LUẬT
BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Để nhân dân sử
dụng quyền làm chủ tập thể trong việc xây dựng cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương;
Căn cứ vào Điều
7 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Luật này quy định việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
CHƯƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH
CHUNG
Điều 1
Việc bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp
và bỏ phiếu kín.
Điều 2
Công dân nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã
hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ
mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có
thể được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân, trừ những người mất trí và những
người bị pháp luật hoặc Tòa án nhân dân tước các quyền đó.
Công dân đang ở
trong Quân đội nhân dân có quyền bầu cử và có thể được bầu làm đại biểu Hội đồng
nhân dân.
Điều 3
Đại biểu Hội đồng
nhân dân phải là người trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, có thành
tích sản xuất, công tác hoặc chiến đấu, có nhiệt tình phục vụ nhân dân, tích cực
chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, gương mẫu trong sinh hoạt, có
trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu và được nhân dân tín
nhiệm.
Điều 4
Cử tri có quyền
bãi miễn đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu đại biểu đó không xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân.
Điều 5
Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam ở địa phương có trách nhiệm giới thiệu danh sách những người ứng
cử đại biểu Hội đồng nhân dân và cùng với các cơ quan chính quyền tổ chức việc
bầu cử.
Điều 6
Hội đồng Nhà nước
giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, bảo đảm cho các cuộc bầu cử
tiến hành dân chủ, đúng pháp luật.
Điều 7
Kinh phí về tổ
chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân do ngân sách nhà nước đài thọ.
CHƯƠNG II
SỐ ĐẠI BIỂU HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN,
ĐƠN VỊ BẦU CỬ VÀ KHU VỰC BỎ PHIẾU
Điều 8
Số đại biểu Hội
đồng nhân dân của mỗi cấp như sau:
1. Hội đồng nhân
dân xã, thị trấn và phường
Xã và thị trấn
miền xuôi có từ hai nghìn người trở xuống được bầu hai mươi đại biểu; có trên
hai nghìn người thì cứ thêm hai trăm năm mươi người được bầu thêm một đại biểu,
nhưng tổng số không quá bốn mươi nhăm đại biểu.
Xã và thị trấn
miền núi và hải đảo có từ bảy trăm người trở xuống được bầu hai mươi đại biểu;
có trên bảy trăm người thì cứ thêm hai trăm người được bầu thêm một đại biểu,
nhưng tổng số không quá bốn mươi nhăm đại biểu.
Xã có từ ba trăm
người trở xuống được bầu mười lăm đại biểu.
Phường có từ hai nghìn người trở xuống được bầu hai mươi đại biểu; có trên hai
nghìn người thì cứ thêm bốn trăm người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số
không quá bốn mươi nhăm đại biểu.
2. Hội đồng nhân
dân huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh
Huyện miền xuôi và
quận có từ năm mươi nghìn người trở xuống được bầu bốn mươi đại biểu; có trên
năm mươi nghìn người thì cứ thêm sáu nghìn người được bầu thêm một đại biểu,
nhưng tổng số không quá sáu mươi đại biểu.
Huyện miền núi và
hải đảo có từ hai mươi nghìn người trở xuống được bầu bốn mươi đại biểu; có trên
hai mươi nghìn người thì cứ thêm hai nghìn năm trăm người được bầu thêm một đại
biểu, nhưng tổng số không quá sáu mươi đại biểu.
Thị xã có từ hai
mươi nghìn người trở xuống được bầu bốn mươi đại biểu; có trên hai mươi nghìn
người thì cứ thêm bốn nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số
không quá sáu mươi đại biểu.
Thành phố thuộc
tỉnh có sáu mươi nghìn người trở xuống được bầu năm mươi đại biểu; có trên sáu
mươi nghìn người thì cứ thêm tám nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng
tổng số không quá bảy mươi đại biểu.
3. Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương
Tỉnh miền xuôi có
từ năm trăm nghìn người trở xuống được bầu bảy mươi đại biểu; có trên năm trăm
nghìn người thì cứ thêm ba mươi nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng
tổng số không quá một trăm hai mươi đại biểu.
Tỉnh miền núi có
từ hai trăm năm mươi nghìn người trở xuống được bầu bảy mươi đại biểu; có trên
hai trăm năm mươi nghìn người thì cứ thêm mười lăm nghìn người được bầu thêm một
đại biểu, nhưng tổng số không quá một trăm hai mươi đại biểu.
Thành phố trực
thuộc Trung ương có từ năm trăm nghìn người trở xuống được bầu bảy mươi đại
biểu; có trên năm trăm nghìn người thì cứ thêm hai mươi nghìn người được bầu
thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá một trăm hai mươi đại biểu.
Thành phố Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh được bầu không quá một trăm năm mươi đại biểu.
Đặc khu Vũng Tàu -
Côn Đảo được bầu năm mươi đại biểu. Hội đồng Nhà nước có thể quyết định tăng
thêm số đại biểu Hội đồng nhân dân đặc khu khi xét thấy cần thiết.
Điều 9
Đại biểu Hội đồng
nhân dân được bầu theo đơn vị bầu cử. Mỗi đơn vị bầu không quá ba đại biểu; các
đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn có thể được bầu số
đại biểu nhiều hơn, nhưng không quá năm đại biểu.
Điều 10
Đại biểu Hội đồng
nhân dân được bầu theo đơn vị bầu cử. Mỗi đơn vị bầu không quá ba đại biểu; các
đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn có thể được bầu số
đại biểu nhiều hơn, nhưng không quá năm đại biểu.
Điều 11
Số đơn vị bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương
đương, danh sách các đơn vị và số đại biểu của mỗi đơn vị do Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương ấn định và đề nghị Hội
đồng Bộ trưởng phê chuẩn.
Số đơn vị bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp khác, danh sách các đơn vị và số đại biểu của
mỗi đơn vị do Ủy ban nhân dân cùng cấp ấn định và đề nghị Ủy ban nhân dân cấp
trên trực tiếp phê chuẩn.
Điều 12
Danh sách các đơn
vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào phải được Ủy ban nhân dân cấp ấy
công bố chậm nhất là bốn mươi ngày trước ngày bầu cử.
Điều 13
Mỗi đơn vị bầu cử
có thể chia thành nhiều khu vực bỏ phiếu, mỗi khu vực bỏ phiếu gồm từ năm trăm
đến bốn nghìn người.
Ở miền núi, hải
đảo, có những bản, buôn, thôn, xóm cách nhau quá xa, thì dù chưa tới năm trăm
người cũng có thể thành lập một khu vực bỏ phiếu.
Các bệnh viện, nhà an dưỡng, nhà hộ sinh, nhà nuôi người tàn tật có từ năm mươi
cử tri trở lên có thể tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng.
Điều 14
Việc chia khu vực
bỏ phiếu do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn ấn định và phải được Ủy ban
nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn.
Điều 15
Các đơn vị Quân
đội nhân dân tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng.
CHƯƠNG III
HỘI ĐỒNG BẦU CỬ,
BAN BẦU CỬ, TỔ BẦU CỬ
Điều 16
Những tổ chức phụ
trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân gồm có: Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ
bầu cử.
Điều 17
Chậm nhất là bốn mươi ngày trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào
thì Ủy ban nhân dân cấp ấy bàn với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp
thành lập Hội đồng bầu cử từ năm đến hai mươi mốt người gồm đại diện Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các chính đảng, các đoàn thể nhân dân trong địa phương.
Hội đồng bầu cử
bầu Chủ tịch, một hoặc nhiều Phó Chủ tịch và một hoặc nhiều Thư ký.
Danh sách Hội đồng
bầu cử tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương phải được Hội
đồng Bộ trưởng phê chuẩn. Danh sách Hội đồng bầu cử các cấp khác phải được Ủy
ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn.
Hội đồng bầu cử có
những nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
1. Kiểm tra, đôn
đốc việc thi hành Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân trong địa phương;
2. Xét và giải
quyết những khiếu nại về công tác của các Ban bầu cử và Tổ bầu cử;
3. Nhận đơn ứng
cử, lập và niêm yết danh sách những người được giới thiệu ra ứng cử; xét và giải
quyết những khiếu nại về việc lập danh sách đó;
4. Nhận tài liệu
và phiếu bầu cử của Ủy ban nhân dân cùng cấp và phân phối cho các Ban bầu cử,
chậm nhất là mười ngày trước ngày bầu cử;
5. Nhận và kiểm
tra biên bản bầu cử do các Ban bầu cử gửi đến, làm biên bản ghi kết quả cuộc bầu
cử trong địa phương;
6. Tuyên bố kết
quả cuộc bầu cử;
7. Chuyển giao cho
Ủy ban nhân dân cùng cấp biên bản tổng kết bầu cử và những hồ sơ tài liệu về
cuộc bầu cử.
Điều 18
Chậm nhất là ba
mươi ngày trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào thì Ủy ban nhân
dân cấp ấy bàn với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp thành lập ở mỗi đơn
vị bầu cử một Ban bầu cử từ năm đến mười lăm người gồm đại diện Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các chính đảng, các đoàn thể nhân dân trong địa phương.
Ban bầu cử bầu
Trưởng ban, một hoặc nhiều Phó trưởng ban và một hoặc nhiều Thư ký.
Ban bầu cử có
những nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
1. Kiểm tra, đôn đốc các Tổ bầu cử chấp hành đúng Luật bầu cử;
2. Kiểm tra việc
lập và niêm yết danh sách cử tri;
3. Nhận tài liệu
và phiếu bầu cử của Hội đồng bầu cử. Phân phối tài liệu và phiếu bầu cử cho các
Tổ bầu cử, chậm nhất là bảy ngày trước ngày bầu cử;
4. Kiểm tra, đôn
đốc việc bố trí các phòng bỏ phiếu và công việc bầu cử tại các phòng bỏ phiếu;
5. Xét và giải
quyết những khiếu nại về công tác của các Tổ bầu cử;
6. Nhận và kiểm
tra biên bản kiểm phiếu do các Tổ bầu cử gửi đến, làm biên bản ghi kết quả bầu
cử trong đơn vị để gửi lên Hội đồng bầu cử.
Điều 19
Chậm nhất là hai
mươi ngày trước ngày bầu cử, các Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn bàn với Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ
bầu cử từ năm đến mười một người gồm đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân trong địa phương. Trong trường hợp đơn vị bầu cử chỉ có một
khu vực bỏ phiếu thì Ban bầu cử kiêm nhiệm vụ của Tổ bầu cử.
Các đơn vị Quân
đội nhân dân thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu của mình một Tổ bầu cử gồm các đại
biểu của quân nhân trong đơn vị.
Tổ bầu cử bầu Tổ trưởng, một Tổ phó và một hoặc nhiều Thư ký.
Tổ bầu cử có những
nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
1. Phụ trách công
tác bầu cử trong khu vực bỏ phiếu;
2. Bố trí phòng bỏ
phiếu và chuẩn bị hòm phiếu;
3. Phát phiếu bầu
cử có đóng dấu của Tổ bầu cử cho các cử tri;
4. Bảo đảm trật tự
trong phòng bỏ phiếu;
5. Kiểm phiếu,
giải quyết những khiếu nại về việc kiểm phiếu và làm biên bản kiểm phiếu gửi Ban
bầu cử;
6. Chuyển giao
biên bản kiểm phiếu và tất cả những phiếu bầu cử cho Ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn.
Điều 20
Các cơ quan và
nhân viên nhà nước, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội tạo điều kiện
thuận lợi cho Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử thực hiện nhiệm vụ và quyền
hạn quy định trong Luật này.
Điều 21
Hội đồng bầu cử,
Ban bầu cử, Tổ bầu cử không được vận động bầu cho những người được giới thiệu ra
ứng cử.
CHƯƠNG IV
DANH SÁCH CỬ TRI
Điều 22
Khi lập danh sách
cử tri, những công dân có quyền bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều
được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi mình cư trú.
Mỗi cử tri chỉ
được ghi tên vào một danh sách cử tri.
Điều 23
Danh sách cử tri
do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập theo khu vực bỏ phiếu.
Danh sách cử tri
trong các đơn vị Quân đội nhân dân do Ban chỉ huy đơn vị lập theo mỗi khu vực bỏ
phiếu.
Điều 24
Chậm nhất là ba
mươi ngày trước ngày bầu cử, cơ quan lập danh sách cử tri phải niêm yết danh
sách đó ở trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và ở những nơi công cộng
của khu vực bỏ phiếu; đồng thời phải thông báo rộng rãi danh sách đó và việc
niêm yết để nhân dân kiểm tra danh sách cử tri.
Điều 25
Khi kiểm tra danh
sách cử tri, nếu thấy có sai lầm, hoặc thiếu sót, thì trong thời hạn hai mươi
ngày kể từ ngày niêm yết, mọi người có quyền khiếu nại, báo cáo bằng miệng hoặc
bằng giấy với cơ quan lập danh sách cử tri. Cơ quan lập danh sách cử tri phải
ghi vào sổ những khiếu nại hoặc báo cáo đó. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày
nhận được khiếu nại hoặc báo cáo, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải quyết
xong và thông báo cho người khiếu nại hoặc người báo cáo biết kết quả giải
quyết.
Nếu người khiếu
nại hoặc người báo cáo không đồng ý về cách giải quyết đó, thì có quyền khiếu
nại lên Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong thời
hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Tòa án nhân dân phải giải quyết
xong. Quyết định của Tòa án nhân dân là quyết định cuối cùng.
Điều 26
Từ khi công bố
danh sách cử tri cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào thay đổi nơi cư trú, thì có
quyền xin giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân nơi đang cư trú để được ghi tên
vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu ở nơi cư trú mới. Khi cấp giấy chứng
nhận, Ủy ban nhân dân phải ghi ngay vào danh sách cử tri, bên cạnh tên người đó:
"đi bỏ phiếu nơi khác".
CHƯƠNG V
DANH SÁCH NHỮNG
NGƯỜI ĐƯỢC GIỚI THIỆU
RA ỨNG CỬ
Điều 27
Căn cứ vào đề cử
của các tập thể nhân dân lao động ở cơ sở, của các chính đảng, các đoàn thể nhân
dân và các tổ chức xã hội khác ở địa phương, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
tiến hành hiệp thương để lập danh sách những người được giới thiệu ra ứng cử,
sau khi đã tham khảo ý kiến rộng rãi của tập thể nhân dân lao động nơi làm việc
và nơi cư trú của những người được giới thiệu ra ứng cử.
Người được giới
thiệu ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân địa phương nào phải là người cư trú
hoặc công tác thường xuyên ở địa phương đó.
Số người được giới
thiệu ra ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị
đó, để cử tri chọn bầu khi bỏ phiếu.
Điều 28
Người được giới
thiệu ra ứng cử chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử và không được tham
gia các tổ chức phụ trách bầu cử quy định ở Điều 16 của Luật này.
Điều 29
Chậm nhất là hai
mươi nhăm ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở địa phương
phải gửi đến Hội đồng bầu cử:
1. Giấy giới thiệu
người ra ứng cử;
2. Đơn ứng cử của
những người được giới thiệu có ghi tên, tuổi, nghề nghiệp, nguyên quán, nơi cư
trú, nơi công tác thường xuyên và nơi ra ứng cử;
3. Giấy của Ủy ban
nhân dân địa phương chứng nhận người được giới thiệu ra ứng cử có đủ điều kiện
ứng cử quy định ở Điều 2 của Luật này.
Khi nhận các giấy
tờ nói trên, Hội đồng bầu cử phải cấp giấy biên nhận.
Hội đồng bầu cử
lập danh sách những người được giới thiệu ra ứng cử theo từng đơn vị bầu cử và
công bố danh sách đó ít nhất là hai mươi ngày trước ngày bầu cử.
Điều 30
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày công bố danh sách những người được giới
thiệu ra ứng cử, ai thấy trong danh sách có sai lầm hoặc thiếu sót thì có quyền
khiếu nại, báo cáo bằng giấy hoặc bằng miệng với Hội đồng bầu cử. Hội đồng bầu
cử phải ghi vào sổ những khiếu nại hoặc báo cáo đó. Trong thời hạn ba ngày kể từ
ngày nhận được khiếu nại hoặc báo cáo, Hội đồng bầu cử phải giải quyết; quyết
định của Hội đồng bầu cử là quyết định cuối cùng.
Điều 31
Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các chính đảng, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội và mọi
công dân, theo quy định của pháp luật, có quyền cổ động để giới thiệu người ứng
cử.
Người được giới
thiệu ra ứng cử có quyền cổ động cho mình trong phạm vi pháp luật quy định.
CHƯƠNG VI
TRÌNH TỰ BẦU CỬ
Mục 1
THỜI GIAN BẦU CỬ
Điều 32
Ngày bầu cử phải được ấn định vào ngày chủ nhật hoặc ngày nghỉ khác và công bố
chậm nhất là sáu mươi ngày trước ngày bầu cử.
Điều 33
Hội đồng Bộ trưởng
ấn định ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương và cấp tương đương và ấn định thời gian tiến hành các cuộc bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp khác theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân các cấp. Căn
cứ vào đó, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương
đương ấn định ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh, xã, phường, thị trấn.
Trong trường hợp
đặc biệt không thể tiến hành bầu cử theo đúng nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân thì
Hội đồng Bộ trưởng phải báo cáo và đề nghị Hội đồng Nhà nước xét định.
Điều 34
Trong thời hạn mười ngày trước ngày bầu cử, Tổ bầu cử phải thường xuyên thông
báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu và thời gian bỏ phiếu bằng mọi
phương tiện thông tin của địa phương.
Mục 2
THỂ
THỨC BỎ PHIẾU
Điều 35
Cuộc bỏ phiếu tiến
hành từ 7 giờ đến 19 giờ cùng ngày. Tùy tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể
quyết định cho bắt đầu sớm hơn và kết thúc muộn hơn giờ quy định, nhưng không
được kéo dài quá 22 giờ.
Ở nơi nào đã có
100% số cử tri đi bầu thì Tổ bầu cử có thể kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm hơn.
Điều 36
Cử tri chỉ có
quyền bỏ một phiếu bầu và phải tự mình đi bầu, không được nhờ người bầu thay,
không được bầu bằng cách gửi thư, trừ những trường hợp nói ở Điều 37.
Điều 37
Cử tri không tự
viết phiếu được, thì có thể nhờ người viết hộ. Người viết hộ phải bảo đảm bí mật
phiếu bầu của cử tri đó và cử tri phải tự bỏ phiếu. Nếu vì tàn tật không tự bỏ
phiếu được, thì cử tri có thể nhờ người bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Cử tri ốm đau, già
yếu, tàn tật không đến phòng bỏ phiếu được thì có thể đề nghị Tổ bầu cử mang hòm
phiếu và phiếu bầu đến chỗ ở để bỏ phiếu. Trong trường hợp này, Tổ bầu cử có thể
mang hòm phiếu phụ đến chỗ ở của cử tri để nhận phiếu bầu.
Điều 38
Khi cử tri viết
phiếu, không ai được đến xem, kể cả nhân viên Tổ bầu cử.
Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đề nghị Tổ bầu cử đổi phiếu khác.
Điều 39
Mọi người đều phải
tuân theo nội quy của phòng bỏ phiếu. Không ai được tuyên truyền cổ động cho
người được giới thiệu ra ứng cử tại phòng bỏ phiếu.
Điều 40
Khi đã hết giờ bỏ
phiếu, nếu còn một số cử tri có mặt ở phòng bỏ phiếu chưa kịp bỏ phiếu, thì sau
khi số cử tri đó bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử mới tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu.
Điều 41
Trong ngày bầu cử,
cuộc bỏ phiếu phải tiến hành liên tục. Nếu có trường hợp bất ngờ làm gián đoạn
việc bỏ phiếu, thì Tổ bầu cử phải lập tức niêm phong các giấy tờ và hòm phiếu
rồi báo cáo cho Ban bầu cử biết; đồng thời phải có những biện pháp cần thiết để
cuộc bỏ phiếu được tiếp tục.
Điều 42
Nếu vì lý do đặc
biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu, thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo cho Ban bầu cử
biết để đề nghị Hội đồng bầu cử xét định.
CHƯƠNG VII
KẾT QUẢ BẦU CỬ
Mục 1
VIỆC
KIỂM PHIẾU
Điều 43
Việc kiểm phiếu
phải được tiến hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc, Tổ
bầu cử phải mời hai cử tri không phải là người được giới thiệu ra ứng cử có mặt
tại đó chứng kiến việc kiểm phiếu.
Người được giới thiệu ra ứng cử và các phóng viên báo chí, điện ảnh, nhiếp ảnh,
đài truyền hình, đài phát thanh được xem kiểm phiếu.
Điều 44
Những phiếu sau
đây là không hợp lệ:
1. Không phải là
phiếu theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát;
2. Không có dấu
của Tổ bầu cử;
3. Ghi tên người được giới thiệu ra ứng cử quá số đại biểu được bầu.
Điều 45
Phiếu trắng là
phiếu không ghi tên một người nào trong danh sách những người được giới thiệu ra
ứng cử hoặc xóa hết tên những người được giới thiệu ra ứng cử đã ghi trên phiếu
bầu.
Điều 46
Khi nghi ngờ phiếu
nào là phiếu không hợp lệ hoặc là phiếu trắng thì Tổ trưởng Tổ bầu cử phải đưa
ra toàn tổ giải quyết.
Điều 47
Những phiếu có ghi
tên những người được giới thiệu ra ứng cử cùng với tên những người không được
giới thiệu ra ứng cử vẫn được coi là phiếu hợp lệ, song không kể tên những người
không được giới thiệu ra ứng cử.
Tổ bầu cử không được xóa hoặc chữa các tên ghi trên phiếu bầu.
Điều 48
Những khiếu nại tại chỗ về việc kiểm phiếu do Tổ bầu cử tiếp nhận, giải quyết và
ghi cách giải quyết vào biên bản. Nếu tổ bầu cử không giải quyết được, thì phải
đưa lên Ban bầu cử để giải quyết.
Điều 49
Kiểm phiếu xong,
Tổ bầu cử phải lập biên bản ghi rõ:
- Tổng số cử tri
của khu vực bỏ phiếu;
- Số cử tri đã đi
bầu;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không
hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Số phiếu bầu cho
mỗi người được giới thiệu ra ứng cử;
- Những khiếu nại
đã nhận được và cách giải quyết, những khiếu nại chưa được giải quyết.
Biên bản làm thành
hai bản có chữ ký của Tổ trưởng, Thư ký và cử tri được mời chứng kiến việc kiểm
phiếu. Một bản gửi Ban bầu cử, một bản gửi Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Mục 2
KẾT
QUẢ BẦU CỬ Ở ĐƠN VỊ BẦU CỬ,
BẦU LẠI HOẶC BẦU THÊM
Điều 50
Sau khi nhận được
biên bản của các Tổ bầu cử, Ban bầu cử kiểm tra các biên bản đó và lập biên bản
xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử của mình.
Biên bản phải ghi
rõ:
- Số đại biểu Hội
đồng nhân dân ấn định cho đơn vị bầu cử;
- Số người được
giới thiệu ra ứng cử;
- Tổng số cử tri
trong đơn vị bầu cử;
- Số cử tri đã đi
bầu, số cử tri không đi bầu, tỷ lệ số cử tri đã đi bầu so với tổng số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không
hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Số phiếu bầu cho
mỗi người được giới thiệu ra ứng cử;
- Danh sách những
người trúng cử;
- Những khiếu nại
do Tổ bầu cử đã giải quyết;
- Những khiếu nại
do Ban bầu cử đã giải quyết, những khiếu nại chuyển lên Hội đồng bầu cử giải
quyết.
Biên bản làm thành
hai bản, có chữ ký của Trưởng ban, Phó trưởng ban và Thư ký, một bản gửi Hội
đồng bầu cử, một bản gửi Uỷ ban nhân dân cùng cấp với Ban bầu cử.
Điều 51
Những người được giới thiệu ra ứng cử được quá nửa số phiếu hợp lệ và được nhiều
phiếu hơn thì trúng cử. Nếu có nhiều người được số phiếu ngang nhau thì người
nhiều tuổi hơn được trúng cử.
Mục 3
VIỆC
BẦU THÊM HOẶC BẦU LẠI
Điều 52
Trong cuộc bầu cử
đầu tiên, nếu số người trúng cử chưa đủ số đại biểu đã quy định cho đơn vị bầu
cử, thì Ban bầu cử phải ghi rõ điểm đó vào biên bản và báo cáo ngay cho Hội đồng
bầu cử để quyết định ngày bầu thêm số đại biểu còn thiếu, chậm nhất là mười lăm
ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu thêm, cử tri chỉ chọn bầu trong
danh sách những người được giới thiệu ra ứng cử nhưng không trúng cử kỳ đầu. Nếu
bầu thêm mà vẫn chưa đủ số đại biểu thì không tổ chức bầu thêm lần thứ hai.
Điều 53
Ở đơn vị bầu cử
nào, nếu số cử tri đi bầu chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách, thì
Ban bầu cử phải ghi rõ điểm đó vào biên bản và báo cáo ngay cho Hội đồng bầu cử
để quyết định ngày bầu lại, chậm nhất là mười lăm ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên.
Trong cuộc bầu cử lại, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người đã được
giới thiệu ra ứng cử kỳ đầu.
Điều 54
Việc bầu cử thêm
hoặc bầu cử lại vẫn căn cứ vào danh sách cử tri đã lập trong cuộc bầu cử đầu
tiên và theo những điều đã quy định trong Luật này.
Mục 4
TỔNG
KẾT CUỘC BẦU CỬ
Điều 55
Sau khi nhận được
biên bản của các Ban bầu cử và giải quyết những khiếu nại nếu có, Hội đồng bầu
cử làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử.
Hội đồng bầu cử
tuyên bố kết quả cuộc bầu cử chậm nhất là:
- Ba ngày sau ngày
bầu cử đối với Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn, thị xã;
- Năm ngày sau
ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân huyện miền xuôi, quận và thành phố thuộc
tỉnh;
- Bảy ngày sau
ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân huyện miền núi, hải đảo, thành phố trực
thuộc Trung ương, tỉnh miền xuôi và đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo;
- Chín ngày sau
ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân tỉnh miền núi.
Điều 56
Biên bản tổng kết
phải ghi rõ:
- Tổng số đại biểu
Hội đồng nhân dân;
- Tổng số người
được giới thiệu ra ứng cử;
- Tổng số cử tri;
- Số cử tri đã đi
bầu, số cử tri không đi bầu, tỷ lệ số cử tri đã đi bầu so với tổng số cử tri;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không
hợp lệ;
- Số phiếu trắng;
- Danh sách những người trúng cử và số phiếu bầu cho mỗi người;
- Các việc quan
trọng đã xảy ra và cách giải quyết.
Biên bản làm thành
hai bản, có chữ ký của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và Thư ký Hội đồng bầu cử; một
bản gửi Ủy ban nhân dân cấp bầu Hội đồng nhân dân, một bản gửi Ủy ban nhân dân
cấp trên trực tiếp. Nếu là cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương thì biên bản làm thành ba bản, một
bản gửi Ủy ban nhân dân, một bản gửi Hội đồng Bộ trưởng và một bản gửi Hội đồng
Nhà nước.
Điều 57
Hội đồng Nhà nước
quyết định hủy bỏ cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nào có những vi phạm
pháp luật nghiêm trọng. Hội đồng Bộ trưởng ấn định ngày bầu cử lại Hội đồng nhân
dân ấy.
CHƯƠNG VIII
VIỆC BẦU CỬ BỔ
SUNG
ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP
Điều 58
Việc bầu cử bổ
sung đại biểu Hội đồng nhân dân tiến hành theo thể thức bầu cử được quy định
trong Luật này.
Ngày bầu cử bổ
sung phải được công bố chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bầu cử.
Điều 59
Chậm nhất là hai
mươi ngày trước ngày bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào thì Ủy
ban nhân dân cấp ấy bàn với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp thành lập
Hội đồng bầu cử bổ sung từ ba đến năm người để phụ trách việc bầu cử bổ sung ở
địa phương; và chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày bầu cử, thành lập ở mỗi đơn
vị có bầu cử bổ sung một Ban bầu cử từ ba đến năm người gồm đại diện Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Hội đồng bầu cử bổ
sung bầu Chủ tịch và một Thư ký.
Ban bầu cử bổ sung
bầu Trưởng ban và một Thư ký.
Điều 60
Chậm nhất là mười
ngày trước ngày bầu cử bổ sung, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn bàn với Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ
bầu cử bổ sung từ năm đến bảy người gồm đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể nhân dân ở cơ sở.
Tổ bầu cử bổ sung
bầu Tổ trưởng, một Tổ phó và một Thư ký.
Điều 61
Nhiệm vụ và quyền
hạn của Hội đồng bầu cử bổ sung, Ban bầu cử bổ sung và Tổ bầu cử bổ sung theo
như những quy định đối với Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử nói ở Luật
này.
Điều 62
Danh sách cử tri do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập ra và công bố chậm
nhất là mười lăm ngày trước ngày bầu cử bổ sung.
Điều 63
Danh sách những
người do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở địa phương giới thiệu ra ứng cử phải
được lập và công bố chậm nhất là bảy ngày trước ngày bầu cử bổ sung.
CHƯƠNG IX
VIỆC BÃI MIỄN ĐẠI
BIỂU
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP
Điều 64
Việc đưa một đại
biểu Hội đồng nhân dân ra để cử tri bãi miễn do Hội đồng nhân dân quyết định,
theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
Ủy ban nhân dân
cấp trên trực tiếp ấn định ngày bỏ phiếu bãi miễn. Nếu bãi miễn đại biểu Hội
đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương thì Hội
đồng Bộ trưởng ấn định ngày bỏ phiếu bãi miễn.
Ngày bỏ phiếu bãi
miễn phải được công bố chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bỏ phiếu.
Điều 65
Chậm nhất là mười
lăm ngày trước ngày bỏ phiếu bãi miễn đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào thì Ủy
ban nhân dân cấp ấy bàn với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp thành lập
Ban tổ chức bãi miễn từ ba đến năm người, gồm đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân ở địa phương để phụ trách việc tổ chức bãi miễn.
Ban tổ chức bãi
miễn bầu Trưởng ban và một Thư ký.
Điều 66
Chậm nhất là mười
ngày trước ngày bỏ phiếu bãi miễn, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn bàn với
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp thành lập tại mỗi khu vực bỏ phiếu một
Tổ công tác bãi miễn từ ba đến năm người, gồm đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, để tổ chức việc bỏ phiếu bãi miễn và lập biên
bản kiểm phiếu.
Tổ công tác bãi
miễn bầu Tổ trưởng và một Thư ký.
Điều 67
Danh sách cử tri
bỏ phiếu bãi miễn do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập và công bố tại trụ
sở Ủy ban và các khu vực bỏ phiếu chậm nhất là mười ngày trước ngày bỏ phiếu.
Điều 68
Biên bản kiểm
phiếu của Tổ công tác bãi miễn làm thành hai bản, có chữ ký của Tổ trưởng và Thư
ký; một bản gửi Ban tổ chức bãi miễn, một bản gửi Ủy ban nhân dân xã, phường
hoặc cấp tương đương.
Căn cứ vào biên
bản kiểm phiếu của Tổ công tác bãi miễn, Ban tổ chức bãi miễn làm biên bản xác
định kết quả bỏ phiếu và tuyên bố kết quả bãi miễn.
Biên bản của Ban
tổ chức bãi miễn làm thành hai bản, có chữ ký của Trưởng ban và Thư ký; một bản
gửi Ủy ban nhân dân cùng cấp, một bản gửi Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp.
Nếu là cuộc bỏ phiếu bãi miễn đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương hoặc cấp tương đương thì biên bản của Ban tổ chức bãi miễn làm
thành ba bản, một bản gửi Ủy ban nhân dân cùng cấp, một bản gửi Hội đồng Bộ
trưởng và một bản gửi Hội đồng Nhà nước.
Điều 69
Phải có quá nửa
tổng số cử tri trong đơn vị bầu cử bỏ phiếu bãi miễn thì việc bãi miễn đại biểu
Hội đồng nhân dân mới có giá trị.
CHƯƠNG X
VIỆC XỬ LÝ NHỮNG
VI PHẠM LUẬT BẦU CỬ
Điều 70
Người nào có hành
vi sau đây thì tùy mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy tố
theo pháp luật;
a) Dùng thủ đoạn
lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép người khác, hoặc có hành vi khác làm cản trở việc
bầu cử, ứng cử và bãi miễn đại biểu Hội đồng nhân dân;
b) Có trách nhiệm
trong công tác bầu cử hoặc bãi miễn mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc dùng
thủ đoạn khác làm sai lạc kết quả bầu cử hoặc bãi miễn đại biểu Hội đồng nhân
dân.
CHƯƠNG XI
ĐIỀU KHOẢN CUỐI
CÙNG
Điều 71
Luật này thay thế
Pháp lệnh quy định thể lệ bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp ngày 18 tháng 01 năm
1961 và Pháp lệnh ngày 22 tháng 01 năm 1981 sửa đổi và bổ sung một số điều khoản
của Pháp lệnh năm 1961. Những văn bản pháp luật khác đã ban hành trước đây trái
với Luật này đều bãi bỏ.
Điều 72
Hội đồng Bộ trưởng
quy định chi tiết thi hành Luật này.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, kỳ
họp thứ 6, thông qua ngày 26 tháng 12 năm 1983.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
NGUYỄN HỮU THỌ
Lưu tại Trung
tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội