VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 1) 1981 - 1983

 

BÁO CÁO CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
VỀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ KẾ HOẠCH
KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1984  VÀ MỨC PHẤN ĐẤU NĂM 1985
(Do ông Võ Văn Kiệt, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,  Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước
 trình bày tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa VII, ngày 20-12-1983)

Thưa Đoàn Chủ tịch,

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Thay mặt Hội đồng Bộ trưởng, tôi xin trình bày trước Quốc hội bản báo cáo về "phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1984 và mức phấn đấu năm 1985".

Báo cáo gồm ba phần:

1. Tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1983 và ba năm 1981 - 1983.

2. Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1984 và mức phấn đấu năm 1985.

3. Những biện pháp chủ yếu nhằm thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1984.

PHẦN THỨ NHẤT

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1983 VÀ BA NĂM 1981 - 1983

Ba năm qua, trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn do hậu quả nhiều năm chiến tranh trước đây, do phải đương đầu với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, mặt khác phải khắc phục từng bước các mất cân đối lớn của nền kinh tế và những ảnh hưởng của tình hình giá cả quốc tế biến động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta trong cả nước đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi to lớn trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ tình trạng sút kém nghiêm trọng trong những năm 1979 - 1980, nền kinh tế nước ta đang chuyển biến theo hướng đi lên, ổn định dần từng mặt, tạo tiền đề cho những bước phát triển mới.

Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và thu nhập quốc dân sản xuất mỗi năm một tăng, đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình tiến tới ổn định tình hình kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển trên hầu hết các vùng. Năm 1983, mặc dù bị thiên tai nặng do hạn hán và bão lụt, sản lượng lương thực đạt xấp xỉ mức kế hoạch 17 triệu tấn. Thành tựu nổi bật là ba năm qua sản lượng lương thực bình quân hàng năm tăng gần 1 triệu tấn, trong khi các năm 1976 - 1980 mức tăng đó chỉ vào khoảng 20 vạn tấn. Nhờ vậy, tuy dân số tăng thêm 3,7 triệu, nhưng lương thực bình quân đầu người vẫn từ 268 kg năm 1980 lên gần 300 kg năm 1983. Nhiều địa phương có tiến bộ rõ về thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật, về áp dụng các chính sách đòn bẩy; một số điển hình 8-10 tấn thóc/ha trên diện tích rộng hàng vạn hécta đã xuất hiện, và ngay trên vùng cao cũng đã có một số hợp tác xã đạt trên 7 tấn/ha, chỉ rõ khả năng thâm canh còn rất lớn của nông nghiệp nước ta.

Huy động lương thực năm 1983 đạt 3,75 triệu tấn, tăng 80 vạn tấn so với năm 1982. Trong 3 năm 1981 - 1983, mức huy động bình quân mỗi năm tăng 1 triệu tấn so với mức bình quân của thời kỳ 5 năm 1976 - 1980.

Nhờ vậy, đến nay không còn phải nhập khẩu lương thực. Thắng lợi này mở ra khả năng sản xuất lương thực không những đủ ăn, mà còn có thêm dự trữ.

Diện tích cây công nghiệp tăng 8% so với năm 1982. Một số cây quan trọng tăng khá như lạc tăng 8%, mía tăng 11%, thuốc lá tăng 13%, cao su tăng 18%, cà phê tăng 20%, dâu tằm tăng 46%. Điều đáng mừng là nhận thức trong các cấp, các ngành và trong nhân dân ngày một sáng tỏ về một nền nông nghiệp phát triển toàn diện, trong đó cây công nghiệp đóng vai trò trọng yếu. Nhiều địa phương đã bắt đầu bố trí lại cây trồng, khai thác hợp lý đất đai và lao động, điều kiện khí hậu, thời tiết nhằm đạt hiệu quả cao. Tiến bộ trong năm 1983 tuy mới bắt đầu, song ở nhiều địa phương đã có khí thế khẩn trương.

Chăn nuôi tiếp tục phát triển, nhất là chăn nuôi gia đình. So với năm 1982, đàn lợn tăng 3%, đàn trâu tăng 3%, đàn bò tăng 8%.

Trồng rừng tập trung đạt 7,5 vạn hécta, vượt kế hoạch 1,5 vạn hécta và tăng 25% so với năm 1982. Một số địa phương đã đạt được kết quả tốt trong việc đẩy mạnh trồng cây gây rừng, bảo vệ rừng, phủ xanh đồi trọc, đất trống, thực hiện phương thức nông - lâm kết hợp.

Ngành đánh cá biển đã khắc phục được đà đi xuống trong nhiều năm. Sản lượng cá biển năm 1983 vượt kế hoạch 12% và tăng 15% so với năm 1982. Phong trào nuôi tôm, cá nước ngọt, nước lợ tiếp tục phát triển.

Sản xuất công nghiệp, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn về năng lượng, nguyên liệu và phụ tùng, nhưng do phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, khai thác các khả năng sẵn có nên duy trì và phát triển được sản xuất. Một số sản phẩm quan trọng như bơm thuốc trừ sâu, máy biến thế, động cơ điện, sà lan vận tải, phân bón, vải, lụa, xe đạp, săm lốp xe đạp, thuốc lá điếu, v.v. đạt kế hoạch và tăng so với năm 1982.

Năm 1983, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 25% so với năm 1978, là năm cao nhất trước đây; riêng giá trị công nghiệp quốc doanh Trung ương chưa đạt mức năm 1978. Trong thời kỳ 1976 - 1980, bình quân mỗi năm chỉ tăng 0,6%, nhưng trong 3 năm 1981 - 1983, đã tăng bình quân hàng năm 11,8%.

Giao thông vận tải bước đầu có những chuyển biến tốt trong công tác tổ chức quản lý, trong việc thực hiện kế hoạch. Khối lượng hàng hóa vận tải trong nước tăng 8% về tấn và tăng 14% về tấn km so với năm 1982.

Trên lĩnh vực xây dựng cơ bản, chúng ta tập trung hơn vốn đầu tư và đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình trọng điểm, nhất là công nghiệp nặng, đồng bộ hóa một số cơ sở công nghiệp, xây dựng, thủy lợi, giao thông, mở mang diện tích trồng cây công nghiệp, đẩy mạnh việc xây dựng nhà ở. Qua nhiều năm xây dựng, đến nay, đất nước ta đã và sẽ hoàn thành một số công trình then chốt về điện, cơ khí, giấy, sợi, giao thông, thủy lợi..., tạo ra năng lực sản xuất mới có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.

Nhiều địa phương huy động được thêm các nguồn vốn tự có và sức lao động tại chỗ, xây dựng thêm nhiều công trình mới về sản xuất cũng như về văn hóa, xã hội, phục vụ nhu cầu của địa phương.

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản tăng 11% so với năm 1982 trong đó vốn xây lắp tăng 18%.

Xuất khẩu năm 1983 tăng 17% so với năm 1982. Xuất khẩu hải sản có bước phát triển mới; nhiều mặt hàng nông sản và nông sản chế biến tăng khá. Các địa phương, các ngành đang triển khai trồng một số loại cây công nghiệp, đặc biệt là cây ngắn ngày và đẩy mạnh việc khai thác các nguồn thủy, hải sản có giá trị cao để tạo mặt hàng xuất khẩu chủ lực.

Quản lý thị trường bước đầu được chấn chỉnh, khối lượng thu mua tiến bộ rõ, nhất là lương thực. Việc giao nộp sản phẩm của các xí nghiệp quốc doanh có tiến bộ, nhiều mặt hàng được quản lý tốt hơn. Một số chính sách mới về phân phối thu nhập đã có tác dụng kích thích lao động, thúc đẩy sản xuất.

Đời sống của nông dân lao động, tầng lớp đông đảo nhất trong dân cư, nói chung được ổn định và có mặt được cải thiện. Đời sống công nhân và lao động trong khu vực sản xuất công nghiệp ở những nơi có điều kiện sản xuất tương đối ổn định, có giảm bớt một phần khó khăn.

Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư doanh đang được chấn chỉnh, việc quản lý và cải tạo thị trường đã đạt được những kết quả bước đầu; cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp ở các tỉnh Nam bộ gần đây được đẩy mạnh, tạo điều kiện để hoàn thành về cơ bản hợp tác hóa nông nghiệp trong năm 1985.

Công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật, điều tra cơ bản, thăm dò địa chất tiếp tục phát triển và đã thu được một số kết quả.

Các hoạt động giáo dục, văn hóa nghệ thuật, thông tin, y tế, xã hội, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, thể dục thể thao, được chú ý đẩy mạnh, từng bước tiến hành cải cách giáo dục, phong trào văn hóa - văn nghệ quần chúng tiếp tục phát triển, công tác vệ sinh, phòng bệnh có tiến bộ... Đã có những điển hình tốt về phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, về xây dựng nếp sống lành mạnh, về việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, trẻ em mồ côi, người tàn tật...

Việc đổi mới một bước công tác quản lý kinh tế và kế hoạch hóa đã có tác dụng tốt, góp phần tạo ra những thành tựu về kinh tế trong ba năm qua. Nhiều chủ trương, chính sách mới đã được tiếp tục phát huy như: thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp, mở rộng quyền chủ động của xí nghiệp, cân đối kế hoạch bằng bốn nguồn khả năng, khuyến khích mở rộng xuất khẩu, khuyến khích các hoạt động nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, đẩy mạnh xây dựng kinh tế huyện,...

Ở nhiều địa phương và một số ngành, sức mạnh làm chủ tập thể bước đầu được phát huy, đưa đến những tiến bộ về sử dụng lao động, đất đai, máy móc, thiết bị, phát triển sản xuất và tổ chức đời sống. Nhiều điển hình tốt đã làm sáng tỏ và chỉ ra cách làm ăn mới có hiệu quả, có sức thuyết phục.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Chúng ta bước vào thực hiện kế hoạch năm 1983 trong điều kiện khả năng vật chất trong tay Nhà nước không hơn năm 1982, có mặt khó khăn thêm, nhất là về năng lượng, vật tư, thời tiết không bình thường; đầu năm giá rét kéo dài, hạn hán gay gắt, đến cuối vụ mùa lại dồn dập nhiều trận bão lụt gây ra thiệt hại lớn về người và của. Tổng số thiệt hại về tài sản do các cơn bão số 6, 9, 10, sơ bộ ước tính là 4 tỷ 600 triệu đồng, sản lượng lương thực bị mất cũng trên dưới 40 vạn tấn. Nhưng nhân dân ta trong cả nước, nhất là nhân dân vùng bị bão lụt, đã phấn đấu rất kiên cường, vượt qua mọi khó khăn để thực hiện nhiệm vụ kế hoạch. Nhiều chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch như sản xuất và huy động lương thực, chăn nuôi trâu bò, sản lượng vải, giấy, khai thác cá biển, muối, diện tích trồng rừng, thép cán, máy bơm nước, bơm thuốc trừ sâu, động cơ điện, động cơ điêden, thu mua nông sản thực phẩm (thịt lợn, đường, lạc...). Một số chỉ tiêu tuy chưa đạt kế hoạch nhưng có tăng so với năm 1982 như điện, than, xi măng, diện tích cây công nghiệp, xuất khẩu, vận tải,...

Trong quá trình thực hiện kế hoạch, do tình hình thực tế đặt ra nên giữa năm 1983 phải bổ sung, sửa đổi một số chỉ tiêu:

Sản lượng điện giảm 90 triệu kilôoát giờ, do hạn hán nên nguồn thủy điện giảm và do việc huy động tổ máy số 1 của nhà máy điện Phả Lại chậm so với dự kiến ban đầu; đồng thời phải bổ sung thêm dầu để tăng phát điện cho các tỉnh miền Nam và miền Trung chống hạn.

Sản lượng than giảm 15 vạn tấn do than tồn kho còn nhiều, dành lực lượng để tăng bốc đất đá và do xuất khẩu không đạt mức dự kiến ban đầu.

Xi măng giảm 10 - 20 vạn tấn do nguồn điện không bảo đảm, việc huy động vào sản xuất nhà máy xi măng Hoàng Thạch không bảo đảm đúng tiến độ.

Kim ngạch xuất khẩu giảm 20% do một số mặt hàng không đạt kế hoạch như than đá, gạo, đỗ tương, đỗ các loại, hàng thêu, hàng thảm đay...

Tăng thêm vốn đầu tư xây dựng cơ bản để bổ sung cho các công trình trọng điểm của Nhà nước, cho yêu cầu phát triển cây công nghiệp, nuôi hải sản xuất khẩu, xây dựng thêm kho lương thực và một số cơ sở xay xát gạo, ngoài ra còn có tính đến yếu tố do tăng giá trong xây dựng cơ bản.

Bên cạnh việc điều chỉnh xuống một số chỉ tiêu thì đồng thời có tăng một số chỉ tiêu như sản xuất thép cán, động cơ điện, động cơ điêden, săm lốp ô tô, máy kéo, mì chính, sữa hộp, xuất khẩu hải sản, trồng rừng...

Đáng chú ý là việc chỉ đạo và thực hiện kế hoạch năm 1983 có tiến bộ hơn: các ngành, các cấp đã có nhiều biện pháp đẩy mạnh sản xuất và kinh doanh; các địa phương bước đầu bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây trồng theo hướng phát huy thế mạnh của mình. Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành một số chính sách giải quyết các vướng mắc, khó khăn, uốn nắn lệch lạc, thiếu sót trong quản lý kinh tế; sự chỉ đạo, điều hành từ Trung ương đến địa phương có tiến bộ hơn. Song trong quản lý và điều hành có những thiếu sót: bố trí một số chỉ tiêu kế hoạch chưa thật sát, chưa bảo đảm cân đối đồng bộ, một số địa phương, ngành còn lúng túng trong việc khai thác tiềm năng. Sự chỉ đạo của cấp trên trong không ít trường hợp vẫn chưa ăn khớp, thiếu đồng bộ. Việc cung ứng vật tư có nhiều khuyết điểm: không theo chỉ tiêu kế hoạch, tùy tiện thay đổi địa điểm giao nhận, vận chuyển không kịp thời, không đồng bộ, tiêu cực trong cung ứng vật tư, phân phối điện còn nghiêm trọng. Tình hình đó làm trở ngại không ít đến việc thực hiện kế hoạch.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Thắng lợi của ba năm qua mang ý nghĩa to lớn, dù rằng biểu hiện vật chất của nó nói chung còn ở dạng khởi đầu.

Những thắng lợi đó trước hết bắt nguồn từ đường lối đúng đắn của Đảng đề ra tại Đại hội lần thứ IV, được Đại hội lần thứ V khẳng định và được cụ thể hóa bằng các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, các chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, từ nhận thức ngày càng sâu sắc và vận dụng ngày càng sát hợp đường lối của Đảng vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng ngành và cơ sở. Đó là thắng lợi trực tiếp của những đổi mới trong cơ chế quản lý kinh tế và kế hoạch hóa, mở đầu từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV), theo hướng phát huy tinh thần tự lực tự cường của nhân dân ta, tác động và các yếu tố bên trong, khơi dậy các khả năng tiềm tàng của nền kinh tế. Đồng thời, đó cũng là kết quả của sự hợp tác toàn diện và sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác. Đó là kết quả của tinh thần phấn đầu bền bỉ, kiên cường của hàng chục triệu lao động làm chủ tập thể trong cả nước.

Thành tựu đạt được là kết quả của sự cố gắng và sức mạnh tổng hợp của cả nước, của những phong trào lao động sáng tạo rộng rãi của quần chúng nhân dân. Các địa phương và cơ sở đã nỗ lực vượt bậc. Các ngành ở Trung ương từ nông nghiệp đến công nghiệp, từ sản xuất đến phân phối, lưu thông, vận tải có nhiều cố gắng. Mọi thành tựu đều là kết quả của sự cố gắng chung, trong đó có mồ hôi của người trực tiếp sản xuất, có chất xám của nhà khoa học, kỹ thuật, có lao động sáng tạo của nhà văn học, nghệ thuật và có cả máu của chiến sĩ.

Nhân dịp này, Hội đồng Bộ trưởng trân trọng đề nghị Quốc hội nhiệt liệt biểu dương đồng bào cả nước, công nhân, nông dân, cán bộ khoa học - kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật cùng các tầng lớp lao động khác, cán bộ các ngành, các cấp đã chủ động sáng tạo, vượt qua biết bao khó khăn trở ngại, ra sức phấn đầu làm tròn nhiệm vụ trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1983. Nhiệt liệt biểu dương các lực lượng vũ trang anh hùng của chúng ta - quân đội và công an luôn luôn xứng đáng là những chiến sĩ dũng cảm bảo vệ Tổ quốc.

Nhiệt liệt hoan nghênh kiều bào đang sinh sống ở nước ngoài luôn luôn hướng về Tổ quốc và đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước.

Chúng ta nhiệt liệt cảm ơn Đảng Cộng sản, Chính phủ, nhân dân Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác đã tận tình ủng hộ, giúp đỡ có hiệu quả cả tinh thần lẫn vật chất cho chúng ta trong công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với Đảng, Chính phủ và nhân dân Lào; Đảng, Chính phủ và nhân dân Campuchia anh em đã sát cánh cùng nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế.

Chúng ta chân thành cảm ơn các Đảng Cộng sản và Công nhân, Chính phủ và nhân dân các nước bè bạn, các tổ chức quốc tế đã ủng hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước chúng ta.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Những thắng lợi trong ba năm qua đã mở ra nhiều triển vọng mới trong bước đường đi lên của đất nước ta. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần thấy rõ là cho đến nay nền kinh tế nước ta vẫn còn trong tình trạng chưa ổn định trên nhiều mặt, khó khăn còn nhiều.

Sản xuất tiến bộ chưa đều, chưa mạnh và chưa vững chắc. Lương thực mới bảo đảm nhu cầu tối thiểu về ăn và một phần nhỏ cho chăn nuôi, dự trữ lương thực không đáng kể. Mức lương thực bình quân 300kg/người là ở ranh giới giữa thiếu ăn và tạm đủ ăn. Sản lượng màu sút kém, chưa khai thác hết đất trồng màu, cũng như chưa chú trọng thâm canh màu, chế biến màu, đưa màu vào cơ cấu bữa ăn và bảo đảm thức ăn cho chăn nuôi. Nhận thức và chỉ đạo không đầy đủ đối với cây công nghiệp là thiếu sót lớn, nó khiến chúng ta chậm phá vỡ thế độc canh, hình thành nền nông nghiệp toàn diện, ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu và phát triển công nghiệp theo thế mạnh của ta trong khi chúng ta có sẵn đất đai và lao động, điều kiện khí hậu nhiệt đới, thuận lợi cho việc tăng nhanh các loại cây công nghiệp, trước hết là cây ngắn ngày. Chưa khai thác triệt để diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản, nhất là tôm, cá nước ngọt, nước lợ. Lâm nghiệp tiến bộ chậm, diện tích rừng bị đốt phá nghiêm trọng, sản lượng gỗ sút kém và lãng phí gỗ lớn. Công nghiệp quốc doanh Trung ương chưa đạt mức cao nhất trước đây. Sản xuất tư liệu sản xuất tăng chậm, không bảo đảm được nhu cầu phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Sản xuất hàng tiêu dùng phát triển chậm, một số sản phẩm thiết yếu cho đời sống nhân dân tăng không đáng kể.

Điều đáng quan tâm là năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất, xây dựng, vận tải và kinh doanh nói chung còn thấp, có mặt sa sút hơn trước; lãng phí vật tư, hàng hóa còn khá lớn, có những vụ nghiêm trọng.

Phân phối lưu thông vẫn là lĩnh vực đang có nhiều rối ren, Nhà nước chưa nắm được phần lớn hàng, tiền, chưa làm chủ được thị trường, vật giá. Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa chưa thoát khỏi cách làm ăn hành chính bao cấp, chưa vươn ra để làm chủ thị trường. Cải tạo xã hội chủ nghĩa chưa được đẩy mạnh đúng mức. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được tăng cường và củng cố, đặc biệt là khu vực quốc doanh phát triển chậm, không xứng với vai trò chủ đạo của nó trong toàn bộ nền kinh tế. Giá cả thị trường tự do tăng nhanh, liên tục, bọn đầu cơ và địch phá hoạch gây nhiều đột biến, giá Nhà nước cũng bị thay đổi nhiều lần, ảnh hưởng đến sản xuất, lưu thông, đời sống và tâm lý xã hội. Đời sống vật chất của công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang còn nhiều khó khăn, đang là yêu cầu bức xúc phải giải quyết.

Nhiều vấn đề xã hội đang đặt ra cấp bách. Các hiện tượng tiêu cực trong xã hội chưa bị ngăn chặn; công tác giáo dục thanh niên, thiếu niên nói chung chưa có chuyển biến tốt. Nhiều chỉ tiêu về mức sống văn hóa của nhân dân bị giảm sút. Tình hình dân số còn tiếp tục tăng quá nhanh có ảnh hưởng lớn đối với việc giải quyết khó khăn về kinh tế - xã hội.

Tình hình nói trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân sâu xa là nền kinh tế nước ta còn phổ biến là sản xuất nhỏ; cơ sở vật chất - kỹ thuật còn yếu; năng lượng, vật tư thiếu thốn nghiêm trọng; kẻ địch tăng cường phá hoại trên nhiều mặt, đặc biệt là trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội. Nguyên nhân chủ quan là những khuyết điểm về công tác tư tưởng và tổ chức, những khuyết điểm trong việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, trong sự chỉ đạo và tổ chức thực hiện, những nhược điểm và khuyết điểm trong cơ chế quản lý và kế hoạch hóa. Tình trạng nhiều khả năng chưa được tận dụng, lao động, đất đai và ngành, nghề chưa được khai thác tốt, nhiều năng lực sản xuất và tiền vốn còn bị lãng phí nghiêm trọng, năng suất lao động xã hội còn thấp, một phần quan trọng là do những khuyết điểm trong công tác quản lý kinh tế chậm được sửa chữa, không bảo đảm cho các cấp cùng nhau thật sự làm chủ để động viên sức mạnh tổng hợp của Nhà nước và của nhân dân, của Trung ương và địa phương. Một số chính sách về tài chính, giá cả, tiền lương, xuất nhập khẩu,... tuy đã có điều chỉnh, nhưng còn nhiều điểm chưa phù hợp, chậm được sửa đổi. Bộ máy quản lý kinh tế quá cồng kềnh, có nhiều tổ chức trung gian không cần thiết, nặng về hành chính quan liêu, xem nhẹ tổ chức kinh doanh, gây trở ngại cho sản xuất và lưu thông. Việc sắp xếp lại sản xuất, nhất là tổ chức sản xuất công nghiệp làm chậm. Việc phân công, phân cấp quản lý kinh tế còn nhiều vướng mắc chưa được giải quyết.

Đáng chú ý là có những nhận thức và hành động không phù hợp với quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước, những biểu hiện vô trách nhiệm, kém ý thức tổ chức và kỷ luật trong việc chấp hành nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tệ tập trung quan liêu, bảo thủ, trì trệ, xa thực tế, xa quần chúng, không tin ở năng lực sáng tạo của quần chúng, chậm tiếp thu cái mới, không kịp thời phục vụ sản xuất và đời sống ở cơ sở, cũng như bệnh phân tán, tản mạn, tự do tuỳ tiện, tình trạng mất cảnh giác trước các âm mưu và hành động phá hoại của địch, buông lỏng lãnh đạo và quản lý, phải được phê phán nghiêm khắc và kiên quyết khắc phục.

PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU CHỦ YẾU
CỦA KẾ HOẠCH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1984
VÀ MỨC PHẤN ĐẦU NĂM 1985

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Từ sự phân tích và đánh giá tình hình kinh tế - xã hội đã trình bày trên đây, chúng ta chẳng những rút ra được những kinh nghiệm và bài học bổ ích trong lãnh đạo và quản lý kinh tế, đồng thời cũng nhìn rõ hơn phương hướng và bước đi trong thời gian tới của những năm 80 nhằm quán triệt tốt hơn nữa đường lối chung và đường lối kinh tế, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, 4 mục tiêu kinh tế - xã hội và 10 chính sách lớn đã được nêu ra trong Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng. Theo phương hướng đó, phải tiếp tục đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp toàn diện, coi đó là mặt trận hàng đầu, khai thác đến mức cao nhất tiềm năng lao động và đất đai nhằm giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm, đẩy mạnh chăn nuôi, phát triển thật mạnh cây công nghiệp tạo thêm nguồn nguyên liệu cho công nghiệp và tăng nhanh nguồn xuất khẩu. Ra sức phát triển công nghiệp chế biến nông sản và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Phát huy những cơ sở đã có và xây dựng mới những cơ sở cần thiết về công nghiệp nặng: năng lượng, cơ khí, gang thép, điện tử, hóa chất, vật liệu xây dựng, giao thông vận tải, v.v. nhằm phục vụ phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, từng bước hình thành cơ cấu công nông nghiệp hợp lý. Tranh thủ mọi điều kiện để sớm khởi công xây dựng một số công trình công nghiệp nặng có ý nghĩa then chốt của quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà. Phát triển mạnh khoa học và kỹ thuật, văn hóa - giáo dục, y tế, v.v. phục vụ tốt công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Thực hiện cho được mục tiêu ổn định và cải thiện từng bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.

Hai năm 1984 và 1985 có giá trị hết sức quan trọng, phải hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của thời kỳ 1981 - 1985, đồng thời chuẩn bị thật tốt cho kế hoạch 1986 - 1990.

Để thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước năm 1984 và năm 1985, nhân dân ta phải tiếp tục phát huy hơn nữa y chí tự lực tự cường, tinh thần cách mạng tiến công, sức mạnh làm chủ tập thể; thực hiện tốt ba cuộc cách mạng gắn bó chặt chẽ với nhau; động viên sức mạnh tổng hợp của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và toàn dân, của Trung ương, địa phương và cơ sở thực hiện cho được quyền làm chủ, chế độ trách nhiệm và kỷ luật của các cấp quản lý, tạo ra sự chuyển biến mạnh về tư tưởng tổ chức, phát động phong trào cách mạng của quần chúng, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác.

Làm được như vậy, nhân dân ta nhất định sẽ thực hiện được những mục tiêu và nhiệm vụ kinh tế và xã hội của thời kỳ 1981 - 1985 mà Đại hội lần thứ V của Đảng đã đề ra, sẽ tạo ra thế và lực mới cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời gian tới.

Trong hai năm trước mắt, chúng ta cần nắm vững và giải quyết cho được những yêu cầu và mục tiêu chủ yếu sau đây:

Trước hết và quan trọng nhất là phải có tiến bộ rõ trong việc khai thác khả năng lao động, đất đai và năng lượng sản xuất hiện có, khẩn trương sắp xếp lại sản xuất. Lấy năng suất, chất lượnghiệu quả làm tiêu chuẩn hàng đầu về đánh giá mọi hoạt động kinh tế. Hết sức tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Phát triển sản xuất kết hợp chặt chẽ với bảo vệ sản xuất, chống địch phá hoại về kinh tế, chống đầu cơ buôn lậu, chống tham ô, lãng phí. Phấn đấu từng bước tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, tạo được tích luỹ ngày càng nhiều từ nội bộ nền kinh tế. Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất, Nhà nước nắm hàng, nắm tiền, làm chủ thị trường, giá cả, phải ổn định cho được đời sống bao gồm bảo đảm bữa ăn và hàng tiêu dùng thiết yếu của nhân dân, nhất là của công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc, trước hết ở vùng biên giới phía Bắc.

Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, năm 1985 hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở Nam bộ và công thương nghiệp ở các tỉnh miền Nam. Củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, mở rộng trận địa xã hội chủ nghĩa trong cả nước trên mọi lĩnh vực.

Tiếp tục xây dựng có trọng điểm, tăng cường một bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và làm tốt công tác chuẩn bị để triển khai xây dựng trong các năm sau.

Khẩn trương xúc tiến việc nghiên cứu chiến lược kinh tế - xã hội nhằm cụ thể hóa đường lối chung và đường lối kinh tế của Đảng cho một thời gian dài hơn.

Đưa việc kết hợp kinh tế với quốc phòng vào quy hoạch và kế hoạch kinh tế cụ thể, tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng và an ninh. Chỉ đạo chặt chẽ quân đội làm kinh tế nhằm đạt hiệu quả thiết thực, tạo mọi điều kiện khuyến khích quân đội tham gia xây dựng kinh tế.

Dưới đây là những nhiệm vụ chủ yếu của các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội và các vùng lớn trong cả nước năm 1984 và mức phấn đấu năm 1985.

A- CÁC NGÀNH

1. Ra sức đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản

a) Sử dụng tốt lao động và đất đai là mục tiêu và biện pháp quan trọng hàng đầu để tăng nhanh sản phẩm xã hội.

Trên con đường tự lực tự cường đi lên, đưa nền kinh tế và đời sống của nhân dân ta sớm vượt ra khỏi những khó khăn lớn hiện nay, không thể nào khác là phải khai thác đến mức cao nhất mọi khả năng và tiềm năng của đất nước và con người Việt Nam ta. Tiềm năng đó, về vật chất trước hết và lớn hơn cả là đất đai bao gồm đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất đã được canh tác và đất còn bỏ trống, đất tốt và đất chưa tốt cần cải tạo; bao gồm cả các loại mặt nước trong đất liền, ven biển và ngoài khơi để phát triển thủy sản. Tiềm năng về con người, trong những năm trước mắt, trước hết là sức lao động, nhất là lao động chưa có việc làm, là lao động giản đơn và lao động có kỹ thuật, kể cả lao động của các nhà khoa học. Phải có sự cố gắng phấn đấu cao nhất để trong một số năm làm cho mọi nguồn đất đai đều được khai thác và đưa vào sử dụng có hiệu quả; mọi người lao động đều có việc làm và làm việc có năng suất, chủ yếu là kết hợp với đất đai, làm ra ngày càng nhiều của cải cho xã hội, để ổn định và cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, để có tích luỹ và tăng nhanh nguồn tích lũy cho sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Trong hai năm tới, bằng mở rộng ngành, nghề, phân công lao động tại chỗ, phân bố lại lao động giữa các vùng, phấn đấu để có việc làm cho người lao động. Trước hết cho thanh niên, thực hiện cho được chỉ tiêu về phân bố lao động mà Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng đã đề ra. Khai thác một phần đáng kể đất trung du hoang hóa ở các tỉnh phía Bắc, ven biển miền Trung và đất hoang ở đồng bằng sông Cửu Long, chủ yếu bằng lực lượng lao động tại chỗ và trong từng địa phương. Khẩn trương tổ chức thực hiện việc đưa dân và lao động đến xây dựng kinh tế ở các vùng Tây Nguyên, Đông Nam bộ và biên giới phía Bắc, chủ yếu để phát triển mạnh cây công nghiệp, vừa xây dựng kinh tế, vừa góp phần củng cố quốc phòng. Năm 1984, đưa đi 12 vạn lao động, 30 vạn nhân khẩu. Đối với đồng bằng sông Cửu Long, tiến hành phân bố lại lao động trong tỉnh và trong vùng, nhằm thâm canh, tăng vụ, đưa ngày công lao động lên 200 ngày/năm và khẩn trương chuẩn bị tốt mọi điều kiện để tiếp nhận lao động từ nơi khác đến nhằm cơ bản sử dụng hết 50 vạn hécta đất hoang hóa. Ở các thành phố và thị xã, cần chú trọng tổ chức lao động vào các ngành, nghề tiểu, thủ công nghiệp và mạng lưới dịch vụ, đặc biệt là làm gia công, chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời, bố trí lao động để khai thác cho hết đất đai ngoại thành và tích cực đưa lao động đi xây dựng các vùng kinh tế. Nếu kể cả việc tổ chức định canh, định cư, tính chung trong năm 1984 cần sắp xếp và bố trí lại lao động và dân cư khoảng 70 vạn người. Cần tích cực chuẩn bị điều kiện để thực hiện phân bố lại lao động trên phạm vị cả nước trong các năm sau.

Các lực lượng vũ trang đóng trên từng địa bàn cần phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền địa phương tổ chức và sử dụng tốt năng lực lao động của mình để trồng và bảo vệ rừng, làm đường, xây dựng thủy lợi - thủy điện và tham gia các hoạt động sản xuất, xây dựng khác.

Trong khu vực Nhà nước, kiên quyết giảm biên chế hành chính và gián tiếp sản xuất, bảo đảm tăng nhanh năng suất lao động.

Để thực hiện mục tiêu trên đây, phải xây dựng các chương trình và kế hoạch đồng bộ, có các chính sách cụ thể thích hợp và sự chỉ đạo tập trung của các cấp lãnh đạo Đảng và chính quyền, phải thực hiện cho được chủ trương lấy huyện làm địa bàn cơ bản để bố trí và sử dụng tốt lao động, đất đai, mở mang ngành, nghề. Trước mắt, phải thực hiện ngay chính sách và sớm ban hành luật về nghĩa vụ lao động. Trong năm 1984, huy động khoảng 10 vạn thanh niên đi lao động nghĩa vụ xây dựng các tuyến đường giao thông, các công trình trọng điểm, các vùng phát triển kinh tế lớn do Trung ương phụ trách. Các địa phương cần có kế hoạch huy động lao động nghĩa vụ phục vụ yêu cầu của địa phương.

b) Nắm vững mục tiêu quan trọng nhất là đẩy mạnh sản xuất lương thực (cả lúa và màu). Mặc dù chúng ta đã giành được thắng lợi to lớn trên mặt trận sản xuất lương thực, nhưng cần thấy rằng hiện nay và trong một số năm tới, chúng ta còn phải tiếp tục phấn đấu mạnh hơn nữa, để tăng nhanh sản lượng lương thực, bảo đảm nhu cầu của toàn xã hội ở mức khá hơn và vững chắc hơn, nhất là cho những vùng hiện đang còn có nhiều khó khăn về lương thực, đồng thời tạo ra dự trữ cần thiết về lương thực. Năm 1984, để có đủ ăn, có phần dành cho chăn nuôi và có dự trữ, phải đạt cho được sản lượng 18 triệu tấn, trong đó 15,7 triệu tấn thóc và 2,3 triệu tấn màu quy thóc. Nhà nước huy động ít nhất 4,3 triệu tấn. Năm 1985, đạt mục tiêu sản xuất trên 19 đến 20 triệu tấn lương thực.

Biện pháp chính là nâng độ đồng đều trên toàn bộ diện tích gieo trồng, nâng mức thâm canh lúa trên những vùng có tỷ suất lương thực hàng hóa cao và các vùng có nhu cầu lương thực mà khó vận chuyển nơi khác đến, đi đôi với tăng vụ, mở thêm diện tích, chủ yếu ở miền Nam và khu IV cũ. Diện tích gieo trồng lúa trong cả nước phải đạt 5,76 triệu hécta năm 1984 và 5,8 triệu hécta năm 1985, trong đó vùng lúa năng suất cao là 2 triệu hécta. Năng suất lúa bình quân 1 hécta gieo trồng năm 1984 là 27,3 tạ và năm 1985 là 29,8 tạ, ở vùng có năng suất cao là 39,2 tạ năm 1984 và 40 tạ năm 1985.

Khắc phục nhanh sự kém sút về sản xuất màu, đẩy mạnh thâm canh và tăng diện tích các loại màu, nhất là ngô. Tận dụng đất đai trồng xen, trồng gối vụ, sử dụng hết các diện tích có thể trồng màu, (nhưng tuyệt đối không được phá rừng để trồng màu), đưa diện tích màu năm 1984 lên 1,3 triệu hécta, tăng 10% so với năm 1983, trong đó có 40 vạn hécta ngô. Tổ chức tốt việc thu mua, vận chuyển và chế biến màu, đưa một phần màu vào bữa ăn của nhân dân và bảo đảm thật tốt thức ăn cho chăn nuôi.

c) Phát triển mạnh trên quy mô lớn các loại cây công nghiệp, nhất là các cây ngắn ngày và tích cực triển khai trồng cao su và những cây dài ngày khác, nhằm tăng nhanh nguồn nguyên liệu trong nước và nguồn hàng xuất khẩu quan trọng.

Trong năm 1984, đưa diện tích trồng cây công nghiệp lên 1,13 triệu hécta, tăng 38% so với năm 1983, trong đó cây ngắn ngày tăng 47% và cây dài ngày tăng 24%. Một số cây quan trọng cần đạt các mục tiêu phát triển trong năm 1984 và năm 1985 như sau: đay: 5 vạn hécta và 10 vạn hécta, chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long; lạc: 20 vạn hécta và 25 vạn hécta; đỗ tương: 15 vạn hécta và 25 vạn hécta; thuốc lá: 4,5 vạn hécta và 6 vạn hécta; bảo đảm cung cấp đủ và ổn định mía cho các nhà máy đường lớn và giải quyết tốt nhu cầu đường mật tại chỗ ở các địa phương. Mở rộng việc trồng bông, lanh, dâu tằm, dứa, sợi... Về các cây dài ngày, bên cạnh việc thâm canh chăm sóc tốt các cây trên diện tích hiện có, mở nhanh diện tích trồng mới lần lượt trong hai năm tới là: cao su: 3 vạn hécta và 5 vạn hécta; cà phê: 8.000 hécta và 1,1 vạn hécta; dừa: 1,4 vạn hécta và 2 vạn hécta, do hợp tác xã và nhân dân trồng là chính, xây dựng một số vùng chuyên canh, Nhà nước làm nhiệm vụ thu mua, chế biến và cung cấp giống; chè: mỗi năm trồng thêm 5.000 hécta. Phát triển các loại cây có dầu như thầu dầu, cọ dầu, trẩu sở..., các cây đặc sản: đào lộn hột, vải thiều, quế, hồi, hồ tiêu, dược liệu, v.v. và cây ăn quả, trồng tập trung và phân tán phục vụ bữa ăn của nhân dân và xuất khẩu. Chuẩn bị tốt các điều kiện để trong kế hoạch 5 năm sau đưa quy mô trồng cây công nghiệp lên lớn hơn nhiều so với hiện nay.

Cần sớm hoàn thành quy hoạch đất đai, xác định cây trồng chính cho từng địa bàn, vừa xây dựng các vùng chuyên canh, vừa tận dụng đất đai trồng xen và trồng gối vụ ở khắp nơi. Thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", "quốc doanh, tập thể và gia đình cùng làm". Cung cấp kịp thời lương thực, vật tư và hàng hóa cho vùng cây công nghiệp; thực hiện các chính sách khuyến khích địa phương và cơ sở phát triển sản xuất. Một yêu cầu hết sức quan trọng là phải xây dựng đồng bộ các cơ sở chế biến kết hợp với trồng trọt ngay trên từng vùng với quy mô thích hợp.

Chúng ta ra sức phấn đấu thực hiện bước đầu một chương trình lớn có ý nghĩa chiến lược về phát triển cây công nghiệp, đó là một nội dung quan trọng trong sự phát triển toàn diện nền nông nghiệp nhiệt đới đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, một thế mạnh đặc biệt trong những thế mạnh của nền kinh tế nước ta gắn liền với việc sử dụng tối đa lao động và đất đai, là một nguồn cân đối tích cực, có hiệu quả nhanh và góp phần rất quan trọng tạo ra nguồn tích lũy ngày càng lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà.

d) Phát triển chăn nuôi cân đối với trồng trọt ở khắp các vùng để bảo đảm nhu cầu thực phẩm và phân bón. Chú trọng chăn nuôi ở các vành đai thực phẩn chung quanh các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung các vùng có điều kiện chăn nuôi lớn; mở mang chăn nuôi công nghiệp và chăn nuôi xuất khẩu. Tăng nhanh đàn lợn và đàn gia cầm. Phát triển chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò...) ở tất cả các vùng, nhất là trung du, miền núi và Tây Nguyên. Coi trọng cả chăn nuôi quốc doanh, tập thể, gia đình. Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất lương thực, nhất là màu, bảo đảm giải quyết nguồn thức ăn gia súc. Nhà nước chú ý tổ chức việc sản xuất và cung ứng con giống và thuốc thú y. Mức phấn đấu tối thiểu năm 1984 và 1985, về đàn lợn phải đạt 12 triệu con và 13 triệu con; đàn trâu, bò 4,8 triệu con và 5,1 triệu con. Năm 1984 so với năm 1983 đàn lợn tăng 8%, đàn trâu, bò tăng 5%, đàn gia cầm tăng 9%.

đ) Khai thác mạnh nguồn tiềm năng thủy sản cả về chiều rộng và chiều sâu. Mở rộng quy mô đánh bắt trên biển, phát triển mạnh nuôi trồng, nhất là nuôi để xuất khẩu trên tất cả các loại mặt nước và đạt năng suất ngày càng cao hơn. Điều tra xác định sớm các nguồn lợi và quy hoạch ngư trường, đồng thời có biện pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản. Tổ chức tốt việc thu mua và cung ứng dịch vụ cho sản xuất, cải tạo và sắp xếp lại sản xuất nghề cá. Tận dụng các cơ sở hiện có, xây dựng thêm một số cơ sở đông lạnh, chế biến để khai thác một cách tập trung và có hiệu quả nguồn lợi hải sản ở một số khu vực, nhất là Kiên Giang, Minh Hải, Thuận Hải. Phấn đấu đạt sản lượng 73 vạn tấn năm 1984, trong đó có 52 vạn tấn cá biển và 21 vạn tấn cá nước ngọt, nước lợ. Năm 1985, đạt 78 vạn tấn , trong đó có 55 vạn tấn cá biển và 23 vạn tấn cá nước ngọt, nước lợ.

e) Về lâm nghiệp: Bảo vệ cho được vốn rừng hiện có, thực hiện đồng bộ các chính sách, các biện pháp tích cực nhất để chấm dứt nạn đốt, phá rừng. Đây là một nhiệm vụ khẩn thiết có ý nghĩa lớn lao không chỉ về kinh tế, bảo vệ môi trường sống mà cả an ninh, quốc phòng. Ra sức động viên và tổ chức nhân dân trồng cây, trồng rừng, sử dụng hợp lý và có hiệu quả đất trống, đồi núi trọc, tăng nhanh độ che phủ đất đai và diện tích rừng. Chú trọng trồng các loại cây làm nguyên liệu giấy, sợi, trụ mỏ, lấy gỗ, lấy củi, cây mọc nhanh và tăng độ màu mỡ cho đất, cây đặc sản. Diện tích trồng rừng tập trung năm 1984 là 8 vạn hécta và 400 triệu cây trồng phân tán (tương đương khoảng 20 vạn hécta). Chậm nhất năm 1985, phải hoàn thành việc giao đất, giao rừng cho hợp tác xã và nhân dân quản lý, sử dụng, khai thác đúng quy hoạch, chính sách, chế độ của Nhà nước, thực hiện phương thức nông - lâm kết hợp, xây dựng "vườn rừng", "đồi rừng", làm dứt điểm công tác định canh, định cư, trước hết ở những địa bàn trọng điểm.

Thực hiện nghiêm chỉnh việc khai thác gỗ theo đúng quy hoạch và kế hoạch nhà nước, bảo đảm quy trình kỹ thuật, chấm dứt tình trạng khai thác bừa bãi. Giải quyết đồng bộ các khâu khai thác, vận xuất, vận chuyển, chú trọng vận chuyển đường thủy và sử dụng trâu, voi kéo gỗ; nâng cấp và làm thêm đường mới, cung ứng vật tư, thiết bị, bảo đảm đời sống công nhân lâm nghiệp và sơn tràng. Sản lượng gỗ năm 1984 phải đạt được 1,4 triệu mét khối, năm 1985: 1,5 triệu mét khối.

2. Chuyển mạnh về phát triển công nghiệp, xây dựng cơ bản và giao thông vận tải

Sự phát triển chậm của công nghiệp, nhất là công nghiệp quốc doanh mấy năm qua đòi hỏi phải có sự phấn đấu đồng bộ, trước hết là của các ngành công nghiệp Trung ương. Phải nhanh chóng sắp xếp lại sản xuất, tiếp tục đổi mới quản lý, sử dụng tốt năng lượng sản xuất hiện có, nhất là của công nghiệp quốc doanh Trung ương, đầu tư chiều sâu, tích cực tạo nguồn vật tư, nguyên liệu từ nông, lâm, thủy sản trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, mở mang các hình thức hợp tác quốc tế để có điều kiện nhập thêm nguyên liệu, vật tư cần thiết. Ra sức tiết kiệm, giảm chi phí vật chất cho một đơn vị sản phẩm, giảm giá thành, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.

a) Hết sức chú trọng phát triển công nghiệp chế biến và sản xuất hàng tiêu dùng:

Tổ chức lại sản xuất, sửa đổi, bổ sung các chính sách để xây dựng vùng nguyên liệu và nhập thêm nguyên liệu nhằm sử dụng đến mức cao nhất công suất các xí nghiệp. Phát triển sự liên kết giữa các xí nghiệp trung ương với các địa phương để sử dụng hết công xuất, nhất là ở Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Đối với tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, gắn liền với việc sắp xếp lại sản xuất, cần đẩy mạnh việc hợp tác hóa ở miền Nam theo các hình thức thích hợp, củng cố quan hệ sản xuất tập thể ở miền Bắc, tận dụng các năng lực sản xuất trong khu vực này. Cố gắng phấn đấu tăng sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu hàng ngày của nhân dân như vải mặc, giấy, đường, sữa, thuốc chữa bệnh và hàng xuất khẩu như chè, thuốc lá, rượu...

Ưu tiên bảo đảm bông, sợi, điện, than, gỗ làm thoi suốt và phụ tùng cho ngành Dệt. Khôi phục và phát triển nghề dệt vải thủ công, huy động công suất dệt của hợp tác xã có nghề truyền thống. Ngoài nguồn bông sợi nhập khẩu, các địa phương phải phát triển trồng bông, lanh, dâu tằm để tăng thêm nguồn nguyên liệu cho ngành Dệt. Ngoài ra, bằng con đường xuất nhập khẩu, từ nguồn nông sản mà có thêm vải góp phần bảo đảm nhu cầu mặc. Năm 1984, phấn đấu sản xuất 320 triệu mét vải, lụa; năm 1985 đạt 380 triệu mét.

Khẩn trương xây dựng khu nguyên liệu cho nhà máy giấy Bãi Bằng và Tân Mai. Tổ chức tốt việc thu hồi, tận dụng giấy vụn; phát triển các cơ sở làm bột giấy nhỏ ở những nơi sẵn có nguyên liệu (miền núi, Tây Nguyên) và các cơ sở sản xuất giấy dùng vôi thay xút. Sản lượng giấy năm 1984 đạt 6,7 vạn tấn tăng 26% so với năm 1983, năm 1985, đưa lên 9 vạn tấn.

Quy hoạch các vùng trồng mía ổn định và bổ sung các chính sách để bảo đảm có đủ mía cho nhà máy đường. Thực hiện đúng tiến độ xây dựng nhà máy đường Lam Sơn và tích cực chuẩn bị xây dựng thêm nhà máy đường lớn ở vùng trồng mía tập trung. Chế tạo một số thiết bị sản xuất đường cỡ từ 30 - 50 tấn mía/ngày đến 100 - 500 tấn mía/ngày cho các địa phương. Khuyến khích các địa phương dành đất trồng mía và chế biến đường mật phục vụ tiêu dùng tại địa phương. Năm 1984, phải sản xuất ít nhất là 32 vạn tấn đường mật các loại; năm 1985: 35 vạn tấn.

Tận dụng mọi khả năng phát triển mạnh việc trồng thuốc lá để sử dụng hết công suất các nhà máy hiện có, đồng thời bổ sung thiết bị cho các nhà máy đó để tăng sản lượng thuốc lá điếu. Năm 1984: sản xuất 1,1 tỷ bao, năm 1985: 1,4 - 1,5 tỷ bao.

Phát triển nhanh sản xuất xà phòng, thuốc chữa bệnh để đáp ứng được nhu cầu tối thiểu của nhân dân. Phát triển sản xuất, mở rộng mặt hàng, nâng cao chất lượng xe đạp, săm lốp và phụ tùng, quạt điện, máy may, đồng hồ để bàn, các loại đồ gỗ, đồ gốm, sành sứ, thủy tinh, đồ nhựa, hàng mây tre, cói, đồ dùng học tập cho học sinh, dụng cụ y tế, dụng cụ bảo hộ lao động, v.v..

Ngoài ra, tìm mọi cách tạo thêm nguồn nguyên liệu để sản xuất sữa hộp, bia, pin đèn và một số hàng cơ khí điện tử.

b) Coi trọng đúng mức sự phát triển của công nghiệp nặng:

Điện: Phát huy hết công suất của các nhà máy thủy điện. Bảo đảm phụ tùng sửa chữa và ưu tiên cung cấp than, dầu cho các nhà máy nhiệt điện hoạt động bình thường. Có chính sách khuyến khích sử dụng điện giờ thấp điểm. Quản lý chặt chẽ việc phân phối và sử dụng điện, bảo đảm cung cấp điện ổn định cho các xí nghiệp và công trình trọng điểm, cho các mục tiêu chủ yếu. Kiểm tra chặt chẽ nhằm triệt để tiết kiệm điện và khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong phân phối và sử dụng diện. Việc quản lý, điều hành của các Sở quản lý phân phối điện phải gắn chặt với địa phương, bảo đảm cho địa phương và các hộ tiêu thụ thật sự được làm chủ khối lượng điện được phân phối. Phấn đấu giảm mức tiêu hao điện trên đường dây. Bảo đảm tiến độ xây dựng công trình thủy điện Hòa Bình và tiến độ huy động tổ máy II nhà máy nhiệt điện Phả Lại. Khẩn trương hoàn thành hệ thống đường dây và trạm biến thế Phả Lại - Hà Đông, trạm biến thế Thủy Nguyên. Cải tạo mạng lưới điện Hà Nội. Khởi công xây dựng nhà máy điện Trị An và Cầu Đỏ. Mở rộng nhiệt điện Cần Thơ. Tìm cách tăng thêm nguồn công suất cho nhiệt điện Thủ Đức. Đẩy mạnh sản xuất trong nước và nhập một số thiết bị thủy điện vừa và nhỏ cho các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và miền núi.

Sản lượng điện năm 1984 phải đạt 4,83 tỷ kWh, tăng 12% so với năm 1983, năm 1985 đạt 5,3 tỷ kWh, tăng 10% so với năm 1984.

Than: Cung cấp đủ xăng, dầu, gỗ chống lò, thuốc nổ cho ngành Than. Đẩy mạnh việc sửa chữa thiết bị và xây dựng mới các mỏ than. Đặc biệt coi trọng công tác xây dựng cơ bản thường xuyên, bảo đảm khối lượng bốc đất đá và số mét lò chuẩn bị. Tăng cường khâu sàng, tuyển, bốc dỡ, vận chuyển. Chấn chỉnh công tác tổ chức, quản lý, thực hiện đúng quy trình, quy phạm để tăng sản lượng và chất lượng than. Đặc biệt quan trọng là giải quyết các nhu cầu cấp bách về đời sống của công nhân mỏ. Sản lượng than năm 1984: 6,5 triệu tấn, tăng 8% so với năm 1983, năm 1985, đạt 8 triệu tấn, tăng 23% so với năm 1984.

Gang thép: Phát huy công suất của khu vực Thái Nguyên, khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh và Biên Hòa. Xây dựng nhanh cơ sở cốc hóa than gầy, nghiên cứu xây dựng cơ sở sắt xốp 3 vạn tấn/năm. Hoàn thiện việc thí nghiệm sản xuất gang bằng lò điện. Chuẩn bị tích cực để khởi công xây dựng cơ sở luyện kim mới do Liên Xô giúp.

Cơ khí: Sắp xếp lại và phát huy năng lực của ngành Cơ khí, trước tiên đối với Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng. Trong hai năm 1984 - 1985, bảo đảm sửa chữa máy móc, thiết bị và sản xuất phụ tùng, ưu tiên phục vụ nông nghiệp, ngành dệt, than, điện, giao thông vận tải, vật liệu xây dựng... Sản xuất đủ các loại công cụ thường, sản xuất một số máy móc, thiết bị nhỏ và vừa cho nông nghiệp, sà lan, toa xe, thiết bị mỏ, động cơ điện, thiết bị thủy điện nhỏ, thiết bị sản xuất đường, giấy, chế biến đay, cao su, cà phê, dừa... Nâng cao chất lượng chế tạo để tăng xuất khẩu một số sản phẩm như xe đạp, quạt điện, dụng cụ đồ nghề. Năm 1985 hoàn thành xây dựng nhà máy động cơ điêden Sông Công, khởi công xây dựng nhà máy phụ tùng ô tô, máy kéo 6.000 tấn/năm và khởi công mở rộng nhà máy công cụ số 1.

Hóa chất: Đẩy mạnh sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, giải quyết việc cung cấp pyrít để phát huy hết công suất của nhà máy supe lân. Tăng mức sản xuất phân lân nung chảy. Năm 1984, sản xuất 40 vạn tấn phân lân, tăng 67% so với năm 1983, năm 1985, lên 45 - 50 vạn tấn.

Mở rộng sản xuất xút và các loại hóa chất thông thường theo quy mô vừa và nhỏ, các loại phụ tùng bằng cao su, sản xuất sơn, que hàn, đất đèn, bột nhẹ, v.v. để giảm nhập khẩu và đáp ứng yêu cầu của các ngành kinh tế.

Tăng nhanh sản xuất vật liệu xây dựng. Hoàn thiện đồng bộ nhà máy xi măng Hoàng Thạch, hệ thống dây chuyền số 2 nhà máy xi măng Bỉm Sơn. Cung cấp đủ than, xăng dầu, thạch cao, bao giấy và cung cấp điện ổn định cho các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, Hải Phòng, Hà Tiên. Sản lượng xi măng năm 1984 đạt 1,6 triệu tấn, tăng 83% so với năm 1983; năm 1985, đạt 2 triệu tấn, tăng 25% so với năm 1984. Khởi công xây dựng nhà máy kính Đáp Cầu. Chú trọng đẩy mạnh sản xuất các loại vật liệu khác.

Dầu khí: Đẩy mạnh thăm dò, tìm kiếm dầu khí, năm 1984 phấn đấu tạo được những tiền đề cần thiết để năm 1985 có kết luận về dầu ở thềm lục địa phía Nam.

Địa chất: Đẩy mạnh tiến độ tìm kiếm, thăm dò các loại khoáng sản, chú trọng pyrít, bốcxít; kết hợp với thăm dò, cần tổ chức khai thác vàng, mỏ thiếc nhỏ, v.v. kể cả bằng phương pháp thô sơ. Tiến hành đánh giá tài nguyên chuẩn bị cho kế hoạch 1986 - 1990 và những năm sau.

c) Về xây dựng cơ bản:

Ba năm qua, mức đầu tư xây dựng cơ bản không bảo đảm yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các ngành kinh tế và sự nghiệp văn hóa, xã hội. Từ năm 1984, phải tìm mọi cách để tăng quỹ tích luỹ và vốn đầu tư, coi đây là một yêu cầu cấp bách. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 1984 của cả Trung ương và địa phương tăng 32% so với năm 1983, cần tập trung cho các loại công trình sau đây:

- Đồng bộ hóa các công trình đang xây dựng và những xí nghiệp hiện có, trước hết là các công trình năng lượng, chế biến lương thực, nông sản, giao thông vận tải, sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Bảo đảm thi công đúng tiến độ các công trình trọng điểm Nhà nước.

- Bảo đảm các mục tiêu trong nông nghiệp, thủy lợi, trước hết là lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày và trồng mới cao su, cà phê, chè, dừa, đào lộn hột, v.v. xây dựng các công trình thủy lợi thích hợp. Huy động nguồn lao động và mọi khả năng ở các địa phương để làm thủy lợi.

- Tăng thêm vốn đầu tư để sớm phát huy thế mạnh của Tây Nguyên và trung du miền núi phía Bắc.

- Xây dựng kho lương thực ở miền Nam và một số kho nông sản, hàng xuất khẩu và kho hàng nội thương.

- Dành vốn thích đáng xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống, đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu khoa học; đặc biệt, coi trọng nhà ở, đường giao thông, trường học, bệnh viện, nhà văn hóa, nước sinh hoạt, hệ thống thoát nước... Đi đôi với xây dựng mới, cần tăng vốn đầu tư cho việc cải tạo, sửa chữa nhà ở, các công trình công cộng và một số di tích lịch sử hiện có dứt khoát phải tu sửa, bảo quản, không để tiếp tục hư hỏng. Ưu tiên đầu tư để xây dựng và sửa chữa nhà ở, các công trình điện, nước ở Thủ đô.

- Lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật cho một số công trình gối đầu kế hoạch năm năm 1986 - 1990 như xí nghiệp liên hợp thiếc Quỳ Hợp, khu tuyển quặng mỏ Apatít Lào Cai, các mỏ than Khe Tam, Làng Cẩm, thủy điện Yali...

Các ngành, các địa phương cần huy động thêm nguồn vốn tự có của các xí nghiệp, nông, lâm trường và huy động thêm công sức, tiền vốn của nhân dân để xây dựng và sửa chữa các công trình phục vụ sản xuất và đời sống. Trong xây dựng, cần bảo đảm và tăng nhanh tiến độ, rút ngắn thời gian hoàn thành công trình để sớm đưa vào sử dụng. Ban hành chính sách quy tắc, chế độ và sử dụng nhiều biện pháp khác kết hợp, nhằm triệt để chống lãng phí mất mát vật liệu xây dựng, bảo đảm chất lượng công trình, giảm giá thành xây dựng. Xây dựng và thực hiện quy chế cụ thể để bảo đảm thực hiện tốt phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm, Trung ương và địa phương cùng làm".

Việc hoàn thành kế hoạch xây dựng cơ bản năm 1984 sẽ làm tăng thêm năng lực sản xuất: 11 vạn KW điện, 350 km đường dây tải điện, gần 90 vạn tấn than nguyên khai, 5.000 tấn sợi, 20 vạn tấn gạo xay xát, kho chứa 23 - 25 vạn tấn lương thực, một số cơ sở chế biến đông lạnh hải sản, sản xuất sứ dân dụng... Về nhà ở, tăng 25 - 30 vạn mét vuông, trong đó Hà Nội có 10 vạn mét vuông.

d) Về giao thông vận tải: Tiếp tục sắp xếp lực lượng vận tải, có phân công, phân cấp hợp lý, làm cho vận tải quốc doanh trở thành lực lượng vận tải chủ yếu. Phát triển mạnh vận tải đường biển, vận tải đường sông, chú trọng xây dựng hệ thống cảng và nạo vét luồng lạch, tăng năng lực bốc dỡ. Củng cố và phát huy năng lực vận tải đường sắt, nhất là tuyến Bắc - Nam. Sắp xếp hợp lý, sử dụng có hiệu quả vận tải đường bộ, đường hàng không. Tăng cường quản lý nhằm khai thác tốt các phương tiện hiện có. Chú trọng phát triển rộng rãi các phương tiện vận tải thô sơ. Triệt để tiết kiệm, chống mất cắp, lãng phí xăng dầu, kiên quyết loại trừ các hiện tượng tiêu cực trong vận tải.

Đầu tư tập trung hơn để từng bước khắc phục những khâu yếu hiện nay. Lập lại trật tự an toàn giao thông vận tải trên những địa bàn trọng điểm. Kết hợp tốt lực lượng chuyên trách với việc huy động lao động nghĩa vụ và quân đội tham gia xây dựng các công trình giao thông. Chú trọng bảo dưỡng và nâng cấp quốc lộ số 1, đẩy mạnh tiến độ xây dựng các cầu vượt sông Hồng (Thăng Long, Chương Dương), mở mang giao thông ở Thủ đô Hà Nội, các vùng cây công nghiệp tập trung, vùng mới xây dựng kinh tế, giao thông nông thôn, miền núi, một số tuyến đường sang Lào và Campuchia.

Tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ tiếp nhận và vận chuyển hàng xuất nhập khẩu, vận chuyển Bắc - Nam, vận chuyển xi măng, than, phân bón, apatít, vận chuyển cho các tỉnh biên giới, vận tải cho Lào và Campuchia...

Khối lượng hàng hóa vận tải trong nước năm 1984 tăng 11% về tấn và 9% về tấn km so với năm 1983.

đ) Về thông tin - bưu điện: Khai thác tốt năng lượng mạng lưới bưu và điện với chất lượng tốt, an toàn. Đẩy mạnh xây dựng công trình vi ba Hà Nội - Đà Nẵng, tuyến cáp Hà Nội - Quảng Ninh. Hoàn thành hệ thống thông tin trên tuyến 1A, mở rộng mạng lưới nội hạt Hà Nội, Hải Phòng. Tăng cường chất lượng an toàn thông tin và ý thức phục vụ của người làm thông tin bưu điện. Giá trị nghiệp vụ bưu điện năm 1984 tăng 25% so với năm 1983.

3. Ra sức phấn đấu tạo tiến bộ rõ trên lĩnh vực phân phối - lưu thông

a) Trước hết và quan trọng hơn cả là trên cơ sở tổ chức lại và phát triển sản xuất có năng suất, chất lượng và hiệu quả, Nhà nước ta phải nắm được hàng và tiền, làm chủ thị trường và giá cả, thống nhất quản lý phân phối và lưu thông các sản phẩm hàng hóa chủ yếu (nông, lâm, hải sản, sản phẩm công nghiệp quốc doanh Trung ương và địa phương, sản phẩm tiểu, thủ công nghiệp và hàng nhập). Nhà nước kế hoạch hóa việc phân phối quỹ hàng hóa, tổ chức sự trao đổi giữa công nghiệp và nông nghiệp một cách có kế hoạch, chủ yếu là thông qua hợp đồng hai chiều, phục vụ kịp thời và có hiệu quả cho sản xuất và đời sống.

Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phải nhanh chóng vươn lên làm chủ thị trường. Ra sức củng cố và mở rộng thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán đến tận phường, xã (bao gồm cả các hệ thống cung ứng vật tư, thu mua, bán lẻ, dịch vụ, xuất nhập khẩu); cải tiến phương thức và tổ chức mua, bán, chuyển mạnh sang phương thức kinh doanh bằng nhiều hình thức khác nhau, hết sức năng động để nắm hàng, làm chủ thị trường, chi phối toàn bộ khâu bán buôn, đại bộ phận khâu bán lẻ và dịch vụ. Phải phát triển thật mạnh hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, bao gồm thương nghiệp quốc doanh, thương nghiệp hợp tác xã tiêu thụ và mua bán, mạng lưới dịch vụ và đại lý; có chính sách, chế độ thỏa đáng đối với cán bộ, nhân viên ngành thương nghiệp gắn liền với việc tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đồng thời, phải xử lý nghiêm khắc những phần tử thoái hóa, biến chất, làm cho đội ngũ những người làm thương nghiệp trở nên thật sự vững mạnh. Tổ chức, sắp xếp, sử dụng và cải tạo tiểu thương theo từng ngành nghề, chuyển một số bộ phận tiểu thương sang sản xuất. Ngăn chặn và loại trừ bọn đầu cơ, buôn lậu, tư thương tranh mua với Nhà nước; trừng trị bọn làm hàng giả. Xóa bỏ ngay tư sản thương nghiệp. Kiểm tra và kiểm soát chặt chẽ không để vật tư - hàng hóa từ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa và hệ thống cung ứng vật tư lọt ra thị trường tự do. Trên cơ sở đó, thực hiện việc Nhà nước thống nhất quản lý và kinh doanh những vật tư - kỹ thuật, những hàng công nghiệp thiết yếu, kể cả hàng nhập khẩu. Có kế hoạch tích cực và vững chắc triển khai thực hiện việc xóa bỏ thị trường tự do về lương thực và các nông, lâm, hải sản quan trọng.

Thực hiện sự phân công, phân cấp hợp lý giữa các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở; có cơ chế, chính sách thích hợp vừa bảo đảm cho Nhà nước nắm được hàng hóa, vừa kích thích tinh thần hăng hái lao động của người sản xuất, bảo đảm được các nhu cầu thiết yếu của xã hội.

Phải làm tốt việc kiểm soát hàng hóa từ gốc. Đồng thời, phải xóa bỏ ngay tình trạng tuỳ tiện lập ra các trạm khám xét, làm cản trở lưu thông, gây ảnh hưởng giá cả tăng lên.

Giá trị thu mua hàng hóa năm 1984 tăng 24% so với năm 1983, trong đó hàng nông, lâm, thủy sản tăng 28%, hàng công nghiệp tăng 21%.

b) Tăng nhanh mọi nguồn thu, nhất là nguồn thu từ kinh tế quốc doanh, để bảo đảm các nhu cầu chi cần thiết. Sắp xếp lại các nhu cầu chi cho phù hợp với khả năng tài chính của ta, phấn đấu giảm mức bội chi ngân sách và tiền mặt trên cơ sở tăng sản xuất và triệt để tiết kiệm trong sản xuất, xây dựng và tiêu dùng. Cần ban hành quy chế tiết kiệm nghiêm ngặt và cụ thể ở từng ngành và từng cấp.

Thực hiện việc phân cấp ngân sách giữa Trung ương và địa phương, vừa bảo đảm nguồn thu của Trung ương, vừa tăng nguồn thu của địa phương, bảo đảm quyền làm chủ ngân sách của các cấp và các ngành kinh tế, kỹ thuật, đồng thời bảo đảm được sự thống nhất quản lý tài chính của Trung ương, đề cao kỷ luật tài chính ở tất cả các cấp, các ngành, các cơ sở.

Đẩy mạnh và cải tiến các hoạt động tín dụng, gửi tiền tiết kiệm, thanh toán qua ngân hàng và các dịch vụ khác để thu tiền mặt, chấm dứt "tọa chi". Bảo đảm có đủ tiền mặt để kịp thời phục vụ sản xuất, xây dựng và thu mua. Tổ chức tốt việc phát hành công trái và vận động quần chúng mua công trái, vừa bảo đảm tốt yêu cầu tài chính, vừa phát huy được lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài. Đẩy mạnh hoạt động của hợp tác xã tín dụng ở nông thôn.

c) Đi đôi với các công việc trên đây, phải từng bước lập lại trật tự mới trên lĩnh vực giá cả, trước hết là trong khu vực kinh tế quốc doanh. Nhà nước sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp để kiểm soát giá cả trên thị trường xã hội.

Tính lại giá thành các sản phẩm chính và phí lưu thông, bảo đảm phản ánh đúng và đủ những chi phí lao động xã hội cần thiết, loại trừ những chi phí bất hợp lệ và bất hợp lý; trên cơ sở đó mà hoàn thiện từng bước hệ thống giá chỉ đạo, điều chỉnh hợp lý các mối quan hệ giữa giá hàng công nghiệp và giá nông sản, giữa tích lũy và tiêu dùng, giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa giá trong nước và giá thị trường thế giới theo chính sách giá của Đảng và Nhà nước.

Trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất của hệ thống giá của Nhà nước, Trung ương thống nhất chỉ đạo giá những mặt hàng quan trọng, đồng thời phân công, phân cấp hợp lý cho ngành và địa phương để có sự chỉ đạo, sát hợp với từng vùng, từng thời vụ. Nhà nước sẽ quy định các khung giá thích hợp với từng loại hàng và với từng vùng để các địa phương có thể chủ động thu mua lương thực, nông sản và các hàng hóa khác ngoài kế hoạch. Tăng cường kỷ luật về quản lý giá cả, chống mọi hành động tự do tuỳ tiện nâng giá, vi phạm chính sách và hệ thống giá Nhà nước.

d) Về tiền lương: cùng với các chủ trương và việc làm trên đây, Đảng và Nhà nước sẽ có những biện pháp tích cực nhất để bảo đảm đồng lương thực tế, giảm bớt khó khăn về đời sống cho công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang.

4. Tăng nhanh xuất khẩu và mở mang các hoạt động kinh doanh dịch vụ, du lịch để thu hút ngoại tệ, có chính sách hợp lý về kiều hối, về thu hút vốn đầu tư của Việt kiều ở nước ngoài. Đây là khâu trọng yếu góp phần bảo đảm các cân đối của kế hoạch. Kim ngạch xuất khẩu năm 1984 thuộc Trung ương quản lý tăng 22% so với năm 1983, trong đó tăng nhanh hơn cả là hàng nông sản, nông sản chế biến và hải sản. Đây là mức tăng tối thiểu phải đạt cho kỳ được, đồng thời phải có sự nỗ lực rất lớn, phát huy mạnh những khả năng và tiềm năng xuất khẩu của từng ngành, từng địa phương. Cố gắng phấn đấu đạt mức cao hơn nữa. Phải quản lý chặt hơn việc nhập khẩu. Những thứ gì trong nước tự làm ra được phải cố hết mức để sản xuất và sử dụng, kiên quyết không nhập khẩu.

- Giải quyết tốt quan hệ giữa Trung ương và địa phương, giữa Nhà nước và nông dân, có các chính sách hợp lý nhằm phát triển mạnh sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và huy động hết mức các nguồn hàng xuất khẩu. Động viên mọi tầng lớp nhân dân hết sức tiết kiệm tiêu dùng trong nước để dành hàng cho xuất khẩu. Dưới sự quản lý thống nhất của Trung ương, trên cơ sở bảo đảm nghĩa vụ giao nộp cho Trung ương, khuyến khích các địa phương đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu nông sản để nhập thêm vật tư, nguyên liệu cần thiết cho sản xuất nông, công nghiệp và một số hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống nhân dân. Từng ngành, từng địa phương phải tìm mọi cách để bảo đảm và nâng cao hơn nữa mức phấn đấu trong việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu của ngành và địa phương mình.

- Đầu tư thích đáng xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ xuất khẩu. Kiện toàn bộ máy kinh doanh xuất nhập khẩu từ Trung ương đến địa phương, cải tiến phương thức hoạt động để đủ sức góp phần thúc đẩy sản xuất, chế biến và huy động hàng xuất khẩu, mở rộng và quản lý chặt chẽ các hoạt động giao dịch với nước ngoài.

5. Đẩy mạnh công tác khoa học và kỹ thuật

Hoàn thiện và xây dựng các chính sách, chế độ cụ thể thích hợp làm cho kế hoạch khoa học và kỹ thuật thực sự trở thành bộ phận hữu cơ của kế hoạch kinh tế - xã hội.

Các ngành kinh tế, văn hóa và các địa phương, cơ sở phải có kế hoạch và biện pháp cụ thể đưa nhanh những tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, trước hết nhằm giải quyết các khó khăn về nguyên liệu, giảm tiêu hao vật chất, hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Triển khai các chương trình khoa học và kỹ thuật trọng điểm của Nhà nước, đặc biệt là các chương trình có liên quan đến các mục tiêu kinh tế - xã hội trước mắt.

Tăng cường công tác tiêu chuẩn hóa, đo lường và kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa, quản lý chặt chẽ thực hiện các quy trình kỹ thuật trong sản xuất.

Tiến hành điều tra cơ bản, điều tra tổng hợp các vùng kinh tế quan trọng: Tây Nguyên, các tỉnh biên giới phía Bắc, đồng bằng sông Cửu Long, để làm căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch kinh tế - xã hội năm năm 1986 - 1990.

Các ngành khoa học (khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học - kỹ thuật) kết hợp chặt chẽ với nhau, khẩn trương nghiên cứu các vấn đề cơ bản, xây dựng dự báo về chiến lược khoa học và kỹ thuật trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, phục vụ thiết thực và làm căn cứ cho việc xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội và kế hoạch nhà nước; đồng thời, xây dựng từng bước nền khoa học - kỹ thuật của nước ta.

Tổ chức và có chính sách sử dụng tốt đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật, bố trí đủ cán bộ cho các ngành kinh tế, kỹ thuật và các địa phương trọng điểm, bổ sung thêm lực lượng để triển khai mạnh công tác điều tra cơ bản, khảo sát, phân vùng quy hoạch, nhất là cho vùng Tây Nguyên và miền núi phía Bắc.

Hoàn thiện cơ chế quản lý khoa học - kỹ thuật, gắn liền với việc hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, làm cho khoa học - kỹ thuật thật sự là một trong những động lực chủ yếu để phát triển kinh tế. Sắp xếp lại cơ quan nghiên cứu khoa học - kỹ thuật theo hướng gắn liền với các cơ sở sản xuất (chú trọng các cơ sở quốc doanh) và bố trí mạnh lực lượng cán bộ khoa học - kỹ thuật về cơ sở ở các địa phương và các vùng mới đang triển khai xây dựng, nhất là các địa bàn trọng điểm trồng cây công nghiệp, các công ty phụ trách từng cây. Đưa nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và đời sống xã hội. Nhằm phục vụ thiết thực nhất cho các yêu cầu, nhiệm vụ và mục tiêu kinh tế - xã hội quan trọng, phải đặc biệt chú ý có chính sách và biện pháp sử dụng tốt, không để lãng phí "chất xám" và cả các thiết bị nghiên cứu khoa học - kỹ thuật hiện có, đồng thời đầu tư thêm để bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết cho công tác khoa học và kỹ thuật.

6. Giáo dục, đào tạo, văn hóa, thông tin, y tế - xã hội

a) Về giáo dục và đào tạo:

Tiếp tục tiến hành cải cách giáo dục phù hợp với yêu cầu và khả năng phát triển kinh tế, thúc đẩy các mặt hoạt động, chú trọng vào những việc sau đây:

- Củng cố các trường mẫu giáo hiện có, mở rộng các trường lớp ở các khu công nghiệp, các thành phố lớn, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và vùng kinh tế mới. Tiếp nhận 1,54 triệu cháu trong độ tuổi vào các lớp mẫu giáo, tăng 2% so với năm 1983.

Huy động lực lượng của ngành Giáo dục và các ngành khác tiến hành việc xóa nạn không biết chữ ở các xã, huyện vùng cao, trước hết là thanh niên và cán bộ ở cấp xã.

Nâng cao chất lượng dạy và học trong các trường phổ thông, chú trọng giáo dục chính trị, đạo đức và hướng nghiệp, bảo đảm đủ sách giáo khoa cho học sinh. Số học sinh có mặt đầu năm 1984 - 1985 trên 12 triệu em. Số học sinh bổ túc văn hóa tập trung năm 1984 trên 3 vạn người và bổ túc văn hóa tại chức 27,5 vạn người, phấn đấu thực hiện phổ cập cấp II cho cán bộ đương chức, tiến tới phổ cập cấp I cho nhân dân.

- Sắp xếp lại mạng lưới các trường trung học, đại học và công nhân kỹ thuật, ổn định quy mô tuyển sinh hợp lý, kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, phân phối, sử dụng với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội từng vùng; chú trọng đào tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật và cán bộ quản lý kinh tế cho các vùng chuyên canh cây công nghiệp; cán bộ điều tra khảo sát, thiết kế, thăm dò khai thác khoáng sản, cơ khí, hóa chất, vật liệu xây dựng và giáo viên cấp I phục vụ cải cách giáo dục. Số học sinh tuyển mới năm 1984 là 19 vạn người, tăng 23% so với năm 1983, trong đó, công nhân kỹ thuật 10,3 vạn người, tăng 23%; trung học chuyên nghiệp 5,1 vạn người, tăng 20%; đại học và cao đẳng 3,5 vạn người, tăng 22%. Chủ yếu là tăng đào tạo chuyên tu, tại chức.

Để thực hiện các nhiệm vụ trên, cần ban hành một số chính sách đối với giáo viên và học sinh, đặc biệt, có chính sách, chế độ thích hợp để đẩy mạnh đào tạo cán bộ là con em các dân tộc ở miền núi và Tây Nguyên. Khuyến khích nhà trường kết hợp giảng dạy, học tập với thực nghiệm, nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất. Nghiên cứu cải tiến chế độ học bổng cho học sinh để khuyến khích học tập và quy định mức đóng góp cần thiết của nhân dân trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục.

b) Về văn hóa, thông tin:

Công tác văn hóa, thông tin, nghệ thuật phải bám sát đường lối chính sách của Đảng và kế hoạch nhà nước, đi sâu vào phong trào quần chúng và đời sống của nhân dân, phát huy tính chiến đấu cao, giữ thế chủ động trong dư luận xã hội, hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng con người mới, giữ gìn truyền thống tốt đẹp, xây dựng lối sống văn minh, lành mạnh, tiết kiệm, đấu tranh triệt để và liên tục để loại trừ văn hóa nô dịch, phản động, đồi trụy, bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội, kịp thời đập tan những thủ đoạn phá hoại của địch trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, nghiêm khắc phê phán những hiện tượng tiêu cực trong xã hội.

Chú trọng các hoạt động văn hóa ở cơ sở, nâng cao chỉ tiêu phục vụ nhân dân về sách báo, nghe đài, xem chiếu bóng, văn nghệ, xây dựng nếp sống mới, đặc biệt là trên địa bàn huyện, nhất là ở các tỉnh biên giới, Tây Nguyên và nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long; chú trọng phục vụ tốt các đơn vị quân đội đóng trên các vùng biên giới. Nâng cao chất lượng công tác văn hóa, nghệ thuật, báo chí, phát thanh và truyền hình cả về nội dung lẫn hình thức, bảo đảm tính chân thật, thuyết phục và tính hấp dẫn để có thể đi sâu vào đông đảo quần chúng.

Tăng đầu tư và động viên mọi nguồn lao động, tiền vốn để bảo vệ, tôn tạo các nhà bảo tàng, các di tích lịch sử và di tích cách mạng, nhất là những di tích lớn như Đền Hùng, Hoa Lư, Lam Sơn, Tây Sơn, Kim Liên, Điện Biên, Côn Đảo, Sơn La,... tích cực chuẩn bị các hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật nhân kỷ niệm 10 năm ngày Giải phóng hoàn toàn đất nước.

c) Về y tế - xã hội:

- Có chính sách khuyến khích và các biện pháp khác để triển khai mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, chú trọng ở các thành phố, vùng đồng bằng đông dân, phấn đấu giảm mức tăng dân số xuống 1,7% vào năm 1985.

- Vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh môi trường, kịp thời ngăn ngừa và dập tắt các dịch bệnh. Chấn chỉnh nền nếp quản lý các cơ sở chữa bệnh. Nâng cao chất lượng sử dụng các giường bệnh, chú trọng tăng thêm cơ sở y tế cho các vùng kinh tế mới và miền núi. Hoàn thiện các trung tâm chuyên khoa quan trọng ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, bảo đảm trình độ và phương tiện nghiên cứu, điều trị các bệnh phức tạp. Phát triển mạnh dược liệu để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Phát triển y học dân tộc. Khắc phục nhanh các tiêu cực trong chữa bệnh và phân phối thuốc. Nghiêm trị những phần tử sản xuất thuốc giả và buôn bán thuốc trái phép. Bằng vốn đầu tư của Nhà nước và huy động thêm nguồn vốn của địa phương, phấn đấu tăng ít nhất 3% số giường bệnh, nhất là cho các vùng nông thôn và miền núi. Năm 1984, mức phân phối thuốc chữa bệnh tăng 28,5% bảo đảm các loại thuốc thông thường cho nhân dân.

- Thực hiện tốt chính sách đối với thương binh, đặc biệt chú ý ổn định đời sống thương binh ở những nơi và trong các gia đình đang gặp khó khăn nhất. Chăm sóc gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng. Số thương binh nặng được nuôi dưỡng tăng 5% so với năm 1983; số người được chăm sóc ở các cơ sở xã hội tăng 24%.

- Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng các nhà trẻ hiện có, tăng thêm nhà trẻ cho các khu kinh tế tập trung, các thành phố lớn, các vùng kinh tế mới. Tiếp nhận 1,2 triệu cháu vào các nhà trẻ, tăng 2% so với năm 1983.

d) Về thể dục - thể thao:

Mở rộng cuộc vận động rèn luyện thân thể trong nhân dân thành một phong trào quần chúng đông mạnh. Vận động 10 triệu người tập thể dục, thể thao thường xuyên, chủ yếu trong học sinh, thanh niên, lực lượng vũ trang và công nhân viên chức. Tiến hành các hoạt động thể dục thể thao từ cơ sở để tiến tới đại hội thể dục, thể thao toàn quốc lần thứ nhất vào năm 1985. Chú trọng xây dựng những bộ môn thể thao thích hợp với điều kiện nước ta và ở từng khu vực. Xây dựng các công trình thể dục, thể thao gắn với cụm văn hóa ở các cơ sở và trên địa bàn huyện. Nâng cao chất lượng các cuộc thi thể thao, phát huy các môn có thế mạnh để tham dự thi đấu quốc tế. Ngăn ngừa các tiêu cực trong hoạt động thể dục thể thao.

B- CÁC VÙNG

1. Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 01 và 08 của Bộ Chính trị, được cụ thể hóa bằng kế hoạch năm 1984 của Thủ đô và Thành phố Hồ Chí Minh, từng bước phát huy tác dụng một cách thiết thực của hai thành phố đối với cả nước và các tỉnh trong khu vực.

Phải tiến hành ngay năm 1984 (đưa vào kế hoạch từng quý) việc sắp xếp lại sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, kể cả công nghiệp Trung ương trên lãnh thổ. Huy động các khả năng để sử dụng năng lực sản xuất hiện có, bằng cách mở rộng liên kết kinh tế giữa các xí nghiệp Trung ương với kinh tế địa phương, giữa thành phố với các tỉnh trong vùng. Đặc biệt, chú trọng sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Phải nghiêm khắc bảo đảm chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế và quản lý cho được sản phẩm.

Giải quyết việc làm cho lao động bằng cách phát triển ngành, nghề tại chỗ, mở mang dịch vụ; bố trí lao động ra ngoại thành để sử dụng cho hết đất đai, diện tích mặt nước, phát triển trồng trọt và chăn nuôi; mở rộng hợp tác sản xuất với các tỉnh chung quanh, gắn lao động và đất đai để trồng cây công nghiệp, cây xuất khẩu ngắn ngày và dài ngày, nuôi tôm, cá... Đây là khả năng đang còn rất lớn, chưa làm được bao nhiêu.

Phải xây dựng đồng bộ, đầu tư chiều sâu hoàn chỉnh từng bước vành đai thực phẩm ngoại thành, sử dụng tối đa cơ sở chăn nuôi quốc doanh, tập thể và gia đình để bảo đảm cho được nhu cầu của thành phố.

Bảo đảm đời sống cho cán bộ, công nhân và nhân dân lao động, trước hết là về ăn và nước sinh hoạt, chữa bệnh, cải thiện dần điều kiện nhà ở và điện chiếu sáng. Về nhà ở năm 1984, Hà Nội xây dựng 10 vạn mét vuông, Thành phố Hồ Chí Minh sửa chữa, cải tạo 80 vạn mét vuông. Thực hiện việc phân phối, sử dụng nhà cửa cho hợp lý, công bằng.

Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Thành phố Hồ Chí Minh, không được buông lỏng cải tạo và quản lý thị trường ở hai thành phố.

Trật tự trị an phải được bảo đảm tốt hơn. Phát triển văn hóa lành mạnh, xây dựng nếp sống văn minh.

2. Trung du, miền núi phía Bắc

Là vùng có vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế và quốc phòng, có những khu công nghiệp lớn, có tiềm năng khoáng sản, lâm sản và nguồn xuất khẩu, có khả năng phát triển lớn về cây công nghiệp, cây đặc sản phong phú và cây dược liệu quý, có điều kiện phát triển nhanh chăn nuôi đại gia súc.

Tăng mức thâm canh đồng đều trên diện tích ổn định, xây dựng các cánh đồng năng suất cao để tăng sản lượng lương thực cả lúa và màu, đặc biệt chú ý cây ngô và dong riềng, năm 1984, đạt 2,4 triệu tấn, vươn lên mức tối đa về giải quyết lương thực tại chỗ, nhưng tuyệt đối không được phá rừng làm lương thực.

Sử dụng thật tốt các nguồn lao động hiện có ở các cơ sở công nghiệp, nông trường, lâm trường, các trường đào tạo, các lực lượng vũ trang và lao động của đồng bào các dân tộc có liên quan đến định canh định cư. Đồng thời, chuẩn bị điều kiện tiếp thu lao động từ miền xuôi lên để phát triển cây công nghiệp: thuốc lá, đậu tương, mía, chè, quế, sơn, trẩu, sở, hồi, dược liệu... Mở rộng trồng bông, lanh để giải quyết một phần vải mặc. Phát triển nhanh trâu, bò nhằm cung cấp sức kéo cho đồng bằng và thực phẩm cho khu công nghiệp, coi đó là một ngành kinh tế quan trọng. Phát triển lâm nghiệp, chăm sóc, bảo vệ rừng, trồng rừng và khai thác lâm sản. Nhất thiết phải bảo đảm gỗ trụ mỏ và nguyên liệu cho công nghiệp giấy.

Nâng cấp và mở thêm các tuyến đường giao thông, nhất là ở các vùng biên giới, từ huyện tới xã và các địa bàn có vị trí quan trọng; gắn thủy lợi với khai thác thủy năng để phát điện phục vụ xay xát, chế biến.

Về đời sống nói chung mà trước hết đối với các xã, huyện biên giới, nhất thiết phải bảo đảm về vải mặc, chăn màn, muối ăn, dầu hỏa, thuốc chữa bệnh và một số đồ dùng thiết yếu.

Phân bố lại cán bộ từ miền xuôi lên tham gia xây dựng kinh tế, văn hóa ở miền núi.

Mở rộng liên kết kinh tế với Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ để phát huy thế mạnh về cây công nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, khắc phục những mặt yếu trong kinh tế địa phương.

Tăng cường phòng thủ, giữ vững an ninh chính trị và an toàn xã hội, có biện pháp đấu tranh với địch không chỉ về chính trị, quân sự, mà cả về kinh tế, văn hóa, xã hội.

3. Các tỉnh Tây Nguyên

Tây Nguyên là một địa bàn trọng yếu kinh tế và quốc phòng, một trong những vùng tập trung có nguồn nông, lâm sản phong phú, lớn nhất và có nguồn xuất khẩu chủ lực của cả nước, như gỗ, cao su, cà phê...

Bằng mọi cách phải bảo vệ cho được vốn rừng, bảo vệ sinh thái và môi trường. Tiến hành khai thác gỗ theo đúng quy trình, quy phạm để vừa bảo đảm được sản lượng, chất lượng, vừa bảo vệ được hợp lý vốn rừng và khả năng tái sinh.

Bằng thâm canh, tăng vụ đẩy mạnh sản xuất lương thực, chú trọng tăng nhanh cây ngô. Phát triển mạnh chăn nuôi đại gia súc. Chăm sóc tốt diện tích hiện có và mở nhanh diện tích trồng cao su, cà phê, chè và các cây công nghiệp ngắn ngày đi đôi với công nghiệp chế biến.

Nhanh chóng thực hiện định canh, định cư kết hợp với sớm ổn định được và có một bước cải thiện đời sống cho đồng bào các dân tộc ít người, coi đây là một trọng điểm ưu tiên. Đồng thời, tích cực chuẩn bị điều kiện để đón nhận nhiều lao động các tỉnh khác đến xây dựng và phát triển kinh tế.

Có kế hoạch đầu tư xây dựng giao thông, thủy lợi, thủy điện và các kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống xã hội. Có chính sách khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ. Phân bố lại cán bộ khoa học - kỹ thuật và công nhân lành nghề tham gia xây dựng kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên.

Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất, xây dựng các ngành ở Trung ương cùng với địa phương phải có kế hoạch, biện pháp cụ thể chăm lo, cải thiện đời sống vật chất, văn hóa, giáo dục, y tế cho đồng bào các dân tộc ít người Tây Nguyên.

4. Đồng bằng Nam bộ

Tiếp tục phát huy thế mạnh hàng đầu về lương thực, thực phẩm, ra sức thâm canh, mở nhanh các vùng lúa năng suất cao và có tỷ suất hàng hóa lớn, đồng thời tích cực tăng vụ và có kế hoạch sử dụng hết 50 vạn hécta đất còn bỏ hoang để trồng những loại cây thích hợp và có hiệu quả nhất. Phát triển thủy lợi vừa và nhỏ, tận dụng năng lượng "sáng" hiện có. Phát triển mạnh xuất - nhập khẩu để có điều kiện tăng nhanh năng suất và sản lượng lúa, năm 1984, đạt ít nhất là 7,3 triệu tấn, Nhà nước huy động 2,22 triệu tấn. Phát triển nhanh và nhiều các cây công nghiệp dừa, dứa, mía, đay, các cây ăn quả quý; đặc biệt là những cây đỗ xanh, vừng, lạc, vừa dùng trong nước vừa có giá trị để xuất khẩu. Xây dựng đồng bộ các cơ sở chế biến.

Đẩy mạnh chăn nuôi lợn, vịt đàn, đánh bắt hải sản, tổ chức nuôi tôm, cá nước ngọt, nước lợ cũng là một thế mạnh của đồng bằng Nam bộ. Năm 1984, đạt sản lượng 21 vạn tấn hải sản, thu mua ít nhất 10 vạn tấn. Coi trọng việc bảo vệ và trồng rừng phòng hộ, trồng cây lấy gỗ và trồng cây lấy củi.

Liên kết với Thành phố Hồ Chí Minh để chế biến nông sản và hải sản, tăng nhanh hàng xuất khẩu; hợp tác giữa các tỉnh trong vùng để khai thác vật liệu xây dựng; hợp tác với Tây Nguyên, các tỉnh miền Nam để khai thác lâm sản và trồng rừng.

Coi trọng việc mở mang giao thông, giải quyết nhà ở, các hoạt động văn hóa - xã hội, vệ sinh phòng bệnh, xây dựng nông thôn mới, mở mang trường học, xóa nạn không biết chữ và thất học.

Hoàn thành nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp trong năm 1985; khẩn trương thực hiện cải tạo công thương nghiệp tư doanh.

Đào tạo và bố trí đủ lực lượng cán bộ khoa học - kỹ thuật và quản lý kinh tế cho các tỉnh và huyện trong vùng phù hợp với đặc điểm và cơ cấu kinh tế ở đây trước mắt và trong thời gian tới là một yêu cầu quan trọng và cấp bách. Các ngành ở Trung ương cùng với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long cần có kế hoạch và xúc tiến thực hiện một các tích cực, khẩn trương.

5. Đồng bằng Bắc bộ

Tập trung thâm canh, mở rộng vùng lúa năng suất cao; hoàn chỉnh và quản lý tốt các công trình thủy lợi, tích cực thu hẹp diện tích ngập úng, phấn đấu năm 1984, đạt 3,75 triệu tấn lương thực quy thóc, Nhà nước huy động 90 vạn tấn.

Khai thác hết đất đai để phát triển mạnh đỗ tương, thuốc lá, lạc, dâu tằm, cói, đay, rau quả xuất khẩu. Chú ý cây đặc sản vải thiều.

Coi trọng chăn nuôi lợn, gà, vịt, cá nước ngọt, trâu, bò.

Hợp tác, liên kết kinh tế với Hà Nội để tận dụng khả năng công nghiệp của Thủ đô; với các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc để khai thác lâm sản, phát triển cây công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. Thực hiện phân bố lại lao động, chủ yếu với các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc và một phần với Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.

6. Các tỉnh khu IV cũ

Đẩy mạnh sản xuất lương thực để bảo đảm đủ ăn, có dự trữ, từ đó phát huy thế mạnh về công nghiệp, về rừng, biển và chăn nuôi gia súc lớn, sản xuất vật liệu xây dựng. Chú ý bố trí cơ cấu cây trồng, mùa vụ thích hợp với từng địa bàn để hạn chế tác hại của thiên tai.

Thâm canh lúa và nhất là màu (có nhu cầu và khả năng lớn) để trong hai năm tự giải quyết nhu cầu lương thực, năm 1984 đạt 2,12 triệu tấn quy thóc, Nhà nước huy động 43,5 vạn tấn.

Phát triển mạnh lạc, mía, thuốc lá, chè, cam, chanh, ớt, cói, quế, hồ tiêu, bông, lanh, tơ tằm để đáp ứng nhu cầu trong nước và tăng nhanh hàng xuất khẩu.

Tiếp tục phân bổ hợp lý lao động và dân cư trong tỉnh để khai thác nhanh nhằm cơ bản sử dụng hết đất đai miền Tây, đồng thời có kế hoạch đưa một bộ phận lao động vào Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ.

Tổ chức lại lực lượng đánh bắt và nuôi trồng hải sản. Tăng sản xuất muối, đẩy mạnh trồng rừng, bảo vệ rừng và khai thác gỗ, luồng, mây song, đặc biệt chú ý trồng cây lấy củi phía đồng bằng, ven biển.

Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến màu và cây công nghiệp. Phát huy năng lực sản xuất công nghiệp và tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp ở các thành phố, thị xã. Đẩy mạnh sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gốm, sứ, thủy tinh. Phát triển thủy điện nhỏ và vừa kết hợp với thủy lợi.

Phát huy năng lực cảng Cửa Lò và phát triển mạnh việc vận tải ven biển. Củng cố, phát triển đường giao thông sang Lào (đường 7, đường 9).

Giúp đỡ phương tiện, vật tư, tiền vốn cho đồng bào vùng bị bão lụt nhanh chóng khôi phục sản xuất, ổn định đời sống, và có kế hoạch xây dựng lại cầu đường, kho tàng, bệnh viện, khắc phục từng bước hậu quả của thiên tai nặng trong thời gian vừa qua.

7. Các tỉnh duyên hải khu V cũ

Phấn đấu vài năm đạt tới sự ổn định vững chắc về lương thực, nhất là phát huy khả năng về màu, bảo đảm đủ ăn, có dự trữ và tăng mức đóng góp cho Nhà nước, trước hết góp phần cho Tây Nguyên. Năm 1984, đạt 1,72 triệu tấn lương thực quy thóc, Nhà nước huy động 34,5 vạn tấn. Tận dụng đất đai phát triển lạc, thầu dầu, mía, thuốc lá, dâu tằm, bông, cói và rau quả, mở rộng diện tích dừa, đào lộn hột, cọ dầu, quế, hồ tiêu...

Trồng và bảo vệ rừng nhằm phủ xanh đất trống, đồi trọc, trồng rừng phòng hộ ven biển, chấm dứt nạn phá rừng.

Tổ chức lại nghề đánh bắt, nuôi trồng và thu mua, chế biến thủy sản. Phát huy thế mạnh về đánh bắt cá biển, tăng nhanh sản xuất muối.

Khởi công xây dựng nhiệt điện Cầu Đỏ và tích cực phát triển thủy điện vừa và nhỏ kết hợp với thủy lợi. Hợp tác với công nghiệp Trung ương trên lãnh thổ để sử dụng hết công suất, nhất là công nghiệp cơ khí và chế biến sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp. Bổ sung máy móc, thiết bị cho cơ khí địa phương Quảng Nam - Đà Nẵng đủ sức là trung tâm công nghiệp cho cả vùng duyên hải miền Trung và đáp ứng một phần yêu cầu của các tỉnh Tây Nguyên. Phát triển vận tải ven biển.

Phân bố lại lao động và dân cư trong tỉnh để khai thác thế mạnh ở vùng đồi núi, đầm phá và biển, đưa một phần lao động đi mở mang xây dựng kinh tế ở Tây Nguyên.

8. Miền Đông Nam bộ

Song song với việc giải quyết lương thực, yêu cầu lớn nhất là phát triển mạnh cao su, cà phê, thuốc lá, đỗ tương, mía, lạc..., để cung cấp ổn định nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu.

Phát triển mạnh chăn nuôi trâu, bò, lợn, trồng rau và cây ăn quả, đánh bắt thủy sản để cung cấp cho khu công nghiệp Biên Hòa, Vũng Tàu.

Bảo vệ, tu bổ, chăm sóc rừng, trồng rừng nguyên liệu cho nhà máy giấy Tân Mai. Phát triển mạnh việc trồng cây lấy củi.

Sắp xếp và bố trí lại mạng lưới công nghiệp, hợp tác chặt chẽ với Thành phố Hồ Chí Minh để nâng cao chất lượng sản phẩm công nghiệp phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các tỉnh và xuất khẩu.

Xúc tiến việc xây dựng thủy điện Trị An. Điều tra khảo sát để có kế hoạch khai thác các nguồn thủy năng khác phục vụ phát triển trong vùng và cả khu vực.

PHẦN THỨ BA

NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THỰC HIỆN
 KẾ HOẠCH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1984

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Việc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội nói trên diễn ra trong tình hình các cân đối lớn của kế hoạch còn có nhiều khó khăn, khả năng vật chất, nhất là xăng dầu, vật tư, nguyên liệu không tăng hoặc tăng không đáng kể so với năm 1983. Các vật tư chủ yếu sản xuất trong nước như điện, than, xi măng, gỗ, v.v. tuy có tăng nhưng còn thấp xa so với nhu cầu. Do đó, ngay từ bây giờ, trên một số mặt chưa thể cân đối kế hoạch một cách đầy đủ. Một mặt phải dồn sức tập trung bảo đảm cho những nhiệm vụ, mục tiêu then chốt, những sản phẩm và công trình trọng điểm; mặt khác, phải khai thác mọi khả năng sẵn có và thế mạnh của cả nước, của từng địa phương trong quá trình điều hành kế hoạch để bổ sung vào cân đối.

- Về xây dựng cơ bản: Có thể nói, chúng ta đứng trước một nền kinh tế - xã hội đang đòi hỏi đầu tư rất lớn, không những cho những nhu cầu cấp bách trước mắt mà cho cả sự chuẩn bị cần thiết để triển khai rộng lớn hơn sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà. Trong bố trí kế hoạch năm 1984, tuy đã tính toán chặt chẽ, nhưng vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ mới đáp ứng được khoảng 80% yêu cầu của các ngành, các địa phương. Cho nên, phải sử dụng đồng vốn thật hợp lý và hết sức tiết kiệm. Mặt khác, phải triệt để vận dụng khả năng "Nhà nước và nhân dân cùng làm", khả năng của bốn nguồn cân đối từ các địa phương và một số ngành. Đó là, cách tích cực nhất tạo thêm nguồn vốn để đẩy mạnh đầu tư xây dựng.

- Về xuất, nhập khẩu: Khả năng xuất khẩu của ta còn có thể huy động được hơn, nên kế hoạch xuất khẩu đã đề ra được coi là mức tối thiểu, trên thực tế cần tăng thêm để thực hiện nghĩa vụ đã cam kết đối với các nước anh em và để nhập thêm một số vật tư, nguyên liệu tối cần thiết từ khu vực ngoài xã hội chủ nghĩa.

Các ngành, các địa phương phải phấn đấu vượt mức kế hoạch kim ngạch xuất khẩu bằng việc động viên khuyến khích mọi ngành nghề, mọi cơ sở, mọi gia đình làm hàng xuất khẩu, ra sức tiết kiệm tiêu dùng để tăng nguồn hàng xuất khẩu. Đặc biệt chú trọng khai thác tiềm năng về nông sản, hải sản, các loại cây công nghiệp ngắn ngày mau cho sản phẩm. Đồng thời, đầu tư thích đáng cho xuất khẩu, nhằm vào những mặt hàng có giá trị kinh tế cao. Mở mang các hoạt động kinh doanh dịch vụ, du lịch, kiều hối,... Từ đó, có thêm ngoại tệ nhập nguyên liệu, vật tư để huy động tối đa công suất máy móc thiết bị phục vụ trở lại xuất khẩu và đáp ứng yêu cầu đời sống nhân dân.

- Cân đối năng lượng, đặc biệt là xăng dầu và điện (cũng là từ xăng dầu) còn rất gay gắt. Hiện nay, với mức tối thiểu như đã sử dụng trong năm 1983, nguồn xăng dầu còn thiếu gần 20%, và tất nhiên còn thấp xa so với yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề cấp bách đặt ra là phải hết sức tiết kiệm từng lít xăng dầu, từng kilôoát giờ điện, sử dụng xăng dầu đúng mục đích, có hiệu quả. Mặt khác, cũng phải bằng con đường xuất nhập khẩu để tạo thêm nguồn xăng dầu.

Để bổ sung vào các cân đối kế hoạch, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải có biện pháp thiết thực và tích cực nhất để sử dụng có hiệu quả lao động và đất đai, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Phải tạo thêm công việc làm cho người lao động, và bằng mọi cách phấn đấu đưa năng suất lao động xã hội tăng 3,8% so với năm 1983, riêng khu vực Nhà nước phải phấn đấu tăng nhanh hơn: năng suất lao động của công nhân sản xuất công nghiệp tăng 5%, của công nhân xây lắp tăng 10%, của công nhân vận tải tăng 4,5%. Trong năm 1984, phải giảm ít nhất 5 - 10% mức tiêu hao vật tư, nguyên liệu; giảm 3,7% giá thành, phí lưu thông.

Việc đổi mới các chính sách kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý và kế hoạch hóa, đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, phát động phong trào cách mạng của quần chúng là những tiềm năng còn to lớn cần được khai thác triệt để, nhằm phát huy sức mạnh làm chủ tập thể, khơi dậy tính năng động sáng tạo, ý thức trách nhiệm của các ngành, các cấp, nhất là của địa phương và cơ sở, góp phần khắc phục có hiệu quả các khó khăn, tạo ra được những nguồn bổ sung mới cho cân đối của kế hoạch.

Dưới đây là một số biện pháp chủ yếu:

Biện pháp quan trọng hàng đầu là sử dụng tốt lao động và đất đai. Một biện pháp lớn nữa là đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học và kỹ thuật. Hai vấn đề này đã được kết hợp nói rõ ở phần trên của bản báo cáo. Sau đây xin trình bày các biện pháp chủ yếu khác.

1. Khẩn trương sắp xếp lại sản xuất, xây dựng

Đây là một công việc to lớn và phức tạp, nên trong quá trình thực hiện mấy năm qua đã gặp nhiều khó khăn. Do đó, trong hai năm tới, phải phấn đấu hết sức tích cực với những yêu cầu xác đáng và nội dung thiết thực. Việc sắp xếp lại sản xuất và xây dựng, đứng về mặt chiến lược, phải xuất phát từ yêu cầu xây dựng và thể hiện trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, quy hoạch ngành và quy hoạch vùng, bảo đảm cân đối giữa sản xuất với các điều kiện sản xuất nhất là năng lượng, nguyên liệu, vật liệu, nhằm đạt được hiệu quả kinh tế quốc dân lớn nhất theo đúng đường lối của Đảng. Việc sắp xếp các cơ sở sản xuất hiện có và đang hoạt động trong nền kinh tế phù hợp với yêu cầu nêu trên là một quá trình phải làm trong nhiều năm, phải kết hợp một cách hợp lý với từng công trình xây dựng mới trong một chiến lược phát triển kinh tế dài hạn. Nhưng trước mắt, phải khẩn trương tiến hành sắp xếp lại các ngành sản xuất đang có nhiều vướng mắc và bất hợp lý, nhất là ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng. Cần xúc tiến việc phân giao các cơ sở sản xuất một cách hợp lý cho địa phương; lấy phát triển sản xuất và hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn số một, gắn công nghiệp chế biến với cơ sở nguyên liệu trên từng địa bàn. Tinh thần chung là Trung ương trực tiếp quản lý công nghiệp nặng và những cơ sở quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp, có nguồn thu ngân sách lớn, có ý nghĩa đối với cả nước; các cơ sở còn lại giao cho địa phương quản lý, địa phương có nghĩa vụ giao đủ sản phẩm cho Trung ương. Mở ra các hình thức hợp tác, liên kết kinh tế giữa các xí nghiệp, các thành phần kinh tế, các địa phương cũng như Trung ương với địa phương về các mặt sản xuất, cung ứng nguyên liệu, xuất nhập khẩu.

Từ việc sắp xếp lại các cơ sở sản xuất mà tiến đến sắp xếp lại các ngành công nghiệp theo hướng xây dựng và tăng cường các ngành kinh tế - kỹ thuật; củng cố các liên hiệp xí nghiệp và công ty đã hình thành một các hợp lý; thành lập thêm một số liên hiệp xí nghiệp và công ty đang là yêu cầu cần thiết để phụ trách toàn diện từng cây công nghiệp như cao su, dừa, đay, mía, chè, thuốc lá, v.v., tổ chức và quản lý có hiệu quả toàn bộ quá trình từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ và giao hàng xuất khẩu, kết hợp sản xuất với khoa học - kỹ thuật. Những việc trên đây phải làm dứt điểm về cơ bản trong năm 1984.

2. Hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất mới, mở rộng trận địa xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực

Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải được xúc tiến khẩn trương, phấn đấu đến năm 1985 căn bản làm xong việc đưa nông dân các tỉnh Nam bộ vào sản xuất tập thể thông qua các hình thức: tổ đoàn kết sản xuất, tập đoàn sản xuất và hợp tác xã nông nghiệp. Xóa bỏ ngay tư sản thương nghiệp; cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh dưới các hình thức thích hợp. Tổ chức lại tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp. Sắp xếp lại tiểu thương, chuyển một bộ phận tiểu thương sang sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, các tổ chức dịch vụ và sản xuất nông nghiệp. Gắn cải tạo công thương nghiệp tư doanh với cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, đặc biệt là gắn cải tạo với xây dựng, với việc tổ chức lại sản xuất và phân phối, lưu thông với việc củng cố và phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Trong khi tiến hành cải tạo, cần luôn luôn nắm vững mục tiêu chủ yếu của cải tạo là để đẩy mạnh sản xuất, để Nhà nước nắm chắc được sản phẩm của mọi thành phần kinh tế, phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động. Thủ trưởng các Bộ, các Tổng cục có liên quan và Uỷ ban nhân dân các cấp phải thực sự chỉ đạo công tác cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới trong ngành và địa phương; phối hợp chặt chẽ giữa các ngành với nhau, giữa ngành với địa phương.

Phải không ngừng tăng cường và củng cố kinh tế quốc doanh. Bằng việc tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, nhất là bằng đổi mới cơ chế quản lý và kế hoạch hóa, đồng thời xóa bỏ ngay những chế độ và thủ tục quản lý gò bó, hạn chế việc phát huy các tiềm năng to lớn sẵn có của kinh tế quốc doanh, bảo đảm cho thành phần này giữ vững và nêu cao vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân.

3. Vận dụng chủ trương "cân đối kinh tế theo bốn nguồn khả năng", tạo ra sức mạnh tổng hợp trong phát triển kinh tế - xã hội

Cân đối kinh tế theo "bốn nguồn khả năng" - khả năng tại chỗ; kết quả của hợp tác, liên kết kinh tế; nguồn xuất, nhập khẩu; vật tư, hàng hóa do cấp trên cung ứng - là một cách "làm ăn" mới xuất phát từ đặc điểm nền kinh tế nước ta trong chặng đường hiện nay, nhằm xóa bỏ lối quản lý hành chính bao cấp, ỷ lại bên trên và trông chờ bên ngoài, động viên các cấp khai thác các tiềm năng bên trong của nền kinh tế về lao động, đất đai, ngành, nghề, theo thế mạnh của từng địa phương và cơ sở, thể hiện rõ tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và cùng nhau làm chủ của các cấp quản lý. Chủ trương này đã được thực tiễn sinh động ba năm qua khẳng định là đúng. Vấn đề đặt ra là xúc tiến nghiên cứu quy chế cụ thể, hình thành cơ chế quản lý và kế hoạch hóa thích hợp để phát huy mạnh hơn các khả năng ấy.

Cần nhận rõ rằng hiện nay, phần vật tư, tiền vốn Nhà nước cung ứng đang rất có hạn, do đó, cấp trên phải bảo đảm đủ số lượng và chất lượng như đã công bố, cấp dưới phải sử dụng các nguồn vật chất này đúng mục đích, tập trung vào các mục tiêu chủ yếu nhất, không được tuỳ tiện thay đổi hướng và mục đích sử dụng, ảnh hưởng đến việc thực hiện các nhiệm vụ do cấp trên giao. Thực hiện việc quyết toán rõ ràng giữa Trung ương và địa phương, giữa nhiệm vụ được giao và phương tiện được cấp; giữa vật tư, hàng hóa được cung ứng với sản phẩm hàng hóa thu mua và giao nộp.

Để cho chủ trương này thật sự phát huy được tác dụng to lớn của nó, điều quan trọng trước hết là phải thực hiện nghiêm chỉnh và khẩn trương việc phân công, phân cấp toàn diện trong quản lý kinh tế giữa Trung ương, địa phương và cơ sở. Phải tiếp tục hoàn chỉnh các chính sách, chế độ thích hợp, khuyến khích và hướng dẫn địa phương và cơ sở phát huy ba nguồn khả năng còn lại, mà quan trọng bậc nhất là khả năng của bản thân, để trên cơ sở đó, thực hiện hợp tác, liên kết, đẩy mạnh xuất khẩu. Mỗi địa phương cần tiến hành kiểm kê, nắm chắc hơn nữa các thế mạnh của mình về lao động, đất đai, cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có, đề ra các phương án toàn diện để khai thác, không những bằng lực lượng của bản thân mà cả bằng các khả năng bên ngoài, thông qua liên kết kinh tế hoặc xuất, nhập khẩu. Thực hiện rộng rãi phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm, Trung ương và địa phương cùng làm" cả trong lĩnh vực sản xuất và trong lĩnh vực văn hóa - xã hội. Sử dụng những hình thức tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý để kết hợp chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp (nhất là công nghiệp chế biến) ngay từ cơ sở và trên địa bàn huyện, kết hợp kinh tế quốc doanh, tập thể và kinh tế gia đình, tận dụng mọi nguồn lao động, khả năng kỹ thuật, nguồn vốn và vật tư vào sản xuất.

Các khả năng của bốn nguồn đều phải được cân đối toàn diện và thể hiện trong kế hoạch của các cấp. Chú trọng tính toán kỹ hiệu quả kinh tế của các hình thức hợp tác, liên kết kinh tế và hoạt động xuất nhập khẩu, bảo đảm lợi ích kinh tế của mỗi bên tham gia trên cơ sở bảo đảm lợi ích của toàn xã hội và hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước.

4. Triệt để sử dụng hoạt động ngoại thương và quan hệ kinh tế với nước ngoài phục vụ việc phát triển kinh tế trong nước

Mở rộng hoạt động xuất - nhập khẩu và các quan hệ kinh tế với nước ngoài là một chính sách lớn và lâu dài có tầm chiến lược hết sức quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Nó thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của thời đại, làm cho chúng ta giành được thế chủ động trong phát triển kinh tế, kiên quyết chống lại và làm thất bại chính sách bao vây kinh tế của bọn đế quốc và bọn bành trướng đối với nước ta.

Trong quan hệ kinh tế với nước ngoài, chúng ta tiếp tục đặt lên hàng đầu sự hợp tác toàn diện với Liên Xô, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã cam kết với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác. Mở rộng sự hợp tác với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Cộng hòa Nhân dân Campuchia, tiến tới có sự phối hợp kế hoạch về kinh tế giữa ba nước Đông Dương. Đồng thời, chúng ta sẽ tích cực mở mang các quan hệ kinh tế với các nước khác và các tổ chức quốc tế.

Thực hiện một cơ chế quản lý thích hợp trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, bảo đảm Nhà nước độc quyền ngoại thương và Trung ương thống nhất quản lý ngoại thương và ngoại hối, đồng thời, phát huy mạnh mẽ tính chủ động, sáng tạo của địa phương trong việc mở mang xuất khẩu. Vận dụng linh hoạt phương thức "lấy xuất để nhập, lấy nhập để xuất", tạo ra nhiều khả năng quay nhanh đồng vốn, thu thêm ngoại tệ. Đó là một biện pháp tích cực để góp phần bảo đảm các cân đối của kế hoạch nhà nước.

Thực hiện nhiều hình thức hợp tác phong phú và đa dạng như gia công, liên doanh hai bên hoặc nhiều bên, vay nợ ngắn hạn và dài hạn, trao đổi hàng hóa, v.v.. để tranh thủ tối đa kỹ thuật và tiền vốn, nhằm khai thác thế mạnh của ta về lao động, đất đai, tài nguyên. Ngoài ra, sử dụng các hình thức như cung ứng tàu biển, du lịch, kiều hối, v.v. để thu thêm ngoại tệ.

5. Thực hành tiết kiệm toàn diện, triệt để chống lãng phí. Nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất xã hội

Tiết kiệm toàn diện, triệt để chống lãng phí trong sản xuất và trong đời sống là một quốc sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Nó phải trở thành phong trào cách mạng của nhân dân cả nước, phải được thể hiện trong chỉ tiêu kế hoạch và là một thước đo kết quả và hiệu quả hoạt động của từng ngành, từng địa phương, từng đơn vị cơ sở và tiến tới thể chế hóa bằng pháp luật. Trước mắt, cần hướng mọi hoạt động tiết kiệm và chống lãng phí và các đối tượng sau đây: lương thực, xăng dầu, điện, than, vật tư.

Biện pháp cơ bản để thực hiện tiết kiệm là ứng dụng rộng rãi các tiến bộ kỹ thuật nhằm giảm mạnh tiêu hao vật chất và lao động của từng đơn vị sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm; là chuyển mạnh sang kinh doanh, hạch toán, lấy năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn hàng đầu đánh giá mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Thủ trưởng các ngành và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các địa phương có trách nhiệm lớn nhất chỉ đạo thực hiện các biện pháp tiết kiệm, đề ra các phương án chỉ tiêu cụ thể trong từng thời gian, cho từng loại công việc và từng đơn vị. Có chính sách khen thưởng đúng mức đối với kết quả do tiết kiệm mang lại và xử lý rất nghiêm khắc các trường hợp vô trách nhiệm, gây lãng phí, để hư hao, mất mát vật tư, hàng hóa.

Hiện nay, mức sử dụng công suất máy móc, thiết bị, phương tiện, v.v. của ta đang còn quá thấp. Đây là một sự lãng phí lớn. Cần chú trọng đầu tư chiều sâu, đồng bộ hóa các xí nghiệp hiện có, tìm mọi cách bổ sung thiết bị, phụ tùng, trên cơ sở sắp xếp lại sản xuất, để nâng cao hệ số sử dụng lên 60 -70% rồi 80 - 90%. Điều quyết định nhất là tìm mọi cách giải quyết tốt vấn đề nguyên liệu, nhiên liệu. Đối với nguyên liệu trong nước, bằng các chính sách thỏa đáng đối với cơ sở, địa phương và người sản xuất, khuyến khích sản xuất và mở rộng thu mua, không để các nhà máy chế biến nông sản và thức ăn gia súc vì thiếu nguyên liệu mà không sử dụng hết công suất. Đối với nguyên liệu nhập khẩu, cần động viên cao độ nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng các hình thức hợp tác, gia công; đồng thời, trên cơ sở tính toán kỹ hiệu quả, sử dụng các nguồn tín dụng quốc tế nhập thêm nguyên liệu, vật tư.

Thực hiện nghiêm ngặt chế độ quyết toán vật tư. Xác định rõ và ra sức thực hiện các tiêu chuẩn, định mức về tiêu hao vật chất và lao động, các chỉ tiêu về năng suất lao động, giá thành, chi phí lưu thông, chất lượng sản phẩm, hiệu quả đồng vốn của đầu tư và của sản xuất, vận tải, kinh doanh.

6. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý và kế hoạch hóa

Thấu suốt hơn nữa phương hướng đổi mới quản lý kinh tế và kế hoạch hóa theo hướng khuyến khích mạnh mẽ người lao động hăng hái sản xuất, gắn trách nhiệm, quyền lợi với kết quả lao động cuối cùng; bảo đảm cho các cấp quản lý thật sự cùng nhau làm chủ trong sản xuất, kinh doanh và tổ chức đời sống nhân dân, bảo đảm kỷ luật chặt chẽ, chế độ trách nhiệm cụ thể và nghiêm ngặt, không ngừng mở rộng và tăng cường trận địa xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực.

Nhanh chóng hoàn thành việc phân cấp quản lý cho tỉnh (thành phố), huyện (quận), chủ yếu về các mặt: quản lý cơ sở sản xuất, kế hoạch, ngân sách, quản lý vật tư, lương thực, hàng hóa, xuất nhập khẩu.

Soát xét lại, bổ sung và cải tiến các chính sách kinh tế: giá, đầu tư, tài chính, tín dụng, xuất nhập khẩu, lương thực, thu mua, v.v. nhằm khuyến khích phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả của sản xuất và các hoạt động kinh tế, kết hợp hài hòa ba lợi ích, bảo đảm lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể, khuyến khích lợi ích cá nhân người lao động. Bổ sung, hoàn chỉnh các chính sách đòn bẩy đối với nông nghiệp và tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp (về giá cả, lương thực, thu mua sản phẩm...), nhất là các chính sách đối với cây công nghiệp. Ban hành chính sách khuyến khích và hướng dẫn phát triển kinh tế gia đình.

Công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế nhất thiết phải lấy kế hoạch làm công cụ chủ yếu, phải dựa vào kế hoạch mà lãnh đạo và chỉ đạo các quá trình kinh tế - xã hội. Chúng ta tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hóa cả về nội dung và phương pháp, bảo đảm các cấp thật sự làm chủ về kế hoạch, sử dụng tốt bốn nguồn khả năng để xây dựng kế hoạch từ cơ sở lên. Nền kinh tế nước ta còn nhiều thành phần, chưa ổn định, cơ cấu chưa đồng bộ, thông tin liên lạc còn nhiều khó khăn... Do đó, cần có chế độ kế hoạch hóa vừa chặt chẽ, vừa linh hoạt, phù hợp với đặc điểm tình hình nói trên.

Trong công nghiệp, phải coi trọng kế hoạch của các xí nghiệp, liên hiệp xí nghiệp. Trong nông nghiệp, coi trọng kế hoạch cấp huyện và kế hoạch của các nông trường quốc doanh. Các cấp quản lý, từ Trung ương đến địa phương, phải hướng dẫn và cùng với các cơ sở xây dựng kế hoạch; trên cơ sở ấy, tổng hợp thành kế hoạch của địa phương, ngành và cả nước.

Kế hoạch kinh tế - xã hội của ta đặt lên hàng đầu giá trị sử dụng và các cân đối hiện vật, đồng thời cũng rất coi trọng giá trị và các cân đối về giá trị. Vì vậy, kế hoạch phải gắn với hạch toán và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, phải sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quan hệ thị trường trong kế hoạch hóa. Chấn chỉnh các định mức, đơn giá làm cơ sở cho việc xây dựng dần các bảng cân đối tổng hợp như: cân đối tài chính, thu chi tiền tệ dân cư, cân đối ngoại tệ, v.v.. Ở cơ sở xí nghiệp, đặc biệt coi trọng xây dựng kế hoạch tăng năng suất lao động, hạ giá thành, tiết kiệm năng lượng, vật tư.

Chấn chỉnh công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch từ Trung ương đến cơ sở. Thực hiện nghiêm ngặt chế độ hợp đồng kinh tế, có thưởng, phạt nghiêm minh, xử lý kịp thời những mất cân đối và vướng mắc.

Hoàn thiện tổ chức quản lý các đơn vị cơ sở trong nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, lưu thông, v.v. xuất phát từ trình độ sản xuất, quan hệ sản xuất của mỗi loại cơ sở mà bố trí kế hoạch, hạch toán, vận dụng các cơ sở đòn bẩy cho phù hợp. Tiếp tục bổ sung và sửa đổi chế độ quản lý xí nghiệp quốc doanh theo hướng bảo đảm quyền tự chủ về tài chính, mở rộng quyền chủ động của xí nghiệp trong sản xuất, kinh doanh. Hoàn chỉnh chế độ quản lý hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp. Sớm hoàn chỉnh chế độ khoán sản phẩm trong nông nghiệp, kịp thời uốn nắn những lệch lạc đã xảy ra.

Củng cố bộ máy quản lý kinh tế ở các cấp, các ngành, đặc biệt coi trọng các ngành kinh tế - kỹ thuật then chốt, các cây công nghiệp chủ lực và một số huyện, quận trọng điểm. Bố trí cán bộ đủ năng lực; thay thế các cán bộ không chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, không gương mẫu, không đủ khả năng đảm đương trách nhiệm được giao. Soát xét lại biên chế ở tất cả các cơ quan, Trung ương đến cơ sở. Cắt bỏ những tổ chức trung gian không cần thiết, thực hiện một biên chế gọn, nhẹ, có năng suất, có hiệu lực. Cải tiến lề lối làm việc, thực hiện đúng bốn chế độ phục vụ nhân dân, sát thực tiễn, sát cơ sở.

7. Đẩy mạnh xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội đồng Bộ trưởng (tháng 5 -1983), đẩy mạnh công tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện, góp phần quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội hai năm 1984 - 1985. Phấn đấu đến năm 1985 có sự chuyển biến rõ rệt ở tất cả các huyện, không còn huyện kém; tập trung xây dựng các huyện trọng điểm về lúa, cây công nghiệp, hải sản và về an ninh, quốc phòng.

Trong năm 1984, về cơ bản làm xong việc soát xét, bổ sung quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội và quy hoạch ngành.

Đổi mới công tác kế hoạch hoá, giải quyết những vướng mắc để huyện và cơ sở xây dựng được kế hoạch, chủ động cân đối theo bốn nguồn khả năng.

Xúc tiến hoàn thành trong năm 1984 việc phân cấp quản lý kinh tế, phân giao cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội cho huyện, bảo đảm quyền chủ động của huyện về ngân sách, quỹ lương thực, về thống nhất quản lý và chỉ đạo thu mua nông, lâm, thủy sản, về xây dựng các công ty như: Công ty cung ứng, thu mua vật tư, công ty lương thực, công ty thương nghiệp tổng hợp, công ty vận tải thô sơ và cơ giới, công ty xuất khẩu làm nhiệm vụ tạo chân hàng ở huyện.

Tăng cường cán bộ cho huyện và cơ sở, nhất là đối với các huyện ở miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.

Các ngành Trung ương có trách nhiệm kết hợp chặt chẽ với tỉnh để làm tốt công tác của ngành mình ở các huyện.

8. Phát động phong trào cách mạng của quần chúng. Đẩy mạnh thi đua xã hội chủ nghĩa

Phát động phong trào cách mạng của quần chúng và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là hai loại biện pháp tổng hợp có tính chất quyết định để xây dựng và hoàn thành tốt kế hoạch nhà nước.

Để bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân lao động trong sản xuất cũng như trong phân phối - lưu thông và quản lý xã hội, phải xúc tiến nghiên cứu xác định cơ chế cụ thể về từng lĩnh vực. Kết hợp chặt chẽ ba loại biện pháp kinh tế, hành chính và giáo dục chính trị, tư tưởng, kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế, gắn chặt nghĩa vụ với lợi ích, kích thích vật chất đi đôi với giáo dục chính trị, tư tưởng.

Phát huy vai trò của các đoàn thể công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội nông dân để các tổ chức đó thật sự tiêu biểu cho quyền làm chủ tập thể của quần chúng trong các phong trào hành động cách mạng. Từng phường, xã, quận, huyện tổ chức tốt hơn nữa phong trào nhân dân lao động, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội.

Tổ chức phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa rộng khắp trong các tầng lớp nhân dân, ở tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở. Thủ trưởng các ngành, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp phải quan tâm tổ chức chỉ đạo phong trào, phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể nhân dân, nhằm đạt hiệu quả kinh tế thiết thực.

Đi đôi với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phải chăm lo giải quyết những khó khăn trong đời sống của nhân dân, bảo đảm các điều kiện vật chất cho sản xuất và xây dựng. Phong trào cách mạng của quần chúng phải được duy trì bằng việc tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế quản lý kinh tế, bảo đảm khơi dậy tính năng động và sức sáng tạo của hàng triệu quần chúng nhân dân.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Ba năm qua, trong tình hình hết sức khó khăn của đất nước, nền kinh tế vẫn đứng vững và đi lên; đó là thành tựu rất đáng tự hào của nhân dân ta. Trước mắt, nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh được đặt ra rất lớn và cấp bách. Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam, các Nghị quyết của Hội nghị lần thứ ba, thứ tư và thứ năm mới đây của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định những chủ trương, biện pháp chủ yếu để tiếp tục đưa nền kinh tế nước ta phát triển hơn nữa. Thực tế đã qua cho chúng ta những cơ sở khách quan để tin tưởng rằng đất nước đang đứng trước những triển vọng tốt đẹp, mặc dù thử thách vẫn còn rất lớn. Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ chung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn kính mến, phát huy mạnh mẽ sức mạnh của chế độ làm chủ tập thể, với tinh thần tự lực tự cường và đoàn kết quốc tế, với ý thức chủ động và sáng tạo thì kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1984 nhất định sẽ được hoàn thành, mở ra triển vọng mới tốt đẹp cho những năm tiếp sau. Hội đồng Bộ trưởng xin phép được bày tỏ với Quốc hội, với đồng bào và chiến sĩ cả nước, với kiều bào ở nước ngoài niềm tin tưởng đã qua thực tế kiểm nghiệm đó.

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội