Kính thưa
các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Trước hết, Hội
đồng dân tộc chúng tôi hoàn toàn nhất trí với nội dung bản báo cáo của Hội
đồng Bộ trưởng về phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch nhà nước năm 1984.
Sau đây, căn
cứ vào tình hình một số địa phương miền núi do các Đoàn đại biểu của Hội
đồng dân tộc đi khảo sát, do phản ánh của các thành viên Hội đồng, và qua
nghiên cứu các tài liệu của các ngành cung cấp, Hội đồng dân tộc chúng tôi
xin phát biểu một số vấn đề về xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội miền
núi.
Thưa Quốc
hội,
Từ sau Đại hội
lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam và qua việc thực hiện kế hoạch nhà nước
từ năm 1981 đến nay, tình hình kinh tế - xã hội ở miền núi đã có những
chuyển biến đáng kể, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Các tỉnh miền núi,
nhất là các tỉnh biên giới... đã tích cực khắc phục hậu quả chiến
tranh... khôi phục sản xuất, trọng tâm là sản xuất lương thực, nên
hằng năm đã tăng sản lượng lương thực với mức độ khá. Ở miền Nam, nhiều
tỉnh, huyện miền núi, trong đó đáng chú ý là vùng Tây Nguyên, đã từ chỗ
thiếu lương thực, nay đã tự cân đối đủ ăn, còn có phần làm nghĩa vụ đóng góp
với Nhà nước và bắt đầu đi vào phát huy các thế mạnh của mỗi địa phương.
Sản xuất công
nghiệp có tiến bộ. Đáng kể là các tỉnh miền núi biên giới phía Bắc, tính đến
nay, đã đưa giá trị sản lượng công nghiệp địa phương lên gần ngang mức trước
cuộc chiến tranh... đầu năm 1979.
Tình hình phân
phối, lưu thông, văn hóa, xã hội, giao thông vận tải tuy còn nhiều tồn tại,
nhưng đã đạt được những kết quả nhất định.
Những chuyển
biến trên đây là biểu thị của lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần
đoàn kết khắc phục khó khăn, cần cù lao động của đồng bào các dân tộc miền
núi. Đó cũng là những kết quả bước đầu của việc thực hiện các chính sách về
kinh tế của Đảng và Nhà nước ta vừa qua được sửa đổi và bổ sung. Cũng từ đó,
làm cho khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, tăng cường, đồng thời, tạo
cơ sở bảo đảm cho việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên, nhìn toàn diện tình hình ở miền núi, ở vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số, trước hết là về kinh tế - xã hội thì còn nhiều nhược điểm và tồn
tại, nhiều mặt tiến bộ chậm. Các cơ sở vật chất, kỹ thuật để bảo đảm từng
bước tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở miền núi còn quá ít ỏi. Việc
khôi phục các cơ sở vật chất bị... phá hủy hồi tháng 2-1979 ở vùng
biên giới... làm còn chậm, có thứ bị hư hỏng đi nhiều (như đường sá,
cầu cống... chẳng hạn).
Do còn những
tồn tại trên, cộng với tình hình tăng dân số tự nhiên và lại thêm các lực
lượng vũ trang tăng lên ở miền núi và biên giới, nên các nhu cầu thiết yếu
cho đồng bào các dân tộc, nhất là vùng cao, biên giới phía Bắc chưa được đáp
ứng tốt. Khoảng cách chênh lệch giữa miền núi với miền xuôi, giữa các dân
tộc thiểu số với dân tộc đa số, giữa các dân tộc thiểu số với nhau ở một số
vùng và trên một số mặt không những chưa được thu hẹp, mà có chiều hướng
tăng lên hơn.
Những tồn tại
đó, do nhiều nguyên nhân, nhưng theo chúng tôi thì trước hết là do nhận thức
của các cấp, các ngành về vị trí chiến lược quan trọng của miền núi đối với
cả nước và về vấn đề dân tộc trong tình hình mới của cách mạng, chưa đầy đủ,
chưa đồng đều. Do đó, việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước đã đề ra đối với miền núi chưa sâu sát, toàn
diện và cụ thể. Có những vấn đề, Trung ương Đảng và Chính phủ đã đề ra từ
lâu, nhưng chưa được tổ chức thực hiện. Ví dụ: Việc nghiên cứu bổ sung và
sửa đổi các chính sách nhằm khuyến khích phát triển kinh tế, văn hóa miền
núi; việc tăng vốn đầu tư và cung ứng vật tư, hàng hóa cho miền núi và vùng
biên giới, v.v. làm còn quá chậm.
Để đưa nền
kinh tế - xã hội ở miền núi tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội, cụ thể là thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược, bốn mục
tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội lần thứ V của Đảng và các nghị quyết Hội
nghị Trung ương đề ra, từng bước tích cực xóa bỏ sự chênh lệch do lịch sử để
lại giữa các vùng và các dân tộc, Hội đồng dân tộc chúng tôi xin kiến nghị
một số vấn đề dưới đây:
1. Về mối quan
hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược ở miền núi, vùng đồng bào các dân tộc
Xuất phát từ
tình hình nhiệm vụ cách mạng của cả nước và tình hình cụ thể ở từng vùng,
Đảng và Nhà nước ta đã có những chỉ thị, nghị quyết xác định rõ phương
hướng, nhiệm vụ cho miền núi nói chung, vùng cao và vùng biên giới nói
riêng. Đặc biệt là ở những vùng biên giới phía Bắc thuộc tuyến I đang hàng
ngày trực tiếp chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của bọn bành trướng...
thì trong hai nhiệm vụ chiến lược phải đặt nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng
chiến đấu, bảo vệ vững chắc biên cương Tổ quốc là hàng đầu, đồng thời tích
cực sản xuất, bảo đảm đời sống và xây dựng các cơ sở vật chất, kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội một cách hợp lý, gắn chặt nhiệm vụ xây dựng kinh tế với xây
dựng quốc phòng, bảo vệ biên giới.
Bởi vậy, việc
đầu tư xây dựng cơ bản ở vùng cao, biên giới tất nhiên phải tính đến hiệu
quả kinh tế, nhưng trước hết phải căn cứ vào hiệu quả quốc phòng, chính trị
và xã hội là chính. Từ đó, đẩy mạnh xây dựng các cơ sở vật chất bảo đảm cho
cả quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu, kinh tế và dân sinh, trước tiên là mở
mang và tu sửa đường sá; phát triển các công trình thủy lợi, thủy điện (nhỏ
và vừa) kết hợp cơ khí nhỏ; bảo vệ và trồng rừng biên giới, rừng đầu nguồn,
xây dựng làng bản, tổ chức lại dân cư và xây dựng phòng tuyến bảo vệ biên
giới, v.v..
Việc tăng vốn
đầu tư và đẩy mạnh xây dựng các cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ kinh tế,
quốc phòng, đời sống ở miền núi nói chung, vùng cao, biên giới nói riêng, có
ý nghĩa rất quan trọng. Nó là nhiệm vụ của các tỉnh miền núi và vùng cao,
biên giới, đồng thời cũng là nhiệm vụ của cả nước phải gánh vác. Có như vậy
mới tạo ra nhanh chóng các điều kiện để tăng cường, củng cố biên giới, xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội miền núi, xây dựng, củng cố và tăng
cường ý thức làm chủ tập thể, tinh thần đoàn kết dân tộc, động viên sức mạnh
tổng hợp của đồng bào các dân tộc và công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Việc tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng ở miền núi, phải được đẩy mạnh
hơn nữa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, cách mạng về
tư tưởng và văn hóa là rất quan trọng. Do đó, cần tích cực hoàn thành công
cuộc cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở vùng các dân
tộc và miền núi phía Nam, ra sức phát triển và củng cố phong trào hợp tác
hóa nông nghiệp ở vùng miền núi phía Bắc, bằng nhiều hình thức và quy mô
thích hợp với tình hình thực tế ở mỗi vùng. Đặc biệt, cần nghiên cứu các
hình thái kinh tế và xã hội của từng vùng dân tộc khi bước vào chặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ để định rõ các chủ trương, chính sách, biện pháp
cụ thể, nhằm đưa nhân dân các dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách sát
hợp. (Vấn đề này đang được bắt đầu, bằng việc các ngành tham gia nghiên cứu
vùng Tây Nguyên theo chỉ thị của Bộ Chính trị và gợi ý của Chủ tịch Trường
Chinh).
Việc liên kết
và kết nghĩa giữa các huyện, các tỉnh ở miền núi và giữa miền núi với miền
xuôi nhằm hỗ trợ nhau trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, cải thiện
đời sống nhân dân cần được tổ chức chỉ đạo thực hiện một cách tích cực.
2. Về sản xuất
và đời sống
Tiềm năng kinh
tế ở miền núi rất phong phú và đều ở trong tầm tay, nhưng trong thực tiễn
thì còn nhiều vấn đề ta chưa quan tâm đúng mức đến việc khai thác và phát
triển, nền sản xuất và đời sống ở miền núi chưa phát triển mạnh.
Sản xuất lương
thực ở miền núi mấy năm qua tăng mạnh, nhưng do việc xác định phương hướng
sản xuất chưa rõ ràng, quy hoạch vùng sản xuất không cụ thể, công tác định
canh định cư, ổn định đời sống cho đồng bào miền núi chưa giải quyết được
tốt, chưa tạo được cơ sở để bảo đảm thâm canh, sản xuất còn nặng về quảng
canh. Vì vậy, đã gây ra nạn chặt phá rừng càng thêm nghiêm trọng, kể cả rừng
mới trồng và rừng đầu nguồn, để làm nương rẫy du canh trồng cây lương thực.
Thậm chí, có một số vùng đồi núi ngày càng trơ trọc, nguồn nước càng khó
khăn, đất đai canh tác càng bị xói lở, bạc màu, nên đã xảy ra tình hình xã
hội rất đáng quan tâm là: Mấy năm nay, số đồng bào đi định cư một cách không
có tổ chức, từ vùng này sang vùng khác, từ tỉnh này đến tỉnh khác đang có
chiều hướng tăng lên (từ Đông Bắc sang Tây Bắc, từ Lạng Sơn, Cao Bằng vào
Tây Nguyên, v.v..).
Tác hại của sự tàn phá rừng thật là to lớn, nó gây ra rất nhiều hậu quả đáng
lo ngại về môi trường sống cũng như về các mặt kinh tế, xã hội khác, mà có
lần chúng tôi đã trình bày trước Quốc hội.
Để đẩy mạnh
tốc độ biến các tiềm năng kinh tế ở miền núi thành hiện thực, góp phần xứng
đáng của miền núi vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, cải thiện từng bước đời sống đồng bào các dân tộc ở miền núi, Hội
đồng dân tộc chúng tôi đã có lần trình bày trước kỳ họp Quốc hội về phương
hướng phát triển nông - lâm nghiệp ở miền núi và về vấn đề định canh định
cư. Lần này, chúng tôi xin nhắc lại và phát biểu thêm như sau:
a) Cần hoàn
thành việc xây dựng quy hoạch tổng thể cho từng huyện và từ đó có quy hoạch
cụ thể đối với việc phát triển từng cây, con trên địa bàn từng cơ sở và
huyện (kể cả quy hoạch đất đai, thủy lợi, đường sá, làng bản...). Trong kế
hoạch nhà nước năm 1984 và các năm sau, cần đề ra các chỉ tiêu cụ thể và
đồng bộ đối với việc phát triển sản xuất lương thực, thực phẩm và các thế
mạnh ở miền núi, theo hướng thâm canh, định canh, tăng vụ, sản xuất nông -
lâm kết hợp, gắn nông - lâm với phát triển tiểu thủ công nghiệp và các ngành
nghề truyền thống của các dân tộc, gắn sản xuất với phân phối, lưu thông
trên địa bàn từng cơ sở và huyện. Kế hoạch phải tính toán cân đối các điều
kiện bảo đảm cho sản xuất như: lao động, lương thực, vốn, vật tư kỹ thuật,
v.v.. Đối với một số cây đặc sản có giá trị lớn, cần được quy vùng cụ thể,
có chính sách toàn diện, cả về sản xuất, chế biến, thu mua, giá cả và quản
lý chặt chẽ từ khi trồng đến khi thu hoạch sản phẩm.
b) Về mặt xây
dựng các cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sản xuất và phục vụ đời sống ở miền
núi, theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", "Nhà nước phải tăng
đầu tư cho các vùng dân tộc"
đồng thời vận động hợp tác xã và nhân dân góp công sức và vốn để phát triển
các cơ sở giống (cả cây trồng và gia súc), khai phá ruộng nương bậc thang,
công trình thủy lợi, giao thông, cơ khí nhỏ, thủy điện nhỏ và vừa, v.v.. và
các công trình về thông tin văn hóa, giáo dục ở cơ sở và huyện (chú ý vùng
biên giới phía Bắc bị... tàn phá tháng 2-1979).
c) Đối với
công tác vận động định canh định cư, cần sớm tiến hành tổng kết 15 năm thực
hiện Nghị quyết 38 của Hội đồng Chính phủ. Trên cơ sở đó, xác định lại diện
còn du canh du cư ở từng vùng và tiến hành tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh
việc xây dựng lực lượng sản xuất một cách đồng bộ, có trọng điểm, đi đôi với
việc tích cực xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa,
nhằm tạo ra cơ sở vật chất bảo đảm vững chắc cho sản xuất, ổn định và từng
bước nâng cao đời sống nhân dân. Cần đưa công tác định canh định cư vào kế
hoạch kinh tế - xã hội của mỗi cấp, mỗi ngành từ Trung ương đến cơ sở. Cần
đặt cuộc vận động này dưới sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Ủy ban nhân
dân các cấp, đồng thời tăng cường bộ phận giúp Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo,
sao cho hợp lý và có hiệu lực.
d) Đi đôi với
kế hoạch sản xuất, cần có kế hoạch cân đối về lao động, từng bước điều hòa,
phân bổ lại lao động ở miền núi vào các ngành nghề cho hợp lý. Phải trên cơ
sở tận dụng số lao động tại chỗ là chính, trên địa bàn từng cơ sở và huyện,
tỉnh. Việc bổ sung lao động ở miền xuôi lên miền núi chỉ nên đưa vào những
nơi còn thiếu và phải tính đến lực lượng có kỹ thuật, có ngành nghề để cùng
với lực lượng lao động tại chỗ phát huy các thế mạnh của miền núi. Ngoài ra,
cần có kế hoạch sử dụng tốt lực lượng vũ trang đóng quân ở các địa phương
vào việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội miền núi.
Cần ưu tiên
tuyển dụng lao động tại chỗ vào làm công nhân các cơ sở kinh tế quốc doanh
địa phương, nhất là vào các nông trường, lâm trường quốc doanh địa phương.
Đây là việc làm có lợi cả về kinh tế và chính trị, vì người địa phương đã
quen với môi trường sống, lại tận dụng được các cơ sở hạ tầng sẵn có của họ,
đồng thời, nhanh chóng tăng được số lượng công nhân trong cơ cấu cư dân các
dân tộc thiểu số. Cũng từ đó, góp phần tạo ra sự biến đổi sâu sắc trong các
vùng có nhiều thành phần dân tộc mà trình độ kinh tế - xã hội còn thấp và
phát triển chậm, làm cho khối cộng đồng dân tộc được tăng cường củng cố.
3. Về phân
phối, lưu thông, phục vụ đời sống
Những năm qua, công tác phân phối, lưu thông, phục vụ đời sống ở miền núi có
nhiều cố gắng, song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu và còn nhiều thiếu sót, tồn
tại. Các mặt hàng thiết yếu và thị hiếu ở miền núi thường bị khan hiếm, và
cung ứng không đều, không kịp thời vụ. Thậm chí muối, dầu thắp, nông cụ có
lúc cũng không có bán cho nhân dân. Có nơi nhân dân phải mua 1 lít dầu hỏa ở
chợ tới 30 đồng - 40 đồng (như ở huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Tuyên; huyện Bắc Hà,
tỉnh Hoàng Liên Sơn). Trước tình hình đó, kẻ địch ở bên kia biên giới đã lợi
dụng để xuyên tạc chính sách của ta và mua chuộc, lôi kéo, lừa mị nhân dân,
tung sang ta những thứ hàng tâm lý chiến và khơi vét trâu bò, các nông - lâm
- đặc sản của ta sang bên chúng, nhằm phá hoại ta về kinh tế cũng như về
chính trị.
Để thúc đẩy sản xuất phát triển và phục vụ tốt đời sống nhân dân, đồng thời
cũng là để chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, chúng tôi đề nghị
Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo sát sao các ngành có trách nhiệm, thực hiện đầy
đủ và kịp thời kế hoạch phân phối, lưu thông, vận tải và dành quỹ vật tư,
hàng hóa cho miền núi.
Cần đẩy mạnh
việc phát triển màng lưới thương nghiệp quốc doanh, nhất là xây dựng các hợp
tác xã mua bán ở nông thôn miền núi. Trên cơ sở đó, thực hiện tốt công tác
thu mua, nắm nguồn hàng, cung cấp hàng đến tay nhân dân; kiên quyết chặn
đứng và xử lý thích đáng bọn mua tranh, bán đắt ở vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số.
Các ngành, các
cấp cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc chính sách ưu tiên trong việc
cung ứng vật tư, hàng hóa phục vụ sản xuất và đời sống đồng bào và các lực
lượng bộ đội, công an, cán bộ, công nhân viên ở vùng biên giới tuyến I. Một
số mặt hàng thiết yếu và thị hiếu cho miền núi, nhất là vùng cao, biên giới
và trước hết là: muối, dầu hỏa, thuốc lào, thuốc chữa bệnh, đá lửa, diêm,
vải xanh và đỏ, sợi dệt, nông cụ, pin đài, tranh ảnh, báo chí, văn hóa
phẩm..., chúng ta cần bảo đảm không lúc nào để cho nhân dân bị thiếu. Trong
vụ rét, còn cần cung ứng đủ chăn áo ấm cho đồng bào, bộ đội, cán bộ, công
nhân viên ở vùng cao, biên giới. Cần có kế hoạch cung ứng đủ màn cho các
vùng đang có bệnh sốt rét (Tây Nguyên, vùng biên giới Việt - Lào và Việt -
Trung).
4. Về văn hóa - xã hội, đào tạo cán bộ dân tộc địa phương
Tình hình văn
hóa - xã hội ở miền núi và đào tạo cán bộ dân tộc địa phương tuy có phát
triển, nhưng nhìn chung còn rất chậm. Số người mù chữ và trở lại mù chữ còn
lớn. Nhiều xã ở vùng cao chưa có đủ các lớp cấp I hoàn chỉnh. Số học sinh
các dân tộc có số dân ít, nhất là ở vùng cao, xa xôi hẻo lánh càng ít đi học
so với số học sinh các dân tộc vùng thấp. (Ví dụ: ở huyện Quản Bạ, tỉnh Hà
Tuyên, dân tộc Mông có số dân gấp 5 lần dân tộc Tày, nhưng số học sinh người
Mông chỉ bằng 1/3 số học sinh người Tày).
Tình hình văn hóa, văn nghệ, y tế ở miền núi cũng còn nhiều mặt yếu. Nơi xa
xôi hẻo lánh, có khi hằng năm, nhân dân không được xem chiếu bóng một lần.
Mê tín, dị đoan còn nặng nề, nhiều nơi đồng bào vẫn bị mê hoặc bởi ma quỷ,
thần linh, đạo giáo rất tai hại.
Tình hình trên
có nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do tình hình sản xuất và đời sống
của miền núi, nhất là vùng cao, còn nhiều khó khăn; hợp tác xã và tập đoàn
sản xuất chưa vững.
Về mặt đào tạo
cán bộ dân tộc địa phương, đã có một số tỉnh, huyện mở các trường thanh niên
dân tộc, thiếu niên vùng cao, bổ túc văn hóa dân tộc, v.v.. Các loại trường
này đã và đang trở thành nguồn đào tạo cán bộ cho các ngành ở địa phương.
Tuy nhiên, do chưa có quy hoạch cụ thể, chưa thống nhất về mặt quản lý và
chưa có chế độ, chính sách rõ ràng (chiêu sinh, quản lý, trang bị cơ sở vật
chất, chế độ đãi ngộ giáo viên, học bổng học sinh nội trú, v.v.), nên các
loại trường đó chưa phát triển được mạnh mẽ, chưa phát huy hết tác dụng của
nó ở các huyện, tỉnh miền núi.
Để đưa sự nghiệp văn hóa - xã hội miền núi và đào tạo cán bộ dân tộc địa
phương phát triển một bước mới, trong kế hoạch nhà nước năm 1984 và những
năm tới cần có các chỉ tiêu cụ thể về giáo dục, văn hóa, y tế miền núi. Cần
sớm nghiên cứu bổ sung các chính sách nhằm đẩy mạnh sự phát triển về các mặt
này một cách toàn diện và thống nhất, trong đó có chính sách phát triển các
trường thanh niên, thiếu niên dân tộc vùng cao của các tỉnh, huyện miền núi
và các chế độ về việc mở các trường nội trú... Cần đẩy mạnh phong trào vệ
sinh phòng bệnh, thông tin, văn hóa, xã hội ở miền núi phát triển một bước
tích cực hơn (chú ý vùng biên giới phía Bắc).
Cần nghiên cứu
vận dụng sát với từng vùng về vấn đề cải cách giáo dục đối với miền núi, cả
về tổ chức trường lớp, lẫn chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học.
Cần thực hiện phương châm "trường gần dân, thày gần trò", bằng cách mở các
phân trường ở từng thôn bản xa nơi trung tâm của xã.
Đối với việc
đào tạo cán bộ dân tộc địa phương, cần tiến hành rà soát lại toàn bộ việc
thực hiện công tác này trong những năm qua, từ đó xây dựng quy hoạch cụ thể
của từng cấp, từng ngành, nhất là quy hoạch đào tạo các loại cán bộ ở cơ sở
và huyện. Từ đó, sử dụng tốt số cán bộ đã có (kể cả các loại) và thực hiện
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo kế hoạch hằng năm. Việc nghiên cứu sửa
đổi, bổ sung các chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý và đãi
ngộ đối với các loại cán bộ ở miền núi, nhất là ở vùng cao, biên giới cần
được sớm ban hành, để tạo thuận lợi cho việc thực hiện quy hoạch và kế hoạch
đào tạo cán bộ dân tộc địa phương trong thời gian tới (như tăng phụ cấp khu
vực cho cán bộ ở vùng cao, biên giới, chế độ phụ cấp thâm niên cho cán bộ
hoạt động ở miền núi, v.v..).
Vấn đề tuyển
sinh con em các dân tộc theo vùng vào các trường đại học và dự bị đại học có
ý nghĩa thiết thực đối với nhiệm vụ đào tạo cán bộ dân tộc, do đó cần thực
hiện tốt chính sách này trong năm 1984 và các năm tới.
5. Về chỉ đạo
thực hiện kế hoạch
Chúng tôi đề
nghị Hội đồng Bộ trưởng tăng cường hơn nữa việc chỉ đạo đối với công tác
miền núi, công tác dân tộc. Đề nghị các ngành, các cấp nghiên cứu quán triệt
và thực hiện nghiêm túc chính sách dân tộc và các chủ trương, chính sách, kế
hoạch đối với miền núi đã ghi trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ V, các
nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng, của Ban Bí thư Trung ương và của
Hội đồng Bộ trưởng cũng như Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp này.
Việc chỉ đạo
và tổ chức thực hiện kế hoạch năm 1984 cũng như từ nay về sau của các cấp,
các ngành cần được tổ chức theo dõi và tổng hợp riêng vùng miền núi. Ở mỗi
cấp, mỗi ngành, từ Trung ương đến các địa phương có miền núi, cần phân công
một đồng chí lãnh đạo phụ trách công tác dân tộc và miền núi, đồng thời tăng
cường kiểm tra, đôn đốc, kịp thời giải quyết những vướng mắc, khó khăn mà
cấp dưới không thể giải quyết được trong quá trình thực hiện kế hoạch.
Thưa các
đồng chí đại biểu Quốc hội,
Đẩy nhanh tốc
độ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi là nhiệm vụ trọng yếu
và cấp thiết, nhằm thực hiện chính sách "đoàn kết các dân tộc trên nguyên
tắc bình đẳng, tương trợ và cùng làm chủ tập thể", nhanh chóng xóa bỏ
sự chênh lệch giữa các vùng, các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Nội dung của nhiệm vụ này có nhiều vấn đề cần đề cập và
giải quyết. Cùng với những vấn đề mà Hội đồng dân tộc chúng tôi đã phát biểu
tại các kỳ họp trước của Quốc hội, lần này chúng tôi xin phát biểu và đề
xuất một số vấn đề như trên để Quốc hội xem xét.
Xin cảm ơn và kính chúc sức khỏe các đồng chí đại biểu Quốc hội.
Kính chúc kỳ
họp Quốc hội thành công tốt đẹp.