VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 1) 1981 - 1983

 

THUYẾT TRÌNH CỦA ỦY BAN KINH TẾ,
 KẾ HOẠCH VÀ NGÂN SÁCH CỦA QUỐC HỘI
VỀ KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
(Do ông Đào Văn Tập, Chủ nhiệm Uỷ ban kinh tế,  kế hoạch và ngân sách của Quốc hội
trình bày tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa VII, ngày 22-12-1983)

Để thẩm tra các báo cáo về kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước mà Hội đồng Bộ trưởng trình Quốc hội tại kỳ họp này, Ủy ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách đã làm việc với đại diện của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Lao động. Dựa vào kết quả làm việc với các cơ quan nói trên và kết quả nghiên cứu, xem xét trong năm vừa qua, Ủy ban chúng tôi xin trình Quốc hội những ý kiến về các vấn đề sau đây:

I- Về kết quả thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1983 và tình hình kinh tế - xã hội trong ba năm 1981 - 1983.

II- Về phương hướng nhiệm vụ kế hoạch nhà nước năm 1984 và mức phấn đấu năm 1985.

III- Về ngân sách nhà nước.

IV- Về phân phối, lưu thông và đời sống.

V- Một số vấn đề về quản lý kinh tế.

*
*       *

I- VỀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
NĂM 1983 VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
TRONG BA NĂM 1981-1983

Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng và Nghị quyết các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng được thể chế hóa trên Nghị quyết của Quốc hội, trong năm 1983 và ba năm 1981 - 1983, toàn dân và toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu, đạt được những thắng lợi to lớn trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, thắng lợi to lớn là đã khắc phục được tình trạng sút kém nghiêm trọng của nền kinh tế trong những năm 1979 - 1980, "nền kinh tế nước ta đang chuyển biến theo hướng đi lên, ổn định dần từng mặt, tạo tiền đề cho những bước phát triển mới" như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V) đã nhận định. Trong ba năm, tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân đều tăng; tốc độ tăng bình quân hằng năm đã vượt hẳn tốc độ của thời kỳ 1976 -1980.

Trên mặt trận nông nghiệp - mặt trận hàng đầu của nền kinh tế nước ta hiện nay - thành tựu nổi bật là sản lượng lương thực bình quân hằng năm tăng gần 1 triệu tấn; nhờ vậy, năm 1983 không còn phải nhập khẩu lương thực. Riêng trong năm 1983, nếu không bị ảnh hưởng nặng nề của 4 cơn bão liên tiếp, thì kế hoạch sản lượng lương thực đã được hoàn thành và hoàn thành vượt mức. Nền kinh tế nước nhà trong ba năm qua còn đạt những thành tựu và tiến bộ trên các lĩnh vực cải tạo xã hội chủ nghĩa, sản xuất công nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, thu mua lương thực, tăng nguồn hàng xuất khẩu, khai thác các nguồn thu tài chính. Các sự nghiệp văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế tiếp tục phát triển.

Trong ba năm qua, đã có một số công trình quan trọng đi vào sản xuất và sử dụng; sắp tới, sẽ còn có thêm các công trình như vậy. Chúng tôi đề nghị Hội đồng Bộ trưởng hết sức quan tâm tạo điều kiện cho các công trình mới này phát huy hiệu quả ngày càng cao và không bị gián đoạn đối với sản xuất, đời sống và quốc phòng.

Tuy đã đạt được những thành tựu và tiến bộ như trên, song nhìn chung, nền kinh tế còn có nhiều khó khăn và mâu thuẫn gay gắt:

- Sản xuất có tăng, nhưng năng suất, chất lượng và hiệu quả còn kém, cơ cấu kinh tế quốc dân và cơ cấu kinh tế của các địa phương, nhất là ở cấp huyện, chưa được xác lập và củng cố việc sắp xếp lại sản xuất và xây dựng tiến hành chậm.

- Thu nhập quốc dân có tăng, nhưng phân phối thu nhập quốc dân có thiếu sót và sơ hở, tư thương và những kẻ làm ăn phi pháp làm giàu, trong khi đó nguồn thu của Nhà nước bị thất thoát nhiều, tích lũy nội bộ chưa có, đời sống của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang rất khó khăn.

- Sản xuất có phát triển, cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân được tăng cường thêm một bước, nhưng trận địa kinh tế - xã hội chủ nghĩa chưa được củng cố và mở rộng, trái lại bị các thế lực tự phát của thị trường "tự do" xâm lấn.

Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng và Nghị quyết các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích nguyên nhân và chỉ rõ phương hướng, chủ trương khắc phục từng bước những khó khăn và mâu thuẫn nói trên. Những phương hướng và chủ trương đó cần được cụ thể hóa trong kế hoạch hằng năm của Nhà nước.

Kế hoạch nhà nước cần coi trọng cả số lượng, năng suất, chất lượng và hiệu quả; có chủ trương cụ thể về cải tạo cơ cấu kinh tế cũ, xây dựng cơ cấu kinh tế mới; coi trọng cả sản xuất, phân phối, lưu thông và đời sống. Kế hoạch nhà nước cần quán triệt chủ trương của Đảng về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, phát triển mạnh mẽ và tăng cường các khu vực kinh tế - xã hội chủ nghĩa, trước hết là kinh tế quốc doanh. Nói cách khác, kế hoạch nhà nước cần coi trọng cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cân đối tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội.

II- VỀ PHƯƠNG HƯỚNG,
NHIỆM VỤ KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1984
VÀ MỨC PHẤN ĐẤU NĂM 1985

Báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng về phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch nhà nước năm 1984 và mức phấn đầu năm 1985 thể hiện tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là trong hai năm 1984 - 1985 "phải hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của thời kỳ 1981 - 1985, bảo đảm cơ bản ổn định tình hình kinh tế và đời sống, đồng thời chuẩn bị thật tốt cho kế hoạch 1986 - 1990". Các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế bố trí cho hai năm nói chung đều cao hơn năm 1983, trong đó đáng chú ý là tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân (tính theo giá cố định) tăng gần gấp rưỡi hoặc gần gấp đôi tốc độ tăng của năm 1983; giá trị tổng sản lượng công nghiệp và nông nghiệp được dự kiến vượt hẳn tốc độ của năm 1983. Phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch được trình bày trong báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng, thì nền kinh tế quốc dân sẽ có tích lũy nội bộ, dự trữ Nhà nước tăng lên, mức sản xuất theo đầu người về thu nhập quốc dân, về sản xuất lương thực, vải, lụa, v.v. sẽ được cải thiện một bước. Khi đó, nước ta có thêm những tiền đề để bước vào nửa sau của những năm 1980 với nhiệm vụ triển khai mạnh mẽ sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà.

Triển vọng là đáng phấn khởi, song nhiệm vụ trong hai năm rất nặng nề và phức tạp. Vì vậy, chúng tôi thấy cần phân tích kỹ những căn cứ xác định các mục tiêu và chỉ tiêu kế hoạch, thi hành những biện pháp có hiệu lực để thực hiện các mục tiêu và chỉ tiêu đó.

Trước hết, cần phân tích quá trình phát triển trong ba năm qua để rút ra kết luận cần thiết cho việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch hai năm tới.

Nhìn lại các chỉ số phát triển trong những năm qua, ta thấy trong hai năm 1979 - 1980, nền kinh tế bị giảm sút nghiêm trọng. Năm 1981, sản xuất bắt đầu nhích lên, tổng sản phẩm xã hội tăng được gần 1 tỷ rưỡi đồng (theo giá cố định). Sang năm 1982, sản xuất tăng lên nhiều hơn, tổng sản phẩm xã hội tăng được gần 3 tỷ rưỡi đồng, tức là gấp hơn hai lần mức tăng của năm 1981. Đến năm 1983, tốc độ và mức tăng đều kém năm 1982: tổng sản phẩm xã hội tăng 1 tỷ tám trăm triệu đồng, tức là chỉ bằng khoảng một nửa mức tăng của năm 1982. Xét riêng về sản xuất công nghiệp, tốc độ tăng của năm 1983 là 4%, kém xa tốc độ tăng trưởng bình quân của cả ba năm 1981 - 1983 là 11,8%. Sự phát triển tương đối thấp của năm 1983 đã làm giảm nhiều chỉ tiêu sản xuất theo đầu người so với năm 1982.

Sự phân tích rất sơ lược trên đây cho thấy, nền kinh tế nước nhà vừa gượng dậy sau những năm rất khó khăn, còn đang phát triển theo đường gãy khúc chứ chưa đi lên theo đường thẳng. Trong khi nông nghiệp còn là ngành kinh tế quan trọng nhất trong nền kinh tế quốc dân, thì tình hình trên đây đương nhiên có quan hệ rất nhiều đến thời tiết, như tình hình bão lũ cuối vụ mùa năm nay cho thấy rõ. Song sự nỗ lực chủ quan vẫn giữ vai trò quyết định hơn trong việc tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ và đồng đều của nền kinh tế, hạn chế khả năng phát triển theo đường gãy khúc như đã nêu.

Theo tinh thần đó, những chủ trương và biện pháp chủ yếu nêu trong báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng cần được thực hiện một cách kiên quyết, nhất quán và liên tục, đặc biệt là đối với biện pháp phân bố và sử dụng tốt lao động, đất đai, phát triển sản xuất phải đi đôi với bảo vệ con người, bảo vệ sản xuất, phòng chống thiên tai, chống địch phá hoại.

Căn cứ vào sự phân tích những khó khăn và mâu thuẫn gay gắt trong nền kinh tế hiện nay, chúng tôi kiến nghị Hội đồng Bộ trưởng, trong việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch nhà nước và ngân sách nhà nước, sớm giải quyết mấy quan hệ lớn và cấp bách sau đây:

- Một là, quan hệ công - nông nghiệp: Cần đẩy mạnh các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp chế biến và công nghiệp nặng để phục vụ nông nghiệp, trước hết là để có ngày càng nhiều hàng công nghiệp trao đổi hai chiều với nông dân. Tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp cần được hướng dẫn, tổ chức và giúp đỡ phát triển để cùng với công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Ngược lại, nông nghiệp cần được phát triển mạnh mẽ, toàn diện để cung cấp ngày càng nhiều lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và hàng xuất khẩu. Trong hai năm tới, chúng ta cần đạt được những kết quả rõ rệt hơn trong việc hình thành cơ cấu công - nông nghiệp.

- Hai là, quan hệ giữa sản xuất của cải vật chất với phân phối, lưu thông của cải làm ra: tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân tăng lên phải kéo theo sự hình thành từng bước quỹ tích lũy và sự cải thiện đời sống của người lao động và lực lượng vũ trang.

- Ba là, quan hệ giữa phát triển sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật với củng cố và phát triển các thành phần kinh tế - xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là kinh tế quốc doanh. Mở rộng trận địa xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế.

Cần giải quyết sớm các quan hệ có tính chất bao trùm trên đây, thì mới tạo ra tình hình kinh tế và không khí xã hội thuận lợi cho việc giải quyết các quan hệ khác trong nền kinh tế cũng như trong từng lĩnh vực kinh tế.

Đối với một số nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch nhà nước năm 1984, Ủy ban chúng tôi xin có ý kiến như sau:

Về sản xuất lương thực: Thực tế cho thấy, sản xuất nông nghiệp nói chung, lương thực nói riêng còn bấp bênh do còn phụ thuộc vào yếu tố thời tiết, sâu bệnh. Chúng ta đã giành thắng lợi to lớn trong sản xuất lương thực, song với mức sản xuất bình quân đầu người mới xấp xỉ 300 kg, chúng ta còn phải phấn đấu rất quyết liệt trong những năm sắp tới, thì mới có thể giải quyết một cách vững chắc vấn đề này. Sự phấn đấu đó có hai mặt: một mặt tăng mức sản xuất bằng các biện pháp thâm canh, tăng vụ, mở rộng diện tích, hết sức coi trọng việc cung ứng vật tư - kỹ thuật đủ số lượng, kịp thời vụ; mặt khác cần đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, đặt chỉ tiêu về mức tăng số dân trong hệ thống chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước.

Về sản xuất lương thực, có một vấn đề năm nào cũng được nói đến là vấn đề sản xuất màu. Nhưng chưa có chính sách và biện pháp cụ thể giải quyết có kết quả. Vấn đề này hiện nay càng trở nên cấp bách, bởi vì trong thời gian tới, chúng ta chủ trương đẩy mạnh phát triển cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày. Vài ba năm lại đây, diện tích màu thu hẹp, một phần quan trọng là do nông dân chuyển sang trồng cây công nghiệp có lợi hơn. Nếu chủ trương đẩy mạnh phát triển cây công nghiệp không đi đôi với chủ trương khuyến khích phát triển trồng, chế biến và tiêu thụ màu, thì có nguy cơ cây màu sẽ bị cây công nghiệp chèn lấn mạnh hơn. Do đó, chúng tôi xin kiến nghị Hội đồng Bộ trưởng có chủ trương cụ thể, có hiệu lực giải quyết vấn đề màu trong năm 1984 càng sớm càng tốt. Cũng xin nhắc lại rằng, chủ trương khuyến khích sản xuất màu phải đi đôi với chủ trương bảo vệ rừng, chống tệ phá rừng bừa bãi để trồng màu.

Về sản xuất công nghiệp: Trong tình hình gặp nhiều khó khăn về năng lượng, nguyên liệu, phụ tùng, nhưng nhờ phát huy tinh thần chủ động của các xí nghiệp, các địa phương, các ngành khai thác nguồn nguyên liệu trong nước và tại địa phương, đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, nên giá trị tổng sản lượng trong ba năm qua đã tăng so với mức tăng bình quân của các năm 1976 -1980.

Hiện nay, Nhà nước vẫn đứng trước những thiếu thốn gay gắt về hàng công nghiệp cần thiết cho sản xuất, cho tiêu dùng, cho việc trao đổi với hàng nông sản và cho xuất khẩu. Năng lượng, vật tư, nguyên liệu, phụ tùng đã thiếu, lại bị hư hao, thất thoát nhiều do những sơ hở trong quản lý.

Để giảm bớt khó khăn, chúng tôi thấy cần phải tập trung sức chi viện các ngành sản xuất then chốt như điện, than, v.v. tìm mọi cách để nâng cao mức sử dụng công suất máy móc, coi trọng và khuyến khích phát triển tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp.

Vừa qua, Ủy ban chúng tôi đã làm việc với đại diện của ngành Điện và ngành Than. Qua tìm hiểu, tuy chưa thật sâu, chúng tôi thấy rằng những khó khăn vướng mắc của hai ngành này trước hết là do những khuyết điểm, nhược điểm chủ quan trong các khâu tổ chức và quản lý mà mỗi ngành cần ra sức khắc phục. Song có nhiều khó khăn, vướng mắc mà bản thân các ngành này không tự giải quyết được, do đó cần có sự chỉ đạo và giúp đỡ của Hội đồng Bộ trưởng, các ngành, các địa phương có liên quan.

Sản lượng than năm 1983 giảm so với năm trước, trong khi đó, hiện có trên 1 triệu tấn than ứ đọng chưa tiêu thụ và vận chuyển đi được. Trong tình hình cả nước đâu đâu cũng thiếu chất đốt một cách gay gắt, thì việc giảm mức sản xuất và ứ đọng than như vậy là nghiêm trọng. Đời sống và điều kiện làm việc của công nhân, viên chức ngành Than gặp rất nhiều khó khăn; lương thực và thực phẩm cung cấp không đều, sức khỏe sút kém, bệnh nghề nghiệp khá nghiêm trọng. Đó là những vấn đề cần được Hội đồng Bộ trưởng quan tâm giải quyết gấp rút.

Công suất các thiết bị của các xí nghiệp công nghiệp phổ biến hiện nay mới được sử dụng 40% - 50%, thậm chí còn thấp nhiều hơn nữa. Đó là khuyết điểm lớn, sinh ra lãng phí lớn, cần được khắc phục sớm.

Đối với phần lớn xí nghiệp công nghiệp chế biến, đặc biệt là nông - lâm - hải sản, một nguyên nhân quan trọng khiến hoạt động dưới công suất là thiếu quy hoạch gắn cơ sở chế biến với cơ sở nguyên liệu. Vài ba năm gần đây, nổi lên hiện tượng có nhiều nhà máy chế biến của Trung ương thừa công suất vì các xí nghiệp địa phương phát triển, cạnh đó là những cơ sở chế biến tư nhân hoặc thực chất là tư nhân nhưng bề ngoài là hợp tác xã hay tập đoàn mọc lên một cách tự phát đã tranh nguồn nguyên liệu với các xí nghiệp Trung ương. Ủy ban chúng tôi kiến nghị Hội đồng Bộ trưởng có chủ trương giải quyết vấn đề này trong khi tiến hành sắp xếp lại sản xuất và xây dựng, quán triệt các nghị quyết về phân cấp quản lý của Đảng và Nhà nước.

Tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp là một lực lượng sản xuất quan trọng hiện nay. Trước hết, ngành này cần được cải tạo và sắp xếp theo chủ trương chung. Thứ hai, cần được giúp đỡ thích đáng trong việc bảo đảm nguồn năng lượng, thiết bị và nguyên liệu gia công chế biến. Thứ ba, ngành này cần được tăng cường quản lý về chính sách, chế độ, phương hướng phát triển, v.v. từ Trung ương đến địa phương. Chúng tôi xin kiến nghị Hội đồng Bộ trưởng xem xét việc tăng cường quản lý nhà nước ở cấp Trung ương.

Về đầu tư xây dựng cơ bản.

Đầu tư xây dựng cơ bản trong ba năm qua đã bước đầu có chuyển biến, được bố trí theo hướng sắp xếp lại. Vốn đầu tư được tập trung ưu tiên cho các công trình trọng điểm của Nhà nước, các mục tiêu chủ yếu, các ngành kinh tế quan trọng, như nông nghiệp, thủy lợi, điện, than, giao thông, các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Ngoài ra, vốn tín dụng ngân hàng đã bổ sung đầu tư cho các công trình cần phát triển theo chiều sâu.

Thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", "Trung ương và địa phương cùng làm", nhiều địa phương đã động viên được sức người, sức của trong nhân dân và bỏ thêm nguồn vốn tự có để làm nhiều công trình thủy lợi, giao thông, văn hóa, y tế, giáo dục, v.v. có tác dụng thiết thực đối với sản xuất và cải thiện đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân.

Để phát huy hơn nữa tác dụng đó, chúng tôi nghĩ rằng Hội đồng Bộ trưởng nên sớm nghiên cứu, ban hành một quy chế thích hợp: Quy chế "Nhà nước và nhân dân cùng làm" trong xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa.

Trong công tác đầu tư xây dựng cơ bản, vẫn còn khuyết điểm là phân tán, rải mành mành đối với các công trình dưới hạn ngạch; đơn giá định mức còn nhiều biến động; tệ trộm cắp và lãng phí còn phổ biến và nghiêm trọng.

Để cải tiến và nâng cao hiệu quả của công tác đầu tư xây dựng cơ bản trong năm 1984 và những năm tới, Ủy ban chúng tôi xin kiến nghị:

- Hội đồng Bộ trưởng tiến hành việc tổng kết và rút kinh nghiệm công tác đầu tư xây dựng cơ bản trong những năm qua, đề ra phương hướng, cơ cấu đầu tư sát hợp hơn cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

- Ngoài việc dành vốn ưu tiên đầu tư tiếp để xây dựng các công trình trọng điểm của Nhà nước, cần coi trọng đầu tư theo chiều sâu, đồng bộ hóa những công trình đang xây dựng, những xí nghiệp hiện có, đặc biệt là ngành Than, ngành chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

- Đầu tư cho những vùng chuyên canh lớn cây công nghiệp là rất cần thiết, đồng thời cũng phải rất coi trọng đầu tư cho miền núi và các tỉnh biên giới.

- Đầu tư vào các vùng cung cấp nguyên liệu cho các xí nghiệp đang sản xuất và những công trình đang xây dựng sắp xong như giấy Bãi Bằng (Vĩnh Phú), giấy Tân Mai (Đồng Nai), đường Lam Sơn (Thanh Hóa) và La Ngà (Đồng Nai), v.v..

- Cần quan tâm đặc biệt đến việc chấn chỉnh định mức, đơn giá, vấn đề quản lý giá thành, chất lượng, hạn ngạch và những quy chế đồng bộ về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.

- Coi trọng đầu tư cho các công trình cơ sở hạ tầng, trong đó chú trọng các kho bảo quản nông sản cho tương ứng với nhịp độ tăng thu mua.

- Có quy chế về kế hoạch hóa và quản lý nguồn vốn địa phương bổ sung cho đầu tư xây dựng cơ bản, xây dựng các công trình ngoài danh mục xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước.

Việc kế hoạch hóa và quản lý này, phải đạt yêu cầu vừa đề phòng tình trạng thiếu tổ chức và quản lý thống nhất trong đầu tư xây dựng, gây căng thẳng về vật tư và tiền vốn; vừa nhằm giúp đỡ các địa phương tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật để khai thác, phát huy các tiềm năng và thế mạnh của mình, xây dựng kinh tế địa phương vững mạnh theo quy hoạch và kế hoạch chung của cả nước.

- Giao thông vận tải, tuy đã có những tiến bộ bước đầu, vẫn còn là một khâu yếu cần được đặc biệt quan tâm giúp đỡ, kiểm tra trong chỉ đạo thực hiện kế hoạch nhà nước. Chúng tôi xin kiến nghị Hội đồng Bộ trưởng, Bộ Giao thông vận tải và các ngành có kế hoạch huy động tổng hợp các phương tiện, các hình thức vận tải của Nhà nước, của tập thể và nhân dân; phân bố, sử dụng và kiểm tra việc sử dụng hợp lý vốn đầu tư cho ngành Giao thông vận tải, hết sức coi trọng các tuyến vận tải Bắc - Nam, vận tải biên giới và giao thông miền núi.

- Đẩy mạnh xuất khẩu là một vấn đề có tầm quan trọng chiến lược trước mắt và lâu dài của nước ta. Ba năm qua, chúng ta đã có tiến bộ về mặt này, song tiềm năng còn lớn, chưa được khai thác. Đảng và Nhà nước đã có chủ trương đẩy mạnh cả xuất khẩu của Trung ương và địa phương. Qua thảo luận, Ủy ban chúng tôi thấy hiện vẫn còn những vướng mắc hạn chế việc khai thác các khả năng xuất khẩu của ta. Ý kiến chung là đề nghị Hội đồng Bộ trưởng xem xét tỷ giá kết hối hiện nay chẳng những không bảo đảm cho các địa phương và các xí nghiệp xuất khẩu có lãi hợp lý mà ngược lại càng xuất nhiều thì càng lỗ. Mặt khác, đối với thủ tục xuất nhập khẩu, đề nghị xem xét, cải tiến sao cho đơn giản, thuận tiện hơn. Nhiều đồng chí phụ trách địa phương cho rằng nếu tháo gỡ được những vướng mắc còn tồn tại, hoàn toàn có thể đạt và vượt mức xuất khẩu đề ra trong kế hoạch nhà nước.

III- VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Tại kỳ họp thứ 3 của Quốc hội khóa VII vào tháng 6-1982, Quốc hội đã phê duyệt dự toán ngân sách nhà nước năm 1982 với tổng số thu là 48.250 triệu đồng, tổng số chi là 52.250 triệu đồng, số bội chi là 4.000 triệu đồng.

Qua báo cáo tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1982, chúng tôi nhận thấy:

Trong năm 1982, nhân dân cả nước đã nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, ngành Tài chính đã cố gắng. Nhưng việc thu chi ngân sách nhà nước năm 1982 còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của ba yếu tố quan trọng: nền kinh tế quốc dân còn có những mặt mất cân đối nghiêm trọng; thị trường, vật giá chưa ổn định, chỉ tiêu của ngân sách còn chịu ảnh hưởng rất lớn của việc điều chỉnh giá năm 1981; công tác quản lý kinh tế tài chính còn nhiều sơ hở và thiếu sót.

Trong tình hình ấy, số bội chi của ngân sách nhà nước quyết toán năm 1982 vượt số dự kiến hơn 595 triệu đồng.

Qua việc xem xét tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 1983, Ủy ban chúng tôi có một số nhận xét:

1. Trong năm 1983, nền kinh tế của nước ta tiếp tục có chuyển biến tích cực. Công tác quản lý tài chính trong khu vực kinh tế quốc doanh từng bước được chấn chỉnh và đẩy mạnh hơn trước. Do đó, thu nhập thuần túy tập trung từ các xí nghiệp quốc doanh tăng đáng kể. Hai pháp lệnh về thuế công thương nghiệp và thuế nông nghiệp được các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo thực hiện. Đội ngũ cán bộ ngành Thuế được tăng cường và có nhiều cố gắng trong công tác. Nhờ đó, số thuế thu vào ngân sách tăng lên đáng kể, riêng thuế công thương nghiệp thu vượt kế hoạch và tăng gần gấp đôi so với năm 1982. Nhìn chung, tình hình thu của ngân sách đã có tiến bộ.

2. Nền kinh tế tuy có những chuyển biến tích cực, nhưng còn nhiều khó khăn và mất cân đối về năng lượng, vật tư, ngoại tệ. Nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch và ngân sách nhà nước đạt thấp. Công tác quản lý về thu mua nắm nguồn hàng, nắm tiền, quản lý tài chính và tiền tệ còn nhiều sơ hở. Kỷ luật thu chi ngân sách chưa được nghiêm.

Trong tình hình nói trên, ngân sách nhà nước năm 1983 ước thực hiện như sau:

- Tổng số thu ước 67.600 triệu đồng đạt 114% so với kế hoạch, tăng 19,5% so với năm 1982.

- Tổng số chi ước 70.500 triệu đồng, đạt 113% so với kế hoạch, tăng 15% so với năm 1982.

- Ngân sách nhà nước năm 1983 ước bội chi 2.900 triệu đồng.

Cũng như vài năm trước đây, Ủy ban chúng tôi thấy rằng nếu chỉ xem xét riêng ngân sách nhà nước do Bộ Tài chính quản lý, thì không hiểu một cách đầy đủ tình hình nền tài chính quốc gia. Do đó, cần kết hợp xem xét cả quan hệ vay mượn, tạm ứng hoặc cấp thay giữa Ngân hàng và Tài chính, cũng như tình hình thu chi tiền mặt của Ngân hàng Nhà nước. Đương nhiên, chúng tôi cũng hiểu rằng số bội chi tiền mặt và bội chi ngân sách là hai đại lượng khác nhau, có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng không nhất thiết bằng nhau. Đó là lý do Ủy ban chúng tôi kiến nghị Hội đồng Bộ trưởng báo cáo bổ sung với Quốc hội về vấn đề này.

Sang năm 1984, căn cứ theo kế hoạch mà Hội đồng Bộ trưởng trình Quốc hội, cả nước sẽ nỗ lực phấn đấu làm cho nền kinh tế nước nhà tiếp tục chuyển biến theo hướng đi lên. Tuy vậy, bước vào năm 1984, tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, việc khắc phục những mặt không cân đối của nền kinh tế quốc dân đòi hỏi thời gian. Giá cả còn biến động; công tác quản lý kinh tế - tài chính còn phải tiếp tục khắc phục những nhược điểm của cơ chế hành chính bao cấp.

Để góp phần làm cho tình hình kinh tế tiếp tục chuyển biến đi lên, công tác tài chính có nhiệm vụ phấn đấu từng bước ổn định nền tài chính, củng cố tiền tệ, thu hẹp mức bội chi ngân sách nhà nước.

Theo phương hướng nói trên, Hội đồng Bộ trưởng trình Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước năm 1984 với số thu tăng nhanh hơn số chi. Số bội chi ngân sách được đề nghị là 3.000 triệu đồng. Về số tuyệt đối, thì mức bội chi có cao hơn một trăm triệu đồng so với số bội chi ước tính của năm 1983, song thấp hơn số bội chi của quyết toán ngân sách nhà nước năm 1982. Trong một nền kinh tế có tổng sản phẩm dự kiến cho năm 1984 là trên 312 tỷ đồng (theo giá hiện hành), thì ảnh hưởng của số bội chi 3 tỷ đồng là không lớn. Song, như trên đã trình bày, khi xem xét nền tài chính quốc gia, cần xem xét cả hoạt động của Ngân hàng Nhà nước. Do đó, chúng tôi thấy cần dự kiến đến tác động tổng hợp của bội chi ngân sách, bội chi tiền mặt cùng các khoản cho vay hoặc tạm ứng, v.v. của Ngân hàng đối với nền kinh tế nói chung, thị trường vật giá nói riêng.

Tóm lại, tình hình tài chính nhà nước đã bước đầu có chuyển biến tích cực, song vẫn còn nhiều khó khăn. Việc đánh giá đầy đủ thực trạng nền tài chính nước nhà có tác dụng nâng cao hơn ý thức cùng lo toan, cùng gánh vác của tất cả các cơ quan nhà nước, của tất cả các ngành, các cấp, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện của nền kinh tế quốc dân nói chung, của tài chính nhà nước nói riêng.

IV- VỀ PHÂN PHỐI, LƯU THÔNG VÀ ĐỜI SỐNG

Để khắc phục tình hình phức tạp trong lĩnh vực phân phối, lưu thông, Ủy ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách tán thành những phương hướng tích cực nêu trong báo cáo của Hội đồng Bộ trưởng nhằm làm cho công tác trong lĩnh vực này có tiến bộ rõ rệt trong năm 1984. Cụ thể là: trên cơ sở đẩy mạnh phát triển sản xuất mà động viên cao độ nguồn hàng vào tay Nhà nước, nắm hàng, nắm tiền, làm chủ thị trường và giá cả, thống nhất quản lý phân phối và lưu thông các sản phẩm hàng hóa chủ yếu, phục vụ kịp thời và có hiệu quả cho sản xuất và đời sống. Để thực hiện yêu cầu trên đây, chúng tôi xin kiến nghị với Hội đồng Bộ trưởng:

- Do tính chất rất bức thiết của việc ổn định đời sống của công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang, đề nghị Hội đồng Bộ trưởng có chủ trương, biện pháp kiên quyết, cụ thể thi hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ V của Trung ương Đảng về vấn đề này và báo cáo với Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.

- Đề nghị Hội đồng Bộ trưởng và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước kiểm tra chặt chẽ việc xây dựng bốn quỹ hàng hóa một cách vững chắc, xem đây là những chỉ tiêu pháp lệnh, đồng thời chỉ đạo thực hiện nhằm bảo đảm cung ứng đủ và kịp thời vật tư, hàng hóa (kể cả của Trung ương và địa phương) cân đối với nhiệm vụ thu mua các loại nông sản và thực phẩm bằng hợp đồng kinh tế hai chiều, theo giá chỉ đạo ổn định của Nhà nước và bảo đảm cung cấp hàng hóa bán lẻ theo quy định cho công nhân, viên chức và các lực lượng vũ trang. Quỹ hàng hóa bán lẻ cho các đối tượng trên đây phải được xem là chỉ tiêu pháp lệnh. Phải tổ chức thực hiện, quản lý và kiểm tra chặt chẽ nhằm bảo đảm cung ứng đủ, đều cả về số lượng, chất lượng và giá cả, nhằm bảo đảm tiền lương thực tế của cán bộ, công nhân viên chức.

- Vai trò của giá cả trong tình hình hiện nay là rất quan trọng. Việc tính lại giá thành và phí lưu thông để có căn cứ xác định giá cả đúng đắn là một yêu cầu cấp thiết. Trên cơ sở ấy, cần hoàn chỉnh dần hệ thống giá chỉ đạo của Nhà nước đã được điều chỉnh từ năm 1981. Một yêu cầu cũng rất cấp thiết hiện nay là chính sách giá phải góp phần bảo đảm Nhà nước nắm được nguồn hàng cần thiết, quản lý được thị trường, vật giá. Không phải đợi đến khi tình hình kinh tế ổn định thì vật giá tự nhiên sẽ ổn định, mà ngược lại, công tác vật giá phải chủ động, tích cực góp phần làm ổn định tình hình kinh tế và đời sống. Việc nắm hàng, nắm tiền, ổn định thị trường, vật giá tùy thuộc một phần quan trọng ở bản thân chính sách giá, ở công tác cải tạo và quản lý thị trường, thể hiện cuộc đấu tranh giữa hai con đường trên lĩnh vực phân phối, lưu thông.

Bước sang năm 1984, có những nhân tố tích cực đối với việc quản lý thị trường và vật giá. Các chỉ tiêu sản xuất, thu mua và bán ra đều cao hơn nhiều so với năm 1983; bội chi ngân sách và bội chi tiền mặt có chiều hướng giảm. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm trong lĩnh vực phân phối, lưu thông cần tranh thủ và góp phần tích cực tạo ra các nhân tố tích cực đó. Nhưng đồng thời, cũng có một vài nhân tố có thể phát sinh tác dụng ngược lại đối với vật giá, nếu công tác quản lý bị buông lỏng. Đó là việc tăng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản (kế hoạch ghi là 23 tỷ đồng, trong đó 2 tỷ đồng là vốn của các địa phương, song cũng cần tính đến khả năng con số ước tính này còn thấp so với tình hình đầu tư thực tế diễn ra ở nhiều địa phương). Trong tình hình hàng hóa, vật tư trao đổi hai chiều không được bảo đảm trong kế hoạch thì việc tăng mức thu mua nông sản (nhất là lương thực), hàng công nghệ cũng có thể dẫn đến chỗ làm tăng số tiền mặt dùng để mua theo giá khuyến khích. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị Hội đồng Bộ trưởng, Ủy ban Vật giá Nhà nước và các cơ quan có liên quan, theo dõi sát diễn biến của thị trường, vật giá và đề xuất kịp thời những biện pháp xử lý thích hợp để kìm giá lại nếu chưa thể kéo xuống một bước.

V- MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ

Báo cáo của các đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã đề cập các vấn đề cấp thiết của công tác quản lý kinh tế hiện nay. Ủy ban chúng tôi xin nhấn mạnh một số yêu cầu đặt ra cho việc tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và kế hoạch hóa từ hành chính quan liêu bao cấp chuyển mạnh sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ba lợi ích, trong đó, lợi ích của toàn xã hội là cao nhất:

Một là, cần có chính sách và biện pháp vừa khuyến khích, vừa bắt buộc các đơn vị cơ sở, các cấp và các ngành coi trọng năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất và công tác. Để đạt mục tiêu này, cần có chế độ khuyến khích động viên, kiểm tra, đánh giá kết quả công việc của tất cả các lực lượng tham gia quá trình sản xuất và công tác, từ những người lao động sản xuất trực tiếp đến cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý; từ các cơ quan quản lý kinh doanh đến các cơ quan quản lý hành chính nhà nước; từ các cơ quan quản lý ngành đến các cơ quan hoặc tổ chức có trách nhiệm trên phạm vi lãnh thổ. Cần dấy lên một phong trào biểu dương, khuyến khích, ủng hộ những thành tựu và sáng kiến tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất và công tác; đấu tranh, phê phán những biểu hiện làm bừa, làm ẩu, làm hàng xấu, gây lãng phí, tăng giá thành và phí lưu thông không có căn cứ hợp lý.

Hai là, cần có chính sách và biện pháp củng cố, tăng cường và mở rộng trận địa của kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể; sử dụng, hướng dẫn và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; thực hiện đúng đắn việc liên kết giữa các thành phần kinh tế trong sản xuất vật chất, dưới sự lãnh đạo và cải tạo của Nhà nước và kinh tế quốc doanh.

Ba là, hết sức coi trọng việc xây dựng và phát triển kinh tế địa phương theo quy hoạch và kế hoạch thống nhất của Nhà nước; khuyến khích và giúp đỡ các địa phương cân đối kinh tế theo 4 nguồn khả năng. Để bảo đảm yêu cầu này, cần khẩn trương hoàn thành việc phân cấp quản lý cho các tỉnh và huyện.

Bốn là, thiết thực thực hiện quốc sách tiết kiệm trong sản xuất, xây dựng, quản lý nhà nước và trong tiêu dùng, đồng thời thực hiện các quyết định về tinh giảm biên chế hành chính.

*
*       *

Trên đây là một số ý kiến của Ủy ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách trình Quốc hội xem xét.


 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội