VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 1) 1981 - 1983

 

TỜ TRÌNH
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
VỀ DỰ THẢO PHẦN CÁC TỘI PHẠM CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
(Do ông Phan Hiền, Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình bày
 tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa VII, ngày 25-6-1983)

 

Thưa Đoàn Chủ tịch,

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Bộ luật hình sự gồm phần chung và phần các tội phạm - Phần chung quy định các nguyên tắc chung thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta. Xuất phát từ thực tế tội phạm ở nước ta, từ những yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới, căn cứ vào chính sách hình sự của Nhà nước ta, phần các tội phạm quy định cụ thể về các tội phạm và hình phạt áp dụng đối với từng tội phạm.

Phần chung đã được Quốc hội thảo luận trong kỳ họp tháng 12-1982. Trong kỳ họp này của Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng trình bản Dự thảo phần các tội phạm.

Trong khi biên soạn phần các tội phạm, Ban Dự thảo đã được các ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án và Tư pháp, các Bộ có liên quan, các đoàn thể nhân dân góp nhiều ý kiến. Trong kỳ họp tháng 12-1982 của Quốc hội, nhân thảo luận Phần chung, một số vị đại biểu Quốc hội cũng đã lưu ý đến một số tội phạm cần phải quy định. Ủy ban pháp luật của Quốc hội đã dành nhiều thời gian để thẩm tra sơ bộ bản Dự thảo Phần các tội phạm.

Thuận lợi cơ bản cho việc xây dựng Bộ luật hình sự nói chung, Phần các tội phạm nói riêng, là Đảng và Nhà nước đã có những nghị quyết, chỉ thị cần thiết về tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Các Đại hội lần IV và lần V của Đảng đã vạch rõ đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa, đã vạch rõ và khẳng định cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nước quản lý. Nhà nước đã ban hành Hiến pháp mới, mà Bộ luật hình sự có nhiệm vụ quan trọng góp phần bảo vệ việc thực hiện các thể chế nói trong Hiến pháp. Sau Hiến pháp có một số đạo luật và pháp lệnh mới như Pháp lệnh ngày 20-5-1981 về trừng trị tội hối lộ, Pháp lệnh ngày 10-7-1982 về trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả và kinh doanh trái phép...

Nội dung Dự thảo Bộ luật hình sự nói chung, Phần các tội phạm nói riêng, phải quán triệt những yêu cầu sau đây:

Luật hình sự phải thật sự là công cụ sắc bén của Nhà nước chuyên chính vô sản để bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng, quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động và bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước. Bộ luật hình sự với hai phần, Phần chung và Phần các tội phạm, phải phục vụ đắc lực hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Bộ luật hình sự phải thể hiện tính giai đoạn của cách mạng nước ta hiện đang còn ở chặng đầu của thời kỳ quá độ, phản ánh tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và truyền thống dân tộc Việt Nam. Bộ luật kế thừa những kinh nghiệm phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm của ta từ trước đến nay, đồng thời, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Hiện nay, đất nước ta đang ở trong tình thế vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của bọn bành trướng, bá quyền... câu kết với đế quốc Mỹ, đồng thời phải sẵn sàng đối phó với tình huống địch có thể gây chiến tranh xâm lược quy mô lớn. Vì vậy, Phần các tội phạm phải đặc biệt chú ý đến việc trừng trị những tội xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ nước Việt Nam, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thể hiện tinh thần này, những tội xâm phạm an ninh quốc gia đặc biệt nguy hiểm (tức là những tội phản cách mạng) đã được quy định ngay trong Chương I và cũng là chương quan trọng nhất.

Đồng thời, Chương XI quy định các tội phạm về quân sự, góp phần xây dựng và củng cố quốc phòng, đặc biệt là góp phần củng cố kỷ luật - sức chiến đấu của quân đội và các lực lượng vũ trang khác.

Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước đang có những chuyển biến mới trên mặt trận kinh tế và còn nhiều khó khăn to lớn. Cuộc đấu tranh địch ta, cuộc đấu tranh giai cấp, cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đang diễn ra gay gắt. Tình hình phạm tội diễn biến phức tạp. Sở hữu xã hội chủ nghĩa bị xâm phạm nghiêm trọng. Công tác quản lý kinh tế còn lỏng lẻo, trong phân phối - lưu thông có nhiều diễn biến xấu,... Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, góp phần lập lại trật tự xã hội chủ nghĩa trong quản lý kinh tế, đặc biệt trong, lĩnh vực sản xuất, phân phối - lưu thông, ổn định giá cả, tiền tệ, thị trường, trừng trị bọn xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, bọn đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, phá rối thị trường, xử lý đích đáng những cán bộ thoái hóa, biến chất trở thành sâu mọt trong bộ máy nhà nước,...

Cùng với việc bảo vệ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và chế độ quản lý kinh tế, phần các tội phạm góp phần thúc đẩy cách mạng khoa học - kỹ thuật, thúc đẩy cách mạng tư tưởng và văn hóa, xóa bỏ những tệ nạn xã hội cũ, những tàn dư văn hóa thực dân mới, chống mọi ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa phản động.

Đường lối của Đảng và Nhà nước ta là thực hiện, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Toàn bộ phần các tội phạm phải bảo vệ quyền làm chủ tập thể này, bảo vệ quyền con người (tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của công dân), bảo đảm công dân được hưởng và thi hành đúng đắn các quyền tự do dân chủ, bảo vệ quyền tài sản của công dân và quyền của công dân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.

Để bảo vệ hiệu lực pháp lý của Nhà nước, Phần các tội phạm phải trừng trị những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước, xâm phạm trật tự xã hội, an toàn của nhân dân.

Trong khi thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, nhân dân ta còn phải làm nhiệm vụ quốc tế. Bởi vậy, Phần các tội phạm cũng có những quy định thích hợp trừng trị những tội chống lại các Nhà nước tiến bộ, xâm phạm tài sản của các Nhà nước khác hoặc tổ chức quốc tế. Đặc biệt, có dành một Chương quy định về những tội ác phá hoại hòa bình và chống loài người, khẳng định lập trường của Nhà nước ta đối với những tội ác phá hoại hòa bình và chống loài người đã và đang bị cả loài người lên án.

Phần các tội phạm phải thể hiện tinh thần kiên quyết trừng trị và trừng trị nặng trong tình hình hiện nay đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa, các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, các tội giết người, hiếp dâm, cướp của và các tội nghiêm trọng khác.

Đối với bọn chủ mưu, bọn cầm đầu, bọn ngoan cố chống đối, bọn lưu manh côn đồ, bọn tái phạm, những kẻ biến chất, sa đọa, lợi dụng chức vụ để phạm tội, những kẻ phạm tội có tổ chức, cố ý gây hậu quả nghiệm trọng, thì phải nghiêm trị.

Với tinh thần trên đây, trong 214 tội được dự kiến, có 46 tội thuộc loại nguy hiểm nhất có thể bị phạt tới tù chung thân hoặc tử hình (tỷ lệ 21,5%).

Đối với những người thật thà hối cải, tự thú, tố giác đồng bọn, lập công chuộc tội, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại đã gây ra, thì có thể khoan hồng. Nhất là đối với những người phạm tội lần đầu, tội không nghiêm trọng và đã hối lỗi thì có thể áp dụng những hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù (như cảnh cáo, cải tạo không giam giữ) và giao họ cho các cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức xã hội giáo dục hoặc cho gia đình bảo lãnh. Thể hiện tinh thần này, có 31 tội (14%) có thể phạt cảnh cáo và có 124 tội (58%) có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Điều này thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa có khả năng giáo dục và cải tạo con người.

Đối với hầu hết các tội phạm phải dự kiến nhiều khung hình phạt nặng nhẹ khác nhau (rất nhiều tội có tới ba khung hình phạt) để có thể thực hiện đúng mức sự nghiêm khắc và sự khoan hồng thích đáng đối với từng người phạm tội, trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Bộ luật hình sự phải dự kiến đầy đủ những hành vi phạm tội, không được bỏ sót một tội phạm nghiêm trọng nào. Tuy nhiên, cũng tránh khuynh hướng trừng trị tràn lan. Nếu giải quyết một số hành vi vi phạm pháp luật bằng các biện pháp xã hội, hành chính, dân sự cũng đủ để bảo đảm kỷ cương xã hội, kỷ luật nhà nước, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa thì không cần thiết quy tội để trừng trị.

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Trên đây là tinh thần chỉ đạo việc biên soạn Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Sau đây là nội dung chính của phần này.

Phần các tội phạm gồm 231 Điều, quy định 214 tội sắp xếp thành 12 Chương:

Chương I: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;

Chương II: Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa;

Chương III: Các tội phạm về kinh tế;

Chương IV: Các tội xâm phạm con người;

Chương V: Các tội xâm phạm sở hữu của công dân;

Chương VI: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân, gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên;

Chương VII: Các tội xâm phạm trật tự, an toàn công cộng;

Chương VIII: Các tội xâm phạm trật tự quản lý;

Chương IX: Các tội phạm về chức vụ;

Chương X: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp;

Chương XI: Các tội phạm về quân sự;

Chương XII: Các tội ác phá hoại hòa bình và chống loài người.

Chương I: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia

Chương I quy định những tội nói chung nghiêm trọng nhất, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, xâm phạm Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chương này có tác dụng góp phần trực tiếp đấu tranh chống bọn bành trướng, bá quyền... câu kết với đế quốc Mỹ và các thế lực phản động khác trong việc thực hiện âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam.

Có hai mục chính: Mục A quy định những tội xâm phạm an ninh quốc gia đặc biệt nguy hiểm; mục B quy định các tội khác xâm phạm an ninh quốc gia.

A- MỤC A

Những tội quy định trong mục này là những tội phạm “đặc biệt nguy hiểm”, xâm phạm toàn bộ lợi ích của Nhà nước ta, đe dọa sự tồn tại của Nhà nước ta, của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây chính là những tội phản cách mạng. Và do vậy, hình phạt dự kiến ở mức nghiêm khắc nhất: trong 12 tội được quy định thì đối với 9 tội, có thể phạt tới tù chung thân, tử hình.

Có mấy điểm dưới đây đáng lưu ý:

Tội phản bội Tổ quốc (Điều 75)

Điều 76 Hiến pháp quy định: “Công dân phải trung thành với Tổ quốc - Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất đối với dân tộc”. Do đó, Điều 75 Dự thảo Bộ luật hình sự nêu rõ: “công dân Việt Nam nào câu kết với nước ngoài nhằm chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ nước Việt Nam, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là phạm tội “phản bội Tổ quốc”. Như vậy, diện truy tố về tội phản bội Tổ quốc không hạn chế trong một số trường hợp kẻ phản bội là người có trọng trách, cũng không mở ra quá rộng.

Tội phá hoại đoàn kết (Điều 84)

Đoàn kết dân tộc luôn luôn là một chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Do thực hiện đúng đắn chính sách này mà phát huy được quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo hăng hái tham gia phong trào cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn kết quốc tế cũng là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Trên tinh thần này, Bộ luật hình sự coi những hành vi phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc, chính sách đoàn kết quốc tế là tội xâm phạm an ninh quốc gia đặc biệt nguy hiểm.

Tội chống lại Nhà nước tiến bộ

Xuất phát từ chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, Điều 87 quy định những hành vi đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh của một Nhà nước tiến bộ cũng bị xử theo những điều tương ứng của Mục A, Chương I, Phần các tội phạm. Nói Nhà nước tiến bộ là đã bao hàm các nước anh em trong khối Cộng đồng xã hội chủ nghĩa; còn xác định thế nào là một Nhà nước tiến bộ khác thì sẽ căn cứ vào đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong từng trường hợp cụ thể.

B- MỤC B

Mục này quy định những tội tuy không có mục đích phản cách mạng nên không xếp vào mục A nhưng cũng rất nguy hiểm cho an ninh quốc gia (thí dụ: tội cướp máy bay, tàu thủy; tội làm, lưu hành tiền giả; tội truyền bá văn hóa đồi trụy,...). Hầu hết các tội nói trong Mục B là những tội mới, chưa được quy định trong các văn bản hiện hành. Trong số 21 tội, thì đối với 7 tội có dự kiến các hình phạt tù chung thân, tử hình.

Có mấy vấn đề đáng lưu ý:

Tội cướp máy bay, tàu thủy (Điều 88)

Tội này được quy định để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn Việt Nam, đồng thời cũng để giải quyết những vấn đề mà pháp luật quốc tế đặt ra, nhất là nước ta đã gia nhập Công ước quốc tế về chống bắt cóc máy bay.

Về việc trốn đi nước ngoài

Những năm gần đây có một số người trốn đi nước ngoài với những động cơ, mục đích khác nhau. Để xử lý những trường hợp trốn đi nước ngoài vì mục đích phản cách mạng, Điều 82 trong Mục A, quy định “tội trốn theo địch hoặc trốn đi nước ngoài, trốn ở lại nước ngoài nhằm chống lại chính quyền”. Đối với những trường hợp trốn đi nước ngoài không có mục đích phản cách mạng thì ta nghiêm trị những kẻ tổ chức, những kẻ cưỡng ép, xúi giục. Vì vậy, Điều 89 quy định “tội tổ chức, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài”. Đối với những người bị lừa dối, lôi kéo trốn đi nước ngoài mà không có mục đích phản cách mạng thì chủ yếu xử lý bằng biện pháp hành chính, lấy giáo dục để răn bảo họ; trường hợp cần phải xử phạt về hình sự thì áp dụng Điều 90 về tội xuất cảnh, nhập cảnh trái phép (đối với công dân thường) hoặc Điều 248 về tội đào nhiệm (đối với nhân viên cơ quan nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội).

Tội buôn lậu qua biên giới

Pháp lệnh ngày 30-6-1982 về trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả và kinh doanh trái phép đã quy định tội buôn lậu qua biên giới. Bộ luật hình sự lấy lại nội dung quy định của Pháp lệnh và đưa vào Mục B để làm rõ hơn tính chất nguy hiểm của tội buôn lậu qua biên giới. Đây không đơn thuần là một tội phạm kinh tế, nó còn vi phạm các quy định của Nhà nước đối với việc ra vào biên giới, tức là xâm phạm an ninh quốc gia.

Tội truyền bá văn hóa đồi trụy cũng được đặt trong Chương này, vì đây cũng là một lĩnh vực mà kẻ thù đang tìm cách phá hoại ta một cách thâm hiểm. “Phải đập tan âm mưu thủ đoạn của địch đang tìm mọi cách phá hoại hòng làm lung lay tư tưởng, làm xói mòn đạo đức, làm suy đồi lối sống của nhân dân và thanh niên ta”, (trích bài nói của Tổng Bí thư Lê Duẩn tại đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội ngày 13-6-1983).

Chương II: Các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa

Sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức: sở hữu toàn dân của Nhà nước và sở hữu tập thể của hợp tác xã, là cơ sở của nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa, là nền tảng, nguồn sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, là nguồn ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta. Vì vậy, bảo vệ sở hữu xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Nhà nước ta. Và đó là lý do để đặt Chương về các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa ở một vị trí quan trọng trong Bộ luật hình sự.

Chương này quy định các tội xâm phạm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt các tài sản của Nhà nước, của tập thể.

Có những tội xâm phạm cả ba quyền trên đây (thí dụ: tội cướp, tội trộm cắp, tội tham ô,... làm Nhà nước hoặc tập thể mất cả ba quyền); có những tội chỉ xâm phạm một, hai quyền (thí dụ: tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa chỉ xâm phạm quyền sử dụng).

Sau ngày đất nước thống nhất và cả nước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, khối lượng tài sản xã hội chủ nghĩa không ngừng phát triển. Do những khuyết điểm, thiếu sót về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, do buông lỏng chuyên chính vô sản, do địch thường xuyên phá hoại về nhiều mặt, các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa tăng về số lượng, về tính chất nghiêm trọng.

Bởi vậy, Chương II thể hiện chính sách kiên quyết bảo vệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, trừng trị nghiêm khắc những kẻ phạm tội. Trong 13 tội được quy định thì đối với 6 tội, có thể phạt tới tù chung thân, tử hình (các tội cướp, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, phá hủy hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa); ngoài ra, đối với 9 tội, có thể tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản.

Hiện nay, việc công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa bất chấp sự can thiệp của người khác cũng đang diễn ra ngày càng trắng trợn, bởi vậy, cũng cần quy định thành tội ở Điều 114.

Do sự phát triển các quan hệ nhiều mặt của nước ta với nước ngoài, ngày càng có nhiều tài sản của các Nhà nước khác hoặc các tổ chức quốc tế để ở lãnh thổ nước ta. Theo Điều 124, Nhà nước ta bảo vệ tài sản của các Nhà nước khác hoặc các tổ chức quốc tế như bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa.

Chương III: Các tội phạm về kinh tế

Nhiệm vụ kinh tế là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Nhà nước ta. Để thực hiện nhiệm vụ kinh tế, Nhà nước ta phải thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, phải xây dựng và phát triển hệ thống kinh tế - xã hội chủ nghĩa.

Chương II ở trên có nhiệm vụ trừng trị các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa, còn Chương III này trừng trị các hành vi vi phạm các quy định và chính sách về sản xuất, phân phối-lưu thông và các chế độ khác về quản lý kinh tế, gây thiệt hại cho nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa.

Quán triệt các nghị quyết, quyết định quan trọng của Đảng và Nhà nước về quản lý kinh tế, đặc biệt là Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V về phương hướng nhiệm vụ kinh tế - xã hội cho một số năm tới, căn cứ vào thực tiễn thi hành Pháp lệnh ngày 10-7-1982 về trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, Chương III quy định 21 tội về kinh tế. Có 3 tội có thể xảy ra ở mọi ngành, mọi cấp, mọi cơ sở. Đó là các tội: cố ý làm trái những quy định về kinh tế, tài chính (Điều 127); lập quỹ trái phép (Điều 128); lừa dối các cơ quan quản lý kinh tế (Điều 129). Đây là tội cố tình báo cáo sai sự thật.

Có 18 tội riêng cho những lĩnh vực kinh tế nhất định. Đó là các tội trong lĩnh vực sản xuất, trong lĩnh vực phân phối-lưu thông, quản lý thị trường, trong một số lĩnh vực quản lý khác (quản lý tài chính, quản lý đất đai, quản lý rừng, quản lý chim thú, thủy sản, quản lý điện, v.v..).

Do tính chất gay gắt của cuộc đấu tranh trong khâu phân phối - lưu thông, đối với 4 tội, bản dự thảo đã quy định hình phạt nặng nhất là tù chung thân, tử hình, ngoài ra, còn có thể tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản: tội trộm cắp tem phiếu, làm giả hoặc lưu hành tem phiếu, giấy tờ giả dùng vào việc phân phối (Điều 132), tội đầu cơ (Điều 133), tội buôn lậu trong nội địa hoặc tàng trữ hàng cấm (Điều 134), tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả (Điều 135).

Chương IV: Các tội xâm phạm con người

Nghị quyết của Đại hội lần thứ V của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, là vấn đề có ý nghĩa quyết định để hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng quan trọng và cấp bách trong thời gian tới”. Các Chương của Bộ luật hình sự đều nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp bảo vệ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong những lĩnh vực khác nhau. Chương này gồm những quy định trực tiếp bảo vệ quyền con người của công dân vì chế độ xã hội chủ nghĩa coi con người là vốn quý nhất.

Có hai mục chính:

Mục A trừng trị các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.

Mục B trừng trị các tội xâm phạm những quyền tự do dân chủ của công dân.

A- Mục A quy định 23 tội, trong đó, tội giết người và tội hiếp dâm được coi là nguy hiểm nhất, có thể phạt tới tù chung thân, tử hình.

Có mấy tội sau đây đáng lưu ý:

Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 152)

Phần chung đã nêu trong Điều 13:

“1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, hoặc bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hay của người khác, mà chống trả lại một các tương xứng người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là phạm tội”.

“2. Nếu hành vi chống trả rõ ràng là quá đáng, tức là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì người có hành vi đó phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Vận dụng các nguyên tắc trên đây, Điều 152 quy định tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Chính sách của ta là biểu dương, khen thưởng những người tích cực đấu tranh chống tội phạm, mặt khác, phải ngăn ngừa và chống những hành vi làm bừa, làm ẩu, xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác; tuy nhiên, đối với những hành vi đó ta cũng chỉ dùng hình phạt nhẹ, có thể phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt cao nhất là 3 năm tù.

Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 154)

Tội giết trẻ em mới đẻ là một tội nặng. Đối với con mình đẻ ra, bình thường không người mẹ nào lại nhẫn tâm muốn giết, muốn vứt bỏ. Trong xã hội ta ngày nay, nếu có người mẹ nào phạm tội này, thường là do hoàn cảnh đặc biệt, vì vậy, nên giảm nhẹ hình phạt cho người đó và cũng chỉ nên giảm nhẹ cho riêng người đó. Còn những người khác, nếu họ phạm tội thì không thể được hưởng khoan hồng như đối với người mẹ.

Bản Dự thảo quy định trong Điều 154: “người mẹ nào do chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt mà giết con mới đẻ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm...”

Tội hiếp dâm trẻ em (Điều167)

Trên tinh thần bảo vệ triệt để trẻ em, Điều 167 quy định mọi trường hợp giao cấu với trẻ em từ 13 tuổi trở xuống đều coi là hiếp dâm; việc giao cấu mặc dù được trẻ em thỏa thuận cũng vẫn coi là hiếp dâm.

B- Mục B quy định 9 tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân (các Điều từ 173 đến 181) như xâm phạm quyền bầu cử, quyền được bầu, quyền lao động, quyền tự do thân thể, quyền bình đẳng của phụ nữ,...

Quyền lao động là một trong những quyền cơ bản của công dân. Trong một thời gian nữa, ở nước ta còn tồn tại 5 thành phần kinh tế. Vì vậy, Điều 174 quy định tội sa thải trái phép người lao động hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật lao động, để xử lý thích đáng những trường hợp làm trái pháp luật, vượt phạm vi xử lý bằng biện pháp hành chính.

Đối với một số quyền tự do dân chủ, có chú ý cả hai mặt: trừng trị những hành vi xâm phạm các quyền tự do dân chủ của công dân, đồng thời cũng phòng ngừa những hành vi lạm dụng các quyền đó.

Chương V: Các tội xâm phạm sở hữu của công dân

Hiến pháp quy định trong Điều 27: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ”. Trong xã hội ta, do xóa bỏ chế độ người bóc lột người, do mỗi người đều có quyền và có nghĩa vụ lao động để xây dựng đất nước và xây dựng đời sống ấm no của bản thân nên những tài sản hợp pháp thuộc sở hữu cá nhân ngày càng nhiều. Chương V trừng trị những tội xâm phạm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt của công dân đối với các tài sản trên đây.

Hiện nay, ta vẫn áp dụng Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân thông qua ngày 21-10-1970.

Chương V về cơ bản lấy lại nội dung của Pháp lệnh ngày 21-10-1970 nhưng có bổ sung sửa đổi ít nhiều. Có thêm những tội mới và mức hình phạt đối với một số tội có tăng lên. Tội mới chưa có trong Pháp lệnh ngày 21-10-1970 là tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân. Tội này chủ yếu xảy ra ở những vùng mới giải phóng; nó mang tính chất đặc biệt nguy hiểm, vì vậy, Điều 185 dự kiến là có thể phạt tới tù chung thân, tử hình.

Chương VI: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân, gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên

A- Luật hôn nhân và gia đình đã được thông qua ngày 29-12-1959. Ở miền Bắc, về cơ bản, luật được thi hành tốt. Tuy nhiên, những hành vi trái luật như tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, lấy vợ lẽ, thông gian, hành hạ, ngược đãi vợ con, v.v. vẫn còn xảy ra nhiều.

Từ năm 1977, Luật hôn nhân và gia đình đã được công bố để thi hành thống nhất trong cả nước. Thời gian còn ngắn, tác dụng của Luật ở miền Nam còn rất hạn chế.

Hiện nay, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cùng một số cơ quan đang tiến hành khảo sát tình hình hôn nhân và gia đình nhằm chuẩn bị một dự thảo luật mới. Đối với xã hội ta, sau mấy chục năm chiến tranh với những hậu quả hết sức nặng nề, sáng kiến của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là rất hợp thời cơ, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân.

Trước mắt, muốn Luật hôn nhân và gia đình hiện hành được thi hành tốt, thì phải tuyên truyền, vận động thường xuyên, liên tục, sâu rộng. Trong việc xử lý các hành vi vi phạm luật, chủ yếu là phân rõ phải trái, phê phán, giáo dục để người vi phạm nhận rõ sai lầm, tự nguyện sửa chữa, hàn gắn, củng cố những quan hệ bị xâm phạm. Chỉ xử lý bằng biện pháp hình sự trong một số ít trường hợp thật cần thiết và hình phạt nói chung nhẹ, thường là phạt cải tạo không giam giữ và đối với nhiều tội có thể chỉ phạt cảnh cáo. Dù là xử lý về hình sự cũng phải cân nhắc ý kiến, nguyện vọng của người trong cuộc. Đã có nhiều trường hợp trong đó bản thân người bị hại không muốn người phạm tội bị phạt nặng sẽ gây khó khăn cho gia đình.

Bởi vậy, cần phải đấu tranh kiên quyết chống thái độ coi thường pháp luật, vi phạm trắng trợn Luật hôn nhân và gia đình, nhưng mặt khác cũng tránh khuynh hướng trừng trị tràn lan và trừng trị nặng.

Tinh thần trên đây đã chỉ đạo việc biên soạn Chương VI và sau này cũng sẽ chỉ đạo việc áp dụng các điều luật của Chương VI.

Chương VI quy định 4 tội xâm phạm quan hệ hôn nhân và 5 tội xâm phạm quan hệ gia đình.

B- Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta được thể chế hóa trong Hiến pháp. Pháp lệnh ngày 14 tháng 11 năm 1977 quy định cụ thể việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Chương VI quy định 4 tội nhằm trừng trị những hành vi vi phạm nghiêm trọng các nghĩa vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, gây tổn hại cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em.

Chương VII: Các tội xâm phạm trật tự, an toàn công cộng

Cùng với việc bảo vệ an ninh chính trị, Nhà nước ta giữ gìn trật tự, an toàn công cộng nhằm bảo đảm cuộc sống lao động sáng tạo, lành mạnh, hạnh phúc của nhân dân. Điều 78 Hiến pháp nói rõ công dân có nghĩa vụ “bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội”, “tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa”.

Chương VII quy định 19 tội chia thành hai nhóm: Các tội xâm phạm trật tự công cộng;

Các tội xâm phạm an toàn công cộng.

A- Mục A quy định các tội xâm phạm trật tự công cộng.

Song song với việc xây dựng và thực hiện trật tự xã hội chủ nghĩa trong đời sống kinh tế, chúng ta xây dựng và thực hiện trật tự xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội, một trật tự thể hiện nền văn hóa mới do con người mới làm chủ.

Mục A quy định những tội như tội gây rối trật tự công cộng; tội chứa mãi dâm hoặc môi giới mãi dâm; tội tổ chức dùng ma túy; tội đánh bạc; tội chứa gá bạc; tội hoạt động mê tín dị đoan, gây hậu quả nghiêm trọng; tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có;...

B- Mục B quy định các tội xâm phạm an toàn công cộng.

Đây là những hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ an toàn trong các lĩnh vực hoạt động của đời sống công cộng, gây tổn hại đến lợi ích của xã hội, đến tính mạng và tài sản của nhân dân.

Có những tội như: tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải, gây hậu quả nghiêm trọng (mức án đối với tội này có thể lên tới tù chung thân, tử hình); tội vi phạm các quy định về an toàn lao động, an toàn ở những nơi sinh hoạt đông người, gây hậu quả nghiêm trọng; tội vi phạm các quy định về quản lý vũ khí, phương tiện kỹ thuật, chất nổ, chất cháy, chất phóng xạ hay chất độc hại; tội vi phạm các quy định về chữa bệnh, chế thuốc, bán thuốc, gây hậu quả nghiêm trọng,...

Chương VIII: Các tội xâm phạm trật tự quản lý

Một trong những vấn đề cấp bách hiện nay là tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước. Muốn vậy, phải kiện toàn bộ máy Nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, cải tiến phương pháp hoạt động, đổi mới phong cách làm việc của các cơ quan nhà nước. Mặt khác, không ai được gây trở ngại cho hoạt động của cơ quan nhà nước, mọi người phải chấp hành nghiêm chỉnh những quy định mang tính chất chung cũng như những quyết định hợp pháp giải quyết những vấn đề cụ thể của cơ quan nhà nước.

Chương VIII quy định 9 tội trong đó có những tội như: tội chống lại người đang làm công vụ; tội giả mạo chức vụ; tội không chấp hành các quyết định hành chính về quản chế, cấm cư trú hoặc lao động bắt buộc; tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở và đất xây dựng;...

Chương IX: Các tội phạm về chức vụ

Hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội tùy thuộc một phần không nhỏ ở những người có chức vụ thực hiện đúng đắn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Điều 8 Hiến pháp xác định: "tất cả các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân... Nghiêm cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền". Tuyệt đại đa số nhân viên nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội nêu cao đạo đức xã hội chủ nghĩa, hết lòng vì nước, vì dân. Nhưng cũng có một số người thoái hoá, biến chất, tham ô, hối lộ, lạm quyền, ức hiếp quần chúng... Nghị quyết của Đại hội lần V của Đảng nói rõ "phải xử lý nghiêm minh những cán bộ, nhân viên lợi dụng chức quyền để làm trái pháp luật".

Chương IX trừng trị những hành vi của chính những người có chức vụ trong khi thi hành nhiệm vụ đã xâm phạm sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, xâm phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân.

Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hay do một hình thức khác mà được cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội giao thực hiện một công vụ nhất định. Trong khi thực hiện công vụ, người có chức vụ có những quyền hạn cụ thể.

Người không giữ một chức vụ thường xuyên, nhưng trong những trường hợp nhất định được giao thi hành một công vụ, thì cũng được coi là người có chức vụ (thí dụ: thanh niên cờ đỏ làm nhiệm vụ giữ trật tự).

Người có chức vụ có thể là người được hưởng lương hay không hưởng lương.

Những người có chức vụ nhưng lợi dụng người có chức vụ để xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, của tổ chức xã hội cũng phải chịu trách nhiệm hình sự.

Chương IX quy định 8 tội, trong đó, 4 tội đã được ghi trong Pháp lệnh ngày 20-5-1981: tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ, tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Trong 4 tội này thì 3 tội đầu đều bị phạt tội nặng: có thể phạt tù tới 20 năm, chung thân.

Có 4 tội mới: tội lợi dụng quyền hạn hoặc vượt quyền làm trái với công vụ, gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước, của xã hội hoặc lợi ích hợp pháp của công dân (Điều 245), tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 246) (nếu không gây hậu quả nghiêm trọng thì xử lý bằng biện pháp khác, không xử lý về hình sự), tội giả mạo trong công tác (Điều 247), tội đào nhiệm (Điều 248) (lôi kéo người khác cùng đào nhiệm, đào nhiệm trong thời chiến, đào nhiệm ra nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài đều là những trường hợp bị phạt nặng).

Chương X: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp

Các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và tư pháp khác có nhiệm vụ, theo chức năng của mình, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, gìn giữ pháp chế xã hội chủ nghĩa, xử lý theo pháp luật những hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi hợp pháp của công dân.

Muốn các cơ quan trên đây thực hiện tốt nhiệm vụ, cần bảo đảm sự hoạt động đúng đắn của nó.

Hơn ai hết, cán bộ điều tra, cán bộ kiểm sát, cán bộ xét xử, cán bộ tư pháp khác phải đề cao ý thức tuân theo pháp luật, đạo đức chí công vô tư, cần kiệm liêm chính. Đây là điều kiện đầu tiên bảo đảm sự đúng đắn của hoạt động tư pháp.

Những người có liên quan đến công tác tư pháp (bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người làm giám định, người bào chữa, người phiên dịch) cũng phải làm đầy đủ nhiệm vụ của mình. Bất cứ ai dù ở cương vị nào cũng không được can thiệp một cách trái pháp luật vào công việc của các cơ quan tư pháp.

Để bảo đảm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp, Chương X quy định 17 tội, chia thành những nhóm sau đây:

- Những tội do nhân viên tư pháp phạm: tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội; tội ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật; tội bức cung; tội dùng nhục hình.

- Những tội do người có liên quan đến công tác tư pháp phạm (bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người giám định, người bào chữa, người phiên dịch...): tội cung cấp tài liệu sai sự thật, khai báo gian dối; tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định; tội trốn khỏi nơi giam, giữ;...

- Những tội do người không liên quan đến tố tụng phạm: tội che giấu tội phạm; tội không tố giác tội phạm; tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật; tội cản trở việc thi hành án;...

Có mấy điểm đáng lưu ý:

Điều 268 quy định tội che giấu tội phạm. Điều 18 thuộc phần chung đã định nghĩa thế nào là che giấu: không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện, đã che giấu người phạm tội, các dấu vết, tang vật của tội phạm, v.v.. Nếu có hứa hẹn trước thì là người đồng phạm, không phải là người che giấu và trách nhiệm hình sự nói chung sẽ nặng hơn.

Điều 256 quy định tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật. Trong thực tế, đã xảy ra không ít trường hợp cán bộ có chức quyền, do động cơ cá nhân, ép buộc cán bộ tư pháp bắt giam, truy tố, xét xử trái pháp luật. Hành vi đó trái Hiến pháp, làm mất tính chất khách quan, chí công vô tư của công tác tư pháp, có khi gây hậu quả nghiêm trọng. Điều 256 quy định những người có hành vi này phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, hình phạt dự kiến không nặng (cao nhất là 5 năm tù), vì trong việc bắt giam, truy tố, xét xử trái pháp luật, trách nhiệm chính vẫn thuộc về cán bộ tư pháp đã không làm tròn trách nhiệm bảo vệ chân lý.

Chương XI: Các tội phạm về quân sự

Nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn cách mạng hiện nay vẫn rất nặng nề. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm việc xây dựng quân đội chính quy, hiện đại, có sức chiến đấu cao, luôn luôn sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh của quân đội do nhiều yếu tố tạo nên nhưng trước hết là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ở ý thức tổ chức chặt chẽ của cán bộ và chiến sĩ. Kỷ luật tự giác, nghiêm minh là nét tiêu biểu phẩm chất của người chiến sĩ quân đội cách mạng, là truyền thống tốt đẹp của quân đội. Giữ nghiêm kỷ luật ở mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh là yêu cầu bắt buộc đối với mọi cán bộ, chiến sĩ quân đội.

Để góp phần củng cố kỷ luật, tăng cường sức chiến đấu của quân đội, Chương XI quy định những tội về quân sự.

Những người phạm tội quân sự là:

- Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện;

- Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội;

- Dân quân, tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội;

- Những người khác được luật quy định thuộc các lực lượng vũ trang.

Ngoài những tội quy định trong Chương này, quân nhân có thể phạm những tội quy định ở các Chương khác; trong những trường hợp này, họ phải chịu trách nhiệm hình sự như những công dân khác phạm tội (có điều là việc xét xử thuộc Toà án quân sự).

Chương XI quy định 25 tội chia thành những nhóm sau đây:

- Những tội xâm phạm quan hệ chỉ huy - phục tùng hoặc quan hệ đồng đội: tội không phục tùng mệnh lệnh; tội không nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh; tội lăng nhục, hành hung người chỉ huy hoặc cấp trên; tội đánh đập, hành hạ, xỉ nhục quân nhân dưới quyền;...

- Những tội xâm phạm kỷ luật trong chiến đấu: tội đầu hàng địch; tội bỏ vị trí chiến đấu;...

- Những tội xâm phạm chế độ phục vụ và các quy tắc công tác hằng ngày: tội đào ngũ; tội trốn tránh nhiệm vụ; tội cố ý hủy hoại vũ khí và phương tiện chiến đấu;...

- Những tội xâm phạm quan hệ quân-dân-chính: tội quấy nhiễu nhân dân; tội lạm dụng nhu cầu quân sự.

Chương XII: Các tội ác phá hoại hòa bình và chống loài người

Đây là một loại tội cực kỳ nguy hiểm, xâm phạm nền hòa bình khu vực hay thế giới, xâm phạm sự tồn tại và sự phát triển của một bộ tộc, một chủng tộc, một dân tộc hoặc một tôn giáo, phá hoại nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia.

Hòa bình là nguyện vọng của loài người. Ngày nay, đấu tranh cho hòa bình là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của mỗi dân tộc.

Pháp luật quốc tế lên án và trừng trị tội ác xâm lược, tội ác phá hoại hòa bình, tội ác diệt chủng, tội ác diệt sinh,...

Nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã quy định những tội ác trên đây trong Bộ luật hình sự của mình.

Việt Nam từng là nạn nhân của những tội ác trên đây mà đế quốc Mỹ đã phạm trên dưới 10 năm ở nước ta với quy mô lớn, với mức độ tàn ác, thâm độc ít thấy; hậu quả của nó còn nặng nề, dai dẳng. Gần đây, chúng ta lại là nạn nhân của cuộc xâm lược của bọn bành trướng, bá quyền...

Chúng ta đã tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn xâm lược trước dư luận thế giới, trước các tòa án quốc tế. Chúng ta đã góp phần làm phát triển pháp luật quốc tế đối với loại tội này.

Việc quy định các tội ác phá hoại hòa bình và chống loài người trong Bộ luật hình sự của Nhà nước ta sẽ có ý nghĩa chính trị - pháp lý trong nước và ngoài nước.

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Trên đây tôi đã trình bày về nội dung Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.

Bộ luật hình sự là Bộ luật đầu tiên của Nhà nước ta. Ban hành Bộ luật hình sự đánh dấu một bước phát triển mới của hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; nó có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Sau này, khi Bộ luật đã được Quốc hội thông qua, phải tổ chức tốt việc thi hành Bộ luật và công tác có ý nghĩa hàng đầu là phải tuyên truyền giáo dục sâu rộng, để động viên quần chúng đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Các cơ quan Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp phải nghiên cứu kỹ, nắm vững nội dung Bộ luật và thường xuyên rút kinh nghiệm để cải tiến công tác. Các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội cũng có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc quyền mình quản lý về ý thức bảo vệ và tuân theo pháp luật, kịp thời có những biện pháp loại trừ những nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm và các vi phạm pháp luật khác trong cơ quan, tổ chức mình. Cần đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm.

Tiếp theo Bộ luật hình sự, cần khẩn trương chuẩn bị và trình Quốc hội Bộ luật tố tụng hình sự. Bộ luật hình sự là cần thiết để xác định những hành vi nào nguy hiểm cho xã hội bị Nhà nước ta coi là tội phạm và hình phạt có thể áp dụng đối với mỗi tội phạm. Nhưng muốn cho Bộ luật hình sự phát huy tác dụng, phải đặt ra những quy tắc bảo đảm cho tội phạm được phát hiện nhanh chóng, chính xác, được xử lý kịp thời và đúng đắn theo phương châm "xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật". Đây là nhiệm vụ của tố tụng hình sự. Bởi vậy, tiếp theo Bộ luật hình sự, việc soạn thảo Bộ luật tố tụng hình sự cũng cần được xúc tiến để có thể sớm ban hành.

 

Toàn văn Văn kiện
lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội