TỜ TRÌNH CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
VỀ DỰ THẢO LUẬT TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
VÀ ỦY BAN NHÂN DÂN
(Do ông Nguyễn Hữu Thụ, Bộ trưởng, Tổng Thư ký
Hội đồng Bộ trưởng, trình bày tại kỳ họp thứ 5,
Quốc hội khóa VII, ngày 25-6-1983)
Thưa các đồng chí
đại biểu Quốc hội,
Căn cứ vào Hiến
pháp mới, tại kỳ họp thứ nhất (tháng 6 năm 1981), Quốc hội khóa VII đã thông qua
4 đạo luật:
- Luật tổ chức
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước;
- Luật tổ chức Hội
đồng Bộ trưởng;
- Luật tổ chức Tòa
án nhân dân;
- Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân.
Riêng về tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, đến nay vẫn áp dụng Luật tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp được Quốc hội thông qua ngày 27-10-1962 (khi
ấy còn là Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa).
Đến nay, việc ban
hành Luật mới về tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân để thi hành Hiến
pháp mới là cần thiết.
Dự thảo Luật này kế thừa những điểm còn phù hợp của Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân ban hành năm 1962, quán triệt quan điểm của Đảng về
nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình chủ yếu bằng Nhà
nước; cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp mới về Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân các cấp, bảo đảm cho Hội đồng nhân dân thực sự là cơ quan quyền lực
Nhà nước và đại diện cho nhân dân ở địa phương; tổ chức và hoạt động của Ủy ban
nhân dân theo đúng tính chất của cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà
nước và cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương; mặt khác, thông qua việc phân
định nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân từng cấp, Dự thảo Luật thể chế
hóa một bước chủ trương của Đảng: “Trên cơ sở bảo đảm quyền lãnh đạo tập trung
thống nhất của Trung ương, phát huy quyền chủ động, sáng tạo của các địa
phương”.
Dự thảo Luật gồm 9
Chương, 70 Điều:
- Chương I:
Những quy định chung, có 7 Điều, từ Điều 1 đến Điều 7; quy định vị trí, vai trò,
chức năng và nguyên tắc tổ chức hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân.
- Chương II:
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, có 13 Điều, từ Điều 8 đến Điều 20;
quy định nhiệm vụ, quyền hạn chung của Hội đồng nhân dân về các mặt kinh tế,
khoa học và kỹ thuật, văn hóa, xã hội và đời sống, an ninh, trật tự xã hội và
quốc phòng, chính sách dân tộc, pháp chế xã hội chủ nghĩa, tổ chức và cán bộ;
đồng thời, quy định nhiệm vụ, quyền hạn riêng của Hội đồng nhân dân từng cấp.
- Chương III:
Kỳ họp Hội đồng nhân dân, có 6 Điều, từ Điều 21 đến Điều 26; quy định kỳ họp và
phương thức tiến hành kỳ họp của Hội đồng nhân dân, những vấn đề nhất thiết phải
được thảo luận và giải quyết trong các kỳ họp của Hội đồng nhân dân.
- Chương IV:
Các Ban của Hội đồng nhân dân, có 4 Điều từ Điều 27 đến Điều 30; quy định việc
thành lập các Ban của Hội đồng nhân dân, nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức hoạt
động của các Ban của Hội đồng nhân dân, trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
đối với các Ban của Hội đồng nhân dân.
- Chương V:
Đại biểu Hội đồng nhân dân, có 14 Điều, từ Điều 31 đến Điều 44; quy định nhiệm
kỳ của đại biểu Hội đồng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm các đại biểu đối
với các kỳ họp của Hội đồng, đối với cử tri, đối với việc thi hành pháp luật,
chính sách của Nhà nước, đối với việc giải quyết những điều khiếu nại, tố cáo và
kiến nghị của nhân dân; những bảo đảm cho đại biểu Hội đồng tiến hành nhiệm vụ
và việc tổ chức tổ đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Chương VI: Ủy
ban nhân dân, có 14 Điều, từ Điều 45 đến Điều 58; quy định nhiệm vụ, quyền hạn
của Ủy ban nhân dân, tổ chức, chế độ làm việc và quan hệ công tác của Ủy ban
nhân dân; tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân.
- Chương VII:
Những bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, có 5
điều, từ Điều 59 đến Điều 63; quy định trách nhiệm của Hội đồng Nhà nước, Hội
đồng Bộ trưởng, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cùng cấp và các đoàn thể trong mặt trận, các cơ quan và nhân viên nhà
nước ở địa phương đối với hoạt động của Hội đồng nhân dân.
- Chương VIII:
Những quy định về tổ chức trong trường hợp thay đổi cấp hoặc địa giới của các
đơn vị hành chính và trong trường hợp đặc biệt, có 5 Điều từ Điều 64 đến Điều
68.
- Chương IX: Điều khoản cuối cùng, có 2 Điều, Điều 69 và Điều 70.
*
* *
Quá trình thảo
luận dự thảo Luật, từ Trung ương đến các địa phương đã có sự nhất trí cao. Nhiều
ý kiến đã được đưa vào Dự thảo Luật hoặc được ghi nhận để đưa vào văn bản thi
hành Luật. Sau đây là những vấn đề đang còn có ý kiến khác nhau, hoặc tuy có
nhất trí nhưng trong quá trình thảo luận có nhiều ý kiến:
1. Về nhiệm kỳ của
Hội đồng nhân dân các cấp (quy định ở Điều 4 của Dự thảo Luật)
Có ý kiến đề nghị nhiệm kỳ của các Hội đồng nhân dân: tỉnh là 5 năm, huyện là 2
năm rưỡi để khớp với nhiệm kỳ của các cấp ủy Đảng.
Dự thảo Luật vẫn
ghi nhiệm kỳ của các Hội đồng nhân dân: tỉnh là 4 năm, huyện, xã là 2 năm theo
đúng Điều 116 của Hiến pháp; và trong thực tế cũng khó thực hiện ăn khớp giữa
nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân và nhiệm kỳ của cấp ủy Đảng.
2. Về nhiệm vụ,
quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp (quy định ở Chương II của Dự thảo Luật)
Nhiều ý kiến cho rằng, phần quy định về nhiệm vụ, quyền hạn chung cho Hội đồng
nhân dân các cấp thì được, nhưng cần cụ thể hóa hơn nữa nhiệm vụ, quyền hạn của
Hội đồng nhân dân từng cấp để khi Luật được ban hành, từng cấp có thể thực hiện
được dễ dàng.
Trong việc phân
cấp quản lý, còn nhiều vấn đề chưa chín muồi; do đó, dự thảo Luật chỉ nên quy
định những nét lớn có tính nguyên tắc; sau này, Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ
trưởng sẽ quy định cụ thể cho từng cấp.
3. Về nhiệm vụ,
quyền hạn của Hội đồng nhân dân trong việc thành lập các cơ quan chuyên môn và
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi chức thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân
Điểm 3 Điều 15 quy
định: “Hội đồng nhân dân thông qua các đề nghị của Ủy ban nhân dân cùng cấp về
việc thành lập hoặc bãi bỏ các cơ quan chuyên môn, về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm
hoặc bãi chức Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân theo quy
định của Nhà nước”. Có ý kiến muốn giao quyền này cho Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân địa phương, nhưng nhiều ý kiến tán thành như dự thảo vì quy định
trên đây vừa đề cao quyền của Hội đồng nhân dân địa phương, đồng thời vẫn bảo
đảm sự quản lý thống nhất của ngành dọc cấp trên.
4. Về kỳ họp của
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (quy định ở Chương III của Dự thảo Luật)
Dự thảo Luật ghi:
Hội đồng nhân dân các cấp ba tháng họp một kỳ. Ở miền núi, vì đi lại khó khăn
Hội đồng nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân huyện có thể sáu tháng họp một kỳ.
Có ý kiến khác đề
nghị nên ghi như Luật hiện hành: các Hội đồng nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị
xã, quận, xã, phường, thị trấn ba tháng họp một kỳ.
Các Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương, huyện sáu tháng
họp một kỳ.
5. Về cơ cấu Ủy
ban nhân dân (quy định ở Chương VI, Dự thảo Luật)
Điều 49, dự thảo
Luật ghi số lượng Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp
tương đương có từ 11 - 17 người; huyện và tương đương có từ 9 - 13 người; xã và
cấp tương đương có từ 7 - 9 người; thành viên của Ủy ban nhân dân phải là đại
biểu Hội đồng nhân dân. Dự thảo Luật ghi như vậy xuất phát từ yêu cầu công việc
và từ nhận thức Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, nên
thành viên của Ủy ban nhân dân phải là người do cử tri bầu ra và chịu trách
nhiệm trước cử tri.
Tuy nhiên, cũng có
ý kiến đề nghị: Ủy ban nhân dân là cơ quan tác chiến cần phải gọn, nhẹ; số lượng
thành viên của Ủy ban nhân dân chỉ nên có: cấp tỉnh và tương đương có từ 9 - 15
người; cấp huyện và tương đương có từ 5 - 9 người. Khi cần thiết, Hội đồng nhân
dân cũng có thể bầu một, hai người không phải là đại biểu Hội đồng nhân dân vào
Ủy ban nhân dân.
Thưa các đồng chí
đại biểu Quốc hội,
Bằng việc thảo
luận và thông qua Dự thảo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân lần
này, Quốc hội tiếp tục phát huy chức năng của mình trong việc hoàn thiện công
tác xây dựng và kiện toàn các cơ quan nhà nước, góp phần xây dựng cơ chế Đảng
lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
Trên tinh thần đó,
Hội đồng Bộ trưởng trân trọng đề nghị Quốc hội xem xét và thông qua Dự thảo
Luật.
Lưu tại Trung tâm
Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội