VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 1) 1981 - 1983

 

TỜ TRÌNH CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
VỀ DỰ THẢO LUẬT BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
(Do ông Nguyễn Hữu Thụ, Bộ trưởng, Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng
 trình bày tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa VII, ngày 20-12-1983)

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Thực hiện chương trình làm luật đã được Hội đồng Nhà nước thông qua, Hội đồng Bộ trưởng đã tổ chức soạn thảo Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Dự luật này được bắt đầu soạn thảo từ năm 1980 cùng với Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và đã được gửi đi lấy ý kiến của địa phương và các cơ quan có liên quan ở Trung ương nhiều lần.

Dự Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được soạn thảo căn cứ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng, Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân mới được Quốc hội thông qua trong kỳ họp tháng 6 năm 1983 và các luật hiện hành khác.

Dự Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân lần này gồm 11 chương, 72 điều, vừa là đúc kết những kinh nghiệm thực tế của công tác bầu cử trong hơn 20 năm qua, vừa là hệ thống hóa và kế thừa những điểm còn phù hợp của Pháp lệnh ngày 18 tháng 01 năm 1961 về thể lệ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và Pháp lệnh ngày 22 tháng 01 năm 1981 sửa đổi và bổ sung một số điều khoản của Pháp lệnh năm 1961.

Quá trình thảo luận Dự thảo Luật này, từ Trung ương đến các địa phương đã có sự nhất trí cao. Nghiên cứu, tiếp thu những ý kiến của Hội đồng Nhà nước, Ủy ban pháp luật của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các cơ quan có liên quan ở Trung ương và địa phương, nhiều ý kiến đã được đưa vào Dự thảo luật, nhưng cũng có những ý kiến đã được ghi nhận để đưa vào văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Sau đây là những vấn đề cần quan tâm và đã có nhiều ý kiến:

1. Về quyền bầu cử và ứng cử của công dân: Điều 2 Dự thảo Luật đã ghi: "Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có thể được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân, trừ những người mất trí, những người đang bị tạm giam, bị tù giam, bị tập trung cải tạo và những người bị pháp luật hoặc Tòa án tước các quyền đó. Công dân đang ở trong Quân đội nhân dân có quyền bầu cử và có thể được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân".

2. Về tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân: Để củng cố và nâng cao chất lượng của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Điều 3, Dự thảo Luật đã ghi: "Đại biểu Hội đồng nhân dân phải là người trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, có thành tích sản xuất công tác hoặc chiến đấu, có nhiệt tình phục vụ nhân dân, tích cực chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, gương mẫu trong sinh hoạt, có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu và được nhân dân tín nhiệm". Đây là vấn đề mới, các Pháp lệnh quy định về thể lệ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân chưa có quy định này.

Có ý kiến đề nghị, Luật cần ghi cụ thể hơn nữa, kể cả tiêu chuẩn văn hóa của đại biểu.

3. Về việc giới thiệu người ra ứng cử: Quán triệt quan điểm của Đảng về quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, Điều 27, Dự thảo Luật đã ghi: "Căn cứ vào đề cử của các tập thể nhân dân lao động ở cơ sở, của các chính đảng, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội khác ở địa phương, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiến hành hiệp thương để lập danh sách những người được giới thiệu ra ứng cử, sau khi đã tham khảo ý kiến rộng rãi của tập thể nhân dân lao động ở nơi làm việc và nơi ở của người được giới thiệu ra ứng cử.

Người được giới thiệu ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân địa phương nào phải là người cư trú ở địa phương đó.

Số người được giới thiệu ra ứng cử ở đơn vị bầu cử nào phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó, để cử tri chọn bầu khi bỏ phiếu.

4. Về nhiệm vụ của Hội đồng Nhà nước: Nhiều ý kiến nhất trí ghi như trong Dự thảo Luật về nhiệm vụ của Hội đồng Nhà nước trong việc giám sát các cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.

Dự thảo Luật quy định ở Điều 6: "Hội đồng Nhà nước giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân bảo đảm cho các cuộc bầu cử tiến hành dân chủ đúng pháp luật" và Điều 57: "Hội đồng Nhà nước quyết định hủy bỏ cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nào có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Hội đồng Bộ trưởng ấn định ngày bầu lại Hội đồng nhân dân ấy". Như vậy, vừa tạo điều kiện chủ động cho việc điều hành công việc của Hội đồng Bộ trưởng và Ủy ban nhân dân các cấp, vừa bảo đảm cho sự thực hiện nghiêm chỉnh những quy định cụ thể về thể thức bầu cử.

5. Về nhiệm vụ của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với các cuộc bầu cử, Điều 5, Dự thảo Luật quy định: "Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở địa phương có trách nhiệm giới thiệu danh sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân và cùng với các cơ quan chính quyền tổ chức việc bầu cử".

Dự thảo Luật quy định sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân khác ở địa phương, cho đúng với chức năng của các cơ quan này.

6. Căn cứ thực tế hiện nay, để việc chọn bầu đại biểu Hội đồng nhân dân được tốt, nâng cao chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân, Điều 8 Dự thảo Luật quy định số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có ít hơn so với hiện nay, cụ thể là:

- Cấp xã, phường, thị trấn giảm 5 đại biểu;

- Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và cấp huyện, quận giảm 10 đại biểu;

- Cấp tỉnh giảm 20 đại biểu; riêng đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo giữ nguyên 50 đại biểu.

7. Có ý kiến đề nghị nên chia đơn vị bầu cử nhỏ hơn nữa; mỗi đơn vị bầu cử chỉ bầu 1 đại biểu.

Dự thảo Luật lần này quy định mỗi đơn vị bầu không quá 3 đại biểu. Riêng cấp xã, phường thị trấn bầu không quá 5 đại biểu.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Trong kỳ họp tháng 6 năm 1983, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Việc sớm có Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân là một yêu cầu cấp thiết.

Bằng việc thảo luận và thông qua Dự thảo Luật này, Quốc hội tiếp tục phát huy chức năng của mình trong việc bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động và tăng cường các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

Hội đồng Bộ trưởng trân trọng đề nghị Quốc hội xem xét và thông qua Dự thảo Luật này.


 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội