi trình ra kỳ họp Quốc hội; trình dự án luật tại kỳ họp Quốc hội; tổ chức xuất bản luật, pháp lệnh và về Kinh phí xây dựng dự án luật, pháp lệnh. Kể từ năm 1996, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật được ban hành thay thế cho Quy chế.
[14] Ngô Đức Mạnh - Về quy trình và nghiên cứu lập pháp tại Thụy Điển. Tạp chí Người đại biểu nhân dân. Số 102, tháng 11/1999, tr.26-27.
[15] Điều 42 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
[16] Nt- Điều 26.
[17] Nt- Điều 45.
[18] Trong vấn đề này, việc sửa đổi, bổ sung Nội quy kỳ họp Quốc hội được ban hành từ năm 1992 đến nay là hết sức cần thiết. Ngoài việc làm rõ những vấn đề thuộc về thủ tục, việc sửa đổi Nội quy sẽ nhằm mục đích giảm thiểu những quy định còn trùng lặp về việc xem xét các dự án luật tại kỳ họp do Nội quy này quy định với Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
[19] Ví dụ, nói riêng, việc nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của quy tình lập pháp trong hoạt động lập pháp của Quốc hội, ảnh hưởng và tác động của quy trình đối với việc ban hành các văn bản luật, pháp lệnh cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ và quan tâm đúng mức trong khoa học pháp lý.
Ví dụ, trong Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, xuất bản năm 1994, (tr.384-386), thì việc Quốc hội xem xét và thông qua các dự án luật được trình bày chung với trình tự xem xét và thông qua các dự án kế hoạch nhà nước, các báo cáo và gồm có 4 bước: Thứ 1, trình bày các dự án trước Quốc hội; thứ 2, thuyết trình việc thẩm tra các dự án; thứ 3, thảo luận các dự án và thứ 4, biểu quyết để thông qua các dự án.
[20] Vũ Đức Khiển - Đổi mới công tác xây dựng pháp luật; Trả lời phỏng vấn của Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh - Mọi sáng kiến xây dựng pháp luật có chất lượng đều được khuyến khích - Báo Lao động ngày 22/12/1994; tr.1.
[21] Đại từ điển Tiếng Việt. Chủ biên Nguyễn Như Ý. Nxb. Văn hoá - Thông tin. Hà Nội, 1998, tr.1381.