BÁO CÁO
CÔNG TÁC CỦA HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC
TẠI KỲ HỌP THỨ 6, QUỐC HỘI KHÓA VII
Thưa các
đồng chí đại biểu Quốc hội,
Chúng tôi xin
báo cáo với Quốc hội về công tác của Hội đồng Nhà nước, Hội đồng dân tộc và
các Ủy ban thường trực của Quốc hội, từ kỳ họp thứ 5 của Quốc hội đến nay.
I- CÔNG TÁC LẬP PHÁP
Sau khi Luật
tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 30
tháng 6 năm 1983, Hội đồng Nhà nước đã giao cho Văn phòng Quốc hội và Hội
đồng Nhà nước phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành việc phổ biến,
tuyên truyền luật này trên các báo, đài, đồng thời chuẩn bị văn bản của Hội
đồng Nhà nước hướng dẫn việc thi hành Luật. Hội đồng nhân dân các tỉnh,
thành phố và cấp tương đương đã nghiên cứu luật này và có kế hoạch phổ biến
xuống cơ sở.
Tại phiên họp
tháng 10 năm 1983, Hội đồng Nhà nước đã cho ý kiến về dự thảo Luật bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân. Sau khi đã lấy ý kiến của các cơ quan, đoàn thể,
các địa phương và các đại biểu Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng đã hoàn chỉnh
bản Dự thảo luật này để trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6.
Ngày 01 tháng
8 năm 1983, Hội đồng Nhà nước đã cho đăng báo Phần chung của Bộ luật hình sự
đã được Quốc hội thông qua sơ bộ ngày 30 tháng 6 năm 1983 để nhân dân biết
và tham gia ý kiến, góp phần vào việc xây dựng pháp luật. Đồng chí Chủ tịch
Quốc hội đã có văn bản hướng dẫn các đoàn đại biểu Quốc hội tham luận góp ý
kiến về Dự thảo Phần các tội phạm. 40 đoàn đại biểu Quốc hội đã thảo luận và
có văn bản gửi đến Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, góp ý kiến về Dự
thảo.
Trong hai
phiên họp ngày 28 tháng 9 và ngày 28 tháng 10 năm 1983, Hội đồng Nhà nước đã
nghe Ban Dự thảo Bộ luật hình sự báo cáo về ý kiến đóng góp của các cơ quan,
đoàn thể, các địa phương và các đại biểu Quốc hội về Dự thảo Phần các tội
phạm và cho ý kiến chỉnh lý. Ngày 16 tháng 10 năm 1983, trong cuộc họp với
Ban Dự thảo và các cơ quan có liên quan, đồng chí Chủ tịch Hội đồng Nhà nước
đã cho thêm ý kiến để nghiên cứu, sửa bản Dự thảo cho tốt hơn, sắp xếp lại
các chương, điều có trật tự và hợp lý hơn, bổ sung những điều cần thiết để
phục vụ tốt công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sau khi Ủy ban pháp luật thẩm tra, Dự thảo Phần các tội phạm đã được chỉnh
lý và trình Quốc hội thông qua sơ bộ tại kỳ họp này.
Nhằm động viên
nguồn vốn trong nhân dân góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa nước nhà, tại phiên họp ngày 25 tháng 11 năm 1983, theo đề nghị của
Hội đồng Bộ trưởng, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh về việc phát
hành Công trái xây dựng Tổ quốc.
Nhìn chung,
những luật và pháp lệnh đã ban hành hoặc đang dự thảo trong 6 tháng qua đáp
ứng yêu cầu về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, góp phần vào cuộc
đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh giữa hai con đường, chống các hiện
tượng tiêu cực trong đời sống kinh tế - xã hội, củng cố và tăng cường Nhà
nước chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động, từng bước nâng cao vai trò của các cơ quan quyền lực nhà nước.
Tuy nhiên,
chương trình làm luật 6 tháng cuối năm 1983 không thực hiện được theo dự
kiến. Việc chuẩn bị các dự thảo luật và pháp lệnh còn chậm và khó khăn,
nhiều khi do chưa thể xác định được chủ trương, chính sách nên chưa viết
được điều khoản trong luật, như đối với một số vấn đề đặt ra trong Dự thảo
Pháp lệnh về đất đai.
Số luật và
pháp lệnh được ban hành còn ít, chưa đáp ứng kịp yêu cầu của tình hình và
nhiệm vụ. Đáng chú ý là Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng chưa đề ra
được quy trình làm luật thích hợp và còn thiếu những biện pháp có hiệu quả
để bảo đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh trong cả nước, từ Trung
ương đến cơ sở.
II- CÔNG TÁC GIÁM SÁT
Đi đôi với
việc xây dựng pháp luật, trong 6 tháng qua, Quốc hội, Hội đồng Nhà nước và
các Uỷ ban thường trực của Quốc hội đã quan tâm đến vấn đề làm thế nào để
pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, đã chú ý góp ý kiến với Hội đồng Bộ
trưởng và các Bộ, các ngành có liên quan về những chủ trương, biện pháp nhằm
góp phần tăng cường và cải tiến công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực
hiện kế hoạch nhà nước và một số công tác cấp thiết về quản lý kinh tế - xã
hội.
1.Đối với Hội
đồng Bộ trưởng:
Tại phiên họp
tháng 8 năm 1983, Hội đồng Nhà nước đã nghe báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng
về tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước trong 6 tháng
đầu năm 1983, nhiệm vụ chủ yếu và biện pháp chỉ đạo thực hiện kế hoạch nhà
nước trong 6 tháng cuối năm 1983.
Hội đồng Nhà
nước đã thảo luận và đã có văn bản lưu ý Hội đồng Bộ trưởng: kiểm tra, đôn
đốc thật sát sao, coi trọng năng suất, chất lượng và hiệu quả; tăng cường
chỉ đạo và điều hành các ngành quan trọng như điện, than, phân phối, lưu
thông; thực hiện tốt hơn nữa phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm";
"Trung ương, địa phương và cơ sở cùng làm"; khen thưởng và xử lý nghiêm minh
việc thực hiện kế hoạch của các ngành, các địa phương, các đơn vị cơ sở.
Tại phiên họp
tháng 11 năm 1983, Hội đồng Nhà nước đã nghe báo cáo và cho ý kiến về cuộc
vận động sinh đẻ có kế hoạch, về tình hình hợp tác, sử dụng lao động với một
số nước xã hội chủ nghĩa.
2. Đối với Tòa
án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao:
Trong các phiên họp thường lệ hàng tháng của Hội đồng Nhà nước, đồng chí
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và đồng chí Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao đã tham dự để trình bày ý kiến đối với những vấn đề có liên quan
đến công tác của hai ngành này.
Qua báo cáo
của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Nhà
nước nhận thấy tội phạm xảy ra còn nhiều, có nơi và có mặt rất nghiêm trọng.
Các ngành Tòa án, Kiểm sát đã cố gắng thực hiện nhiệm vụ của mình; việc phối
hợp giữa ba ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án trong đấu tranh chống tội phạm
có tiến bộ, góp phần giải quyết nhanh hơn những vụ án quan trọng về an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, tình hình bắt, giam, giữ
không đúng pháp luật còn nghiêm trọng, những người bị bắt oan vẫn nhiều.
Trong việc quản lý trại giam, tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết, nhất là
điều kiện ăn, ở quá khó khăn. Công việc xét xử của Tòa án nhìn chung còn
chậm, có những lệch lạc, những vụ án xét xử không được công minh, không đúng
người, đúng tội; nhiều vụ án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng việc thi hành
án để kéo dài không giải quyết làm cho việc chấp hành pháp luật không được
nghiêm. Hội đồng Nhà nước đã chỉ thị cho ngành Tòa án, kiểm sát cần nghiêm
túc sửa chữa những sai sót, đồng thời phối hợp với nhau và với Bộ Nội vụ
chặt chẽ hơn nữa, trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ của mỗi ngành; không
ngừng nâng cao trình độ tư tưởng, chính trị và nghiệp vụ cho cán bộ các cấp
của ngành mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho.
Theo đề nghị
của đồng chí Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tại phiên họp tháng
10 năm 1983, Hội đồng Nhà nước đã thảo luận và phê chuẩn Quy chế ngạch kiểm
sát viên của Viện kiểm sát nhân dân.
3. Hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban thường
trực của Quốc hội:
a) Hội đồng
dân tộc:
Hội đồng dân
tộc đã cử đoàn đi thăm Thuận Hải, Phú Khánh (tháng 8-1983) và Hà Tuyên,
Hoàng Liên Sơn (tháng 11-1983) để xem xét tình hình sản xuất, đời sống và
việc thực hiện các chủ trương, chính sách ở vùng đồng bào Chăm, Khơme, Bana,
Raclây và đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao biên giới.
Qua hai đợt
công tác, Đoàn đã góp phần động viên nhân dân các dân tộc ở 4 tỉnh nói trên
đoàn kết thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đã góp ý kiến với các địa
phương về thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.
b) Ủy ban pháp
luật:
Ngoài việc
thẩm tra các dự thảo luật và pháp lệnh, trong 6 tháng qua, Ủy ban pháp luật
của Quốc hội đã cử ba đoàn đi 9 tỉnh và thành phố để lấy ý kiến của các đại
biểu Quốc hội và cán bộ chủ chốt ở địa phương về Dự thảo Phần các tội phạm
của Bộ luật hình sự; cùng với Ban Dự thảo Bộ luật hình sự của Hội đồng Bộ
trưởng chỉnh lý bản Dự thảo để trình Quốc hội vào kỳ họp cuối năm nay.
c) Ủy ban kinh
tế, kế hoạch và ngân sách:
Tháng 8-1983,
Ủy ban đã cử đoàn đi xem xét tình hình sắp xếp lại sản xuất và xây dựng cơ
bản, tình hình phân phối, lưu thông ở Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng
Nam - Đà Nẵng. Ủy ban đã báo cáo với Hội đồng Nhà nước về tình hình thực
hiện kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước trong 6 tháng đầu năm 1983 và
kiến nghị những biện pháp nhằm thực hiện tốt kế hoạch và ngân sách trong 6
tháng cuối năm 1983.
Ủy ban đã tổ
chức cuộc họp thường trực (mở rộng) để nghe Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước báo cáo
về dự kiến một số chỉ tiêu kế hoạch nhà nước năm 1984; nghe Bộ Điện lực báo
cáo về tình hình sản xuất và phân phối điện. Thường trực Ủy ban đã làm việc
với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Mỏ và Than về vấn đề điều chỉnh một số chỉ
tiêu kế hoạch năm 1983, tình hình sản xuất than và đã trình bày ý kiến trước
Hội đồng Nhà nước về vấn đề điều chỉnh một số chỉ tiêu kế hoạch năm 1983 của
Hội đồng Bộ trưởng.
Trước khi Quốc
hội họp, Ủy ban đã họp để xem xét tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước và
ngân sách nhà nước năm 1983, phương hướng nhiệm vụ kế hoạch nhà nước và ngân
sách nhà nước năm 1984, tình hình quản lý tiền mặt và tín dụng.
Thường trực Uỷ
ban đã cùng Ủy ban pháp luật của Quốc hội thẩm tra Dự thảo Pháp lệnh về phát
hành Công trái xây dựng Tổ quốc, Dự thảo Pháp lệnh về đất đai.
d) Ủy ban văn
hóa và giáo dục:
Tháng 7-1983,
thường trực (mở rộng) của Ủy ban đã nghe đại diện của Bộ Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Bộ Giáo dục và Tổng cục Dạy nghề báo cáo kết quả 2 năm
thực hiện cải cách giáo dục và tình hình thực hiện Quyết định 126/CP về công
tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông.
Tháng 9-1983,
đoàn công tác của Ủy ban đã đi xem xét tình hình thực tế về tổ chức đời sống
văn hóa ở cơ sở, tình hình thực hiện cải cách giáo dục và công tác hướng
nghiệp.
Để chuẩn bị
đóng góp ý kiến vào dự án kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước năm 1984,
thường trực (mở rộng) của Ủy ban đã làm việc với đại diện của Uỷ ban Kế
hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục, Bộ Văn hóa, Tổng cục Dạy nghề về
tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước, ngân sách nhà nước trên các lĩnh vực
văn hóa - giáo dục trong năm 1983, về những chỉ tiêu chính trong dự án kế
hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước năm 1984.
Ủy ban đã làm
việc nhiều lần với các Bộ, ngành có liên quan để thẩm tra Dự thảo Pháp lệnh
bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa và thắng cảnh.
đ) Ủy ban khoa
học và kỹ thuật:
Sau khi nghe Bộ Công nghiệp thực phẩm trình bày về tình hình đầu tư cho việc
ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong công nghiệp chế biến thực phẩm, tháng
10-1983, Ủy ban đã cử đoàn đi xem xét tình hình nói trên, việc nghiên cứu cơ
bản có định hướng ở hai tỉnh Cửu Long, Đồng Tháp và một số cơ sở ở Thành phố
Hồ Chí Minh.
Ủy ban đã làm
việc với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, Bộ
Điện lực về số kiểm tra kế hoạch năm 1984, về tình hình lập kế hoạch khoa
học - kỹ thuật, về việc tiến hành duyệt các luận chứng khoa học - kỹ thuật,
về một số công trình xây dựng cơ bản trọng điểm, về cơ sở khoa học của việc
lập chỉ tiêu kế hoạch nhà nước.
e) Ủy ban y tế
và xã hội:
Tháng 8 và
tháng 9-1983, Ủy ban đã cử hai đoàn đi xem xét tình hình vệ sinh công nghiệp
tại nhà máy sứ Hải Dương, khu gang thép Thái Nguyên, một số cơ sở công
nghiệp ở Long An và Thành phố Hồ Chí Minh. Đã có đoàn đi xem xét tình hình
tiến hành cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch ở Hải Hưng, Thái Nguyên và Nghệ
Tĩnh. Ủy ban cũng đã cử đoàn đi Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên để xem xét tình
hình cứu trợ đồng bào bị thiên tai.
Tháng 10-1983,
hai đoàn của Ủy ban đã đi các tỉnh Long An, Tiền Giang, Gia Lai - Kon Tum,
Nghĩa Bình để xem xét tình hình công tác y tế, xã hội, thể dục thể thao.
Tháng 11-1983,
đã có đoàn đi thăm một số cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ở Hà Nội.
Thường trực mở
rộng của Ủy ban đã nghe đại diện của Bộ Y tế, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Tổng
cục Thống kê, Tổng Công đoàn, Hội liên hiệp Phụ nữ, v.v. báo cáo về cuộc vận
động sinh đẻ có kế hoạch và đã trình bày vấn đề này trước phiên họp Hội đồng
Nhà nước tháng 11-1983.
Thường trực mở
rộng của Ủy ban đã nghe Bộ Lao động, Bộ Cơ khí và Luyện kim, Bộ Công nghiệp
nhẹ, Bộ Mỏ và Than báo cáo tình hình vệ sinh lao động và công tác phòng,
chống bệnh nghề nghiệp cho công nhân.
g) Uỷ ban
thanh niên, thiếu niên và nhi đồng:
Tháng 11 và
tháng 12 năm 1983, hai đoàn công tác của Ủy ban đã đi Hà Nam Ninh, Thái
Bình, Cửu Long, Minh Hải để xem xét việc thi hành Pháp lệnh bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em, Luật nghĩa vụ quân sự, việc bố trí lao động cho thanh
niên. Thường trực mở rộng của Ủy ban đã nghe một số Bộ, Ủy ban Nhà nước,
Tổng cục báo cáo về tình hình thi hành Pháp lệnh bảo vệ, chăm sóc, giáo dục
trẻ em trong 2 năm 1982 - 1983.
h) Ủy ban đối
ngoại:
Tháng 8-1983,
Ủy ban đối ngoại của Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Lao động báo cáo tình
hình thực hiện nghị quyết về hợp tác sử dụng lao động với một số nước xã hội
chủ nghĩa và đã báo cáo với Hội đồng Nhà nước ý kiến của Ủy ban về vấn đề
này.
4. Công tác
dân nguyện:
Từ sau kỳ họp
thứ 5 của Quốc hội đến nay, có 6.466 đơn, thư khiếu tố và dân nguyện gửi tới
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.
Số đơn tố cáo
chiếm 13%, thư dân nguyện chiếm 11%, nhiều nhất vẫn là các đơn, thư khiếu
nại về việc thi hành chính sách, pháp luật của các địa phương, các cơ quan
nhà nước, nhất là ở cơ sở đối với công dân.
Văn phòng Quốc
hội và Hội đồng Nhà nước đã tiếp 857 lượt người đến khiếu tố và trình bày
nguyện vọng.
Qua các đơn,
thư khiếu tố dân nguyện và qua việc tiếp dân, có những vấn đề đáng chú ý sau
đây:
- Tình trạng vi phạm pháp luật trong việc bắt giam, giữ vẫn là hiện tượng
phổ biến ở nhiều địa phương và có những vụ nghiêm trọng.
- Một số cán
bộ chính quyền trong các ngành kinh tế, nhất là ở cơ sở, nhà máy, hợp tác xã
tham ô, móc ngoặc, lấy vật tư, hàng hóa của Nhà nước và của tập thể, bán ra
thị trường "tự do" để kiếm lời, lạm dụng chức quyền chiếm đoạt tài sản, vật
tư và lấn chiếm đất đai của địa phương để xây nhà riêng.
- Một số người
thẳng thắn tố cáo những việc làm sai trái của cán bộ có chức có quyền, thì
bị trù dập, cách chức, hạ bậc lương, chuyển công tác khác, bị buộc thôi
việc...
- Trong thời
gian triển khai việc nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, có một số đơn, thư tố cáo một số cán bộ lãnh
đạo ngành và địa phương tham ô, lãng phí, thoái hoá, biến chất.
Sau hai năm
ban hành, Pháp lệnh quy định việc xét và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo
của công dân đã tạo được chuyển biến bước đầu trên nhận thức của cán bộ và
nhân dân, trong khâu chuyển đơn tương đối đúng thời hạn do luật định, song
việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo vẫn còn trì trệ. Có nhiều đơn bị
chuyển loanh quanh, không được giải quyết; người có trách nhiệm xử lý, thì
nể nang, tránh né; cấp dưới chưa nghiêm chỉnh thi hành ý kiến giải quyết của
cấp trên. Những sai sót đó ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với Nhà
nước.
Hội đồng Nhà
nước đã nhấn mạnh một số chủ trương và biện pháp nhằm khắc phục tình trạng
trì trệ, thực hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan trong
việc xét giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân.
5. Việc giám
sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp:
Sau khi Quốc
hội thông qua Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, hoạt động
của Hội đồng nhân dân các cấp bước đầu có chuyển biến, nhiều địa phương đã
thực hiện một số điều luật vào hoạt động của Hội đồng nhân dân, như kiện
toàn Ban Thư ký, và các ban chuyên trách của Hội đồng nhân dân. Phần lớn các
địa phương đã tổ chức các kỳ họp Hội đồng nhân dân đúng theo luật định, đã
chú ý kiểm điểm tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước
bàn biện pháp để hoàn thành tốt các nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch của địa
phương; nghe báo cáo công tác của Tòa án nhân dân tỉnh; nghe báo cáo tình
hình giải quyết đơn tố cáo, khiếu nại của nhân dân; phổ biến cho các đại
biểu Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Hội đồng Nhà
nước đã gửi bản Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn việc thi hành Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân để lấy ý kiến của các địa phương.
III- CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI
1. Đón tiếp
khách nước ngoài và thăm nước ngoài:
- Nhận lời mời
của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ, đoàn đại biểu Quốc hội Cuba do đồng
chí Phơlaviô Bravô Parơdô, Uỷ viên Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Cuba, Chủ
tịch Quốc hội dẫn đầu sang thăm hữu nghị nước ta từ ngày 18 đến ngày 24
tháng 10 năm 1983; đoàn đại biểu Quốc hội Mông Cổ do đồng chí Đamtríchghin
Môlômgiamxơ, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Nhân dân
cách mạng Mông Cổ, đại biểu Quốc hội, dẫn đầu sang thăm hữu nghị nước ta từ
ngày 12 đến ngày 18 tháng 11 năm 1983.
Cuộc đi thăm
của hai đoàn đã góp phần quan trọng vào việc tăng cường tình hữu nghị, đoàn
kết chiến đấu và quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa Việt Nam - Cuba và Việt Nam -
Mông Cổ.
- Đồng chí Chu
Huy Mân, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà
nước sang Praha, thay mặt Đảng và Nhà nước ta trao tặng huân chương Sao vàng
cho đồng chí Guxtavơ Huxắc, Tổng Bí thư Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Tiệp
Khắc, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc, nhân dịp đồng chí
thọ 70 tuổi.
- Đoàn đại
biểu do Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Huỳnh Tấn Phát dẫn đầu đi dự lễ Quốc
khánh lần thứ 20 của nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ.
2. Trao đổi
thư, điện với nước ngoài:
Ngoài việc
trao đổi thư và điện chúc mừng, chia buồn, thăm hỏi với nước ngoài, đáng chú
ý là:
- Ngày 3 tháng
7 năm 1983, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ
trưởng đã hưởng ứng bản tuyên bố chung ngày 28 tháng 6 năm 1983 của Hội nghị
cấp cao các nước thành viên Hiệp ước Vácsava, lên án đế quốc Mỹ và các thế
lực hiếu chiến khác đang ra sức đẩy mạnh chạy đua vũ trang, tiến hành các
chiến dịch chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, can thiệp và đe dọa
độc lập, an ninh của các dân tộc, làm cho tình hình thế giới thêm nghiêm
trọng.
- Ngày
30-9-1983, đồng chí Trường Chinh, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước, đã tiếp đồng chí Miacốpnức, Đại biện lâm thời Liên
Xô tại nước ta để bày tỏ việc Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nhiệt liệt hoan
nghênh và hoàn toàn ủng hộ bản tuyên bố ngày 28-9-1983 của đồng chí I.U.
Anđrôpôp, Tổng Bí thư Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Chủ tịch Đoàn
Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô, đó là một văn kiện hết sức quan trọng vạch
trần chính sách hiếu chiến, phản động và rất quỷ quyệt của chính quyền
Rigân, nêu rõ sáng kiến hòa bình của Liên Xô và trách nhiệm của Liên Xô đối
với vận mệnh của loài người.
- Ngày
2-11-1983, Chủ tịch Trường Chinh đã tiếp đồng chí Xanvađo Capôtê, đại biện
lâm thời Cộng hòa Cuba tại nước ta để bày tỏ tình đoàn kết chiến đấu trước
sau như một của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với Đảng, Nhà nước và nhân
dân Cuba và Nicaragoa anh em trước tình hình nghiêm trọng hiện nay ở khu vực
Trung Mỹ - Caribê, cực lực lên án chính quyền Rigân đã trắng trợn đưa quân
xâm lược Grênađa một nước độc lập, có chủ quyền, thành viên của Liên hiệp
quốc.
3. Tiếp nhận
đại diện ngoại giao của nước ngoài:
Hội đồng Nhà nước đã tiếp và nhận thư ủy nhiệm của các Đại sứ Phần Lan,
Ôxtrâylia, Rumani, Cônggô, Mali, Tây Ban Nha, Iran.
IV- VIỆC PHÊ CHUẨN HIỆP ƯỚC
Theo đề nghị của Hội đồng Bộ trưởng, trong phiên họp ngày 31 tháng 8 năm
1983, Hội đồng Nhà nước đã phê chuẩn Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn
đề biên giới giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Cộng hòa Nhân dân
Campuchia, đáp ứng nguyện vọng lâu đời của nhân dân hai nước, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị giữa hai
nước.
V- VẤN ĐỀ ĐẶC XÁ
Nhân dịp Quốc
khánh 2-9, theo đề nghị của Hội đồng Bộ trưởng, trong phiên họp ngày 30
tháng 8 năm 1983, Hội đồng Nhà nước đã quyết định tha và ân giảm cho những
phạm nhân có án tù đã cải tạo tốt.
VI- VẤN ĐỀ TỔ CHỨC VÀ NHÂN SỰ CỦA NHÀ NƯỚC
1. Về tổ
chức: Theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, tại phiên họp ngày
16-12-1983, Hội đồng Nhà nước đã phê chuẩn việc thành lập Tổng cục Điện tử
và Kỹ thuật thông tin học, cơ quan trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng.
2. Về nhân
sự của Hội đồng Bộ trưởng: Theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
tại phiên họp ngày 29 tháng 10 năm 1983, Hội đồng Nhà nước đã quyết định cử
đồng chí Hoàng Quy, giữ chức Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm thứ nhất Uỷ ban Kế
hoạch Nhà nước.
3. Về bổ
nhiệm Đại sứ:
Tại phiên họp
ngày 25 tháng 11 năm 1983, Hội đồng Nhà nước đã quyết định bổ nhiệm Đại sứ
đặc mệnh toàn quyền của nước ta ở Cộng
hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên; ở Tây Ban Nha; ở Ôxtrâylia kiêm Niu
Dilân, Vanuatu, ở Manđivơ.
VII- CÔNG TÁC KHEN THƯỞNG
Hội đồng Nhà
nước đã quyết định:
- Tặng Huân
chương Sao vàng cho đồng chí Vôichếch Iarudenxki, Bí thư thứ nhất Ủy ban
Trung ương Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan, đã có những cống
hiến to lớn vào việc củng cố và tăng cường tình hữu nghị anh em, tình đoàn
kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Ba Lan.
- Tặng Huân
chương Độc lập cho 5 cán bộ đã có nhiều cống hiến đối với sự nghiệp cách
mạng, 1 đơn vị đã lập nhiều thành tích trong công cuộc xây dựng đất nước.
- Tặng Huân
chương Lao động cho 9 chuyên gia Liên Xô đã có nhiều thành tích xuất sắc
trong thời gian công tác ở Việt Nam; 303 đơn vị và 24 cá nhân đã có thành
tích xuất sắc trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước và trong chiến đấu,
phục vụ chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc.
- Tặng Huân
chương Kháng chiến cho 1 gia đình đã có nhiều người tham gia các lực lượng
vũ trang nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
- Tặng Huân
chương Chiến công cho 39 chuyên gia Liên Xô đã có công giúp Việt Nam trong
việc bảo vệ đất nước; 78 liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ
quốc tế và bảo vệ Tổ quốc; 487 đơn vị và 3.235 cá nhân thuộc Quân đội nhân
dân Việt Nam đã có thành tích xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
- Tặng Huân
chương Giải phóng cho 324 gia đình thuộc các tỉnh Long An, Tiền Giang, Sông
Bé đã có nhiều người thân thoát ly tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước.
- Tặng Huân chương Hữu nghị cho 1 đơn vị và 13 cá nhân thuộc các nước Liên
Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Hunggari và Cuba, đã có công giúp Việt Nam trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
VIII- HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI,
ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Sau kỳ họp thứ
5 của Quốc hội khóa VII, trở về địa phương, các Đoàn đại biểu Quốc hội đã
báo cáo kết quả của kỳ họp Quốc hội trong các cuộc tiếp xúc với cử tri, các
Hội nghị cán bộ, các cuộc họp của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố. Một số
đoàn đã đi báo cáo ở những vùng xa, hẻo lánh, biên giới, hải đảo, được quân
dân địa phương hoan nghênh.
Thực hiện quy
chế về đại biểu Quốc hội, đến nay đã có 37 đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức
việc tiếp dân (3 đoàn chưa tổ chức việc tiếp dân là Thanh Hóa, Sông Bé, Bến
Tre). Các đoàn đã cố gắng duy trì việc tiếp dân đều đặn và ngày càng có
nhiều kinh nghiệm tốt. Nhiều đoàn đã phát hiện các sai sót của địa phương
trong việc chấp hành các chế độ, chính sách và có kiến nghị kịp thời với các
cấp chính quyền. Đoàn đại biểu Quốc hội ở thành phố Hà Nội, tỉnh Hà Nam Ninh
đã đề nghị Ủy ban nhân dân và một số ngành ở địa phương đến báo cáo tình
hình về một số mặt đáng quan tâm ở địa phương và có ý kiến đề xuất với địa
phương cũng như trung ương.
Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh, thành phố và cấp tương đương, nói chung đang nghiên cứu cải
tiến nội dung hoạt động theo sự chỉ đạo của Hội đồng Nhà nước, đưa hoạt động
vào nền nếp và có hiệu quả. Hội đồng nhân dân cấp huyện, nhất là ở cấp cơ sở
hoạt động còn yếu, chưa thật sự phát huy được chức năng của mình. Có nhiều
đại biểu không tham dự đông đủ kỳ họp Hội đồng nhân dân, việc chuẩn bị và
nghiên cứu, xem xét các đề án còn có những thiếu sót, đã được Hội đồng Nhà
nước nhắc nhở để sửa chữa kịp thời.
Thưa các
đồng chí đại biểu Quốc hội,
Trên đây là
những điểm chính về công tác của Hội đồng Nhà nước, Hội đồng dân tộc và các
Uỷ ban thường trực của Quốc hội, về hoạt động của các đại biểu Quốc hội
trong thời gian từ kỳ họp thứ 5 của Quốc hội đến nay. Hội đồng Nhà nước xin
báo cáo với các đồng chí đại biểu Quốc hội.