Lịch sử Quốc hội Việt Nam Tập 4

            Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các khóa IX, X, XI, XII hoạt động trong bối cảnh công cuộc đổi mới đất nước buớc vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội đã hoàn thành sứ mệnh là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

            Trải qua 19 năm (1992-2011), Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ khóa IX đến khóa XII hoạt động trong bối cảnh thời cơ và thuận lợi đan xen với những khó khăn, thách thức. Thuận lợi cơ bản là sự nghiệp đổi mới đang đi vào chiều sâu. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá nhanh. Văn hóa - xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt. Vị thế của đất nước được nâng lên trên trường quốc tế. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia được giữ vững.

            Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, đất nước đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách. Trên bình diện quốc tế, sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, từ hai cực, thế giới chuyển sang đa cực. Tình hình thế giới tiếp tục có nhiều biến đổi sâu sắc, chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp, khó lường. Các nước lớn cạnh tranh quyết liệt vì lợi ích kinh tế và tìm cách áp đặt các rào cản thương mại với các nước nghèo và các nước đang phát triển. Kể từ năm 2008, thế giới rơi vào tình trạng suy thoái kinh tế - tài chính. Thị trường tài chính, tiền tệ và giá cả biến động phức tạp. Nhân loại phải đối mặt với vấn nạn mang tính toàn cầu như: dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn năng lượng và nguyên vật liệu, biến đổi khí hậu... Ở trong nước, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế vẫn còn thấp. Tệ quan liêu và tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gây bất bình và làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy tốt.

            Trong bối cảnh đó, nhằm tranh thủ thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, Đảng chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đề cập đến vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Đảng khẳng định: “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả các quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp... Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội... Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao”.

            Thực hiện nghị quyết các kỳ đại hội Đảng, bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI, Quốc hội “có vị trí đặc biệt quan trọng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, vừa có vinh dự to lớn, vừa có trách nhiệm nặng nề trước vận mệnh của dân tộc ta trong thế kỷ XXI”. Để đáp ứng yêu cầu phát triển, vấn đề quan trọng đặt ra là phải chú trọng “Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, hoàn thiện những quy định về bầu cử, ứng cử, về tiêu chuẩn và cơ cấu các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân trên cơ sở thật sự phát huy dân chủ. Tăng thêm tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách”.

            Đáp ứng yêu cầu đó, đồng thời thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Quốc hội đã tiến hành đổi mới quy trình bầu cử, nhằm phát huy dân chủ, bảo đảm tính nhân dân, tính đại diện và nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tạo cơ sở cho việc tăng dần tỷ lệ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại các cơ quan của Quốc hội.

            Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội từ khóa IX đến khóa XII đã hoàn thành các nhiệm vụ trọng đại liên quan đến vận mệnh của đất nước, đặc biệt là trong các hoạt động: lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và hoạt động đối ngoại; khẳng định vị trí, vai trò to lớn của Quốc hội đối với sự phát triển của đất nước, đáp ứng được lòng mong đợi của cử tri và nhân dân cả nước.

            Trong công tác lập pháp, Quốc hội các khóa đã tập trung thời gian, trí lực đẩy mạnh hoạt động lập pháp, nhằm thể chế đường lối đổi mới trên cơ sở các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X của Đảng và Hiến pháp năm 1992.

            Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm tạo khuôn khổ pháp lý phù hợp, bảo đảm điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật, Quốc hội khóa IX đã tập trung triển khai tích cực hoạt động lập pháp, mang lại hiệu quả cả về số lượng và chất lượng. Trong nhiệm kỳ, Quốc hội đã ban hành 36 luật, bộ luật, trong đó có 2 bộ luật lớn là Bộ luật lao độngBộ luật dân sự; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 43 pháp lệnh. Các văn bản luật, pháp lệnh đã hướng trọng tâm vào việc phục vụ đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống chính trị, bảo vệ và phát huy quyền dân chủ của công dân, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

            Điểm nổi bật của Quốc hội khóa X là đã xem xét, thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992.

            Việc Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử lập hiến ở Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy nhà nước, đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

            Cùng với việc tập trung sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992, Quốc hội khóa X tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp, phân định phạm vi thẩm quyền lập pháp của mình, lập và quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; đổi mới thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và lần thứ IX của Đảng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận, thông qua 1 bộ luật, 34 luật, 44 pháp lệnh, 29 nghị quyết có quy phạm pháp luật. Các luật, pháp lệnh được Quốc hội thông qua đều đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của cuộc sống và công cuộc phát triển đất nước đặt ra, bảo đảm tính đồng bộ, hợp hiến, hợp pháp.

            Hoạt động lập pháp của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI có bước đột phá lớn, nhất là sau khi Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, với những đổi mới quan trọng về quy trình lập pháp. Công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội đã có những chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng. Quốc hội khóa XI đã thông qua 84 luật, bộ luật, 16 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét và thông qua 35 pháp lệnh, đưa số lượng văn bản pháp luật được thông qua trong nhiệm kỳ tăng cao so với trước đây. Kết quả đó, đánh đấu bước tiến mới của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan hữu quan trong công tác xây dựng pháp luật, góp phần đẩy nhanh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta.

            Điều đáng chú ý là, chất lượng các dự án luật được chuẩn bị kỹ hơn, bám sát yêu cầu của cuộc sống, xử lý tốt một số vấn đề nhạy cảm, phản ánh đầy đủ hơn thực tiễn xã hội, vì thế chất lượng được nâng lên một bước. Nội dung các vấn đề được quy định trong các luật, bộ luật cơ bản bao quát các lĩnh vực của đời sống, từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ, quốc phòng - an ninh, đối ngoại đến tổ chức bộ máy nhà nước, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đặc biệt, Quốc hội đã dành nhiều thời gian, công sức để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các đạo luật kinh tế thuộc các lĩnh vực: doanh nghiệp, đầu tư, ngân hàng, tín dụng, thương mại, kinh doanh bất động sản, cải cách chính sách thuế..., phù hợp với điều kiện và mục tiêu phát triển của đất nước, yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là việc bảo đảm để Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhiều bộ luật lớn quy định về trình tự thủ tục đã được sửa đổi hoặc ban hành mới như Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự; nhiều vấn đề mới và khó như: cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, chứng khoán, chuyển giao công nghệ... đã được Quốc hội ban hành các đạo luật để điều chỉnh.

            Trong nhiệm kỳ khóa XII, với quyết tâm đổi mới và nâng cao năng lực lập pháp, công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội có những tiến bộ quan trọng, quy trình tiếp tục được đổi mới mạnh mẽ, số lượng luật, pháp lệnh được thông qua lớn; chất lượng văn bản ngày càng được nâng cao, tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, góp phần thể chế hóa kịp thời, đúng đắn đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, xã hội của đất nước thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

            Quốc hội khóa XII đã thông qua 67 luật, 13 nghị quyết; Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua 14 pháp lệnh và 11 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật, trong đó phần lớn các văn bản được ban hành hoặc là sửa mới, hoặc sửa một cách toàn diện. Nội dung các quan hệ xã hội được điều chỉnh trong các đạo luật liên quan hầu hết đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tổ chức bộ máy nhà nước, hành chính, dân sự, hình sự, tư pháp. Đặc biệt, một số quan hệ kinh tế quan trọng, phức tạp, nhạy cảm vẫn còn khoảng trống chưa có luật điều chỉnh như quản lý và sử dụng tài sản nhà nước; quản lý nợ công; trưng mua, trưng dụng tài sản; thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế tài nguyên; thuế thu nhập cá nhân đã được Quốc hội khóa XII dành nhiều thời gian, trí tuệ, công sức xây dựng và ban hành. Đồng thời, Quốc hội cũng quan tâm sửa đổi, bổ sung kịp thời một số chế định pháp luật không còn phù hợp thuộc các lĩnh vực như: ngân hàng; tín dụng; thuế; đầu tư xây dựng cơ bản; phòng, chống tham nhũng; quốc tịch; giao thông đường bộ; xuất bản; sở hữu trí tuệ để đáp ứng nhu cầu hội nhập, phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong giai đoạn mới.

            Sự đổi mới về hoạt động lập pháp cuả Quốc hội từ khóa IX đến khóa XII đã tạo tiền đề cho việc ra đời và ban hành các luật, bộ luật, pháp lệnh và các nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa - xã hội; đổi mới hệ thống chính trị, củng cố quốc phòng - an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại v.v., góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế.

            Cùng với hoạt động lập pháp, hoạt động giám sát được Quốc hội khóa IX, X, XI và XII đặc biệt tăng cường, kịp thời phát hiện và có các kiến nghị nhằm điều chỉnh, bổ sung, phát huy tích cực, giảm thiểu những hệ lụy nảy sinh từ các chính sách; chấn chỉnh kịp thời các sai sót, khuyết điểm, thúc đẩy thực hiện tốt các nhiệm vụ. Nội dung giám sát được Quốc hội các khóa tập trung vào nhiều vấn đề bức xúc của cuộc sống, bao quát hầu hết các lĩnh vực. Qua hoạt động giám sát, nhiều kiến nghị có chất lượng đã được Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan hữu quan ở Trung ương và địa phương xem xét, giải quyết. Đặc biệt, nhằm đưa công tác giám sát đi vào chiều sâu, các đoàn đại biểu Quốc hội các khóa cũng đã phối hợp tốt trong việc giám sát chuyên đề theo chương trình giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Ngoài ra, nhiều đại biểu Quốc hội đã tích cực tham gia các đoàn giám sát của các cơ quan của Quốc hội, của đoàn đại biểu Quốc hội và thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri, từ đó có thêm những cơ sở, điều kiện để thực hiện tốt hơn quyền chất vấn và giám sát tối cao tại các kỳ họp Quốc hội.

            Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội khóa IX, khóa X đã từng bước khắc phục những yếu kém, tồn tại về công tác giám sát; đồng thời, quan tâm tiến hành giám sát khá toàn diện việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng được thể chế hóa trong các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ 5 năm, nhiệm vụ hằng năm và nhiều vấn đề quan trọng khác. Đặc biệt, Quốc hội khóa X đã thực hiện hình thức giám sát đi sâu khảo sát theo chuyên đề; kết hợp giữa việc giám sát tại kỳ họp với các hoạt động giám sát trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; giữa việc nghe báo cáo với việc cử đoàn đi địa phương, cơ sở làm việc với các bộ, ngành, tổng công ty, qua đó hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội từng bước được nâng lên.

            Hoạt động giám sát trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI tiếp tục được đẩy mạnh, có nhiều chuyển biến tích cực cả về chất lượng và hiệu quả, hiệu lực. Quyền giám sát tối cao tại kỳ họp Quốc hội được tăng cường trên cơ sở hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, thông qua theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nội dung giám sát tập trung vào nhiều vấn đề bức xúc được đông đảo nhân dân quan tâm, bao quát hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống.

            Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, hoạt động giám sát được tăng cường với sự kết hợp của nhiều phương thức tổng hợp và sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan của Quốc hội. Nội dung giám sát tập trung vào những vấn đề bức xúc đang được cử tri cả nước quan tâm, Quốc hội đã dành nhiều thời gian, công sức để thảo luận, ra nghị quyết; đồng thời tổ chức giám sát thực hiện nghị quyết đã được Quốc hội thông qua. Việc Quốc hội khóa XII giám sát giải quyết các kiến nghị của cử tri là một điểm mới trong hoạt động giám sát tối cao, bước đầu đã mang lại hiệu quả thiết thực, được cử tri và nhân dân cả nước theo dõi và đồng tình, ủng hộ cao.

            Trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội các khóa IX, X, XI và XII đã thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề trọng đại để xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh. Ngoài việc tiến hành bầu những người đứng đầu các cơ quan cấp cao của Nhà nước và phê chuẩn việc bổ nhiệm các thành viên Chính phủ tại kỳ họp thứ nhất mỗi khóa, Quốc hội còn quyết định các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ, điều chỉnh địa giới hành chính các tỉnh, thành phố và thành lập các cơ quan cấp cao của Nhà nước.

            Thực hiện chức năng, quyền hạn theo quy định của pháp luật, Quốc hội các khóa IX, X đã xem xét, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, về nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước; quyết định những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và các hoạt động khác của công dân; quyết định dự toán ngân sách hằng năm và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ các khóa IX, X, trên cơ sở Hiến pháp 1992, Quốc hội đã quyết định sáp nhập một số bộ, ngành; miễn nhiệm, bầu và phê chuẩn một số nhân sự cao cấp khác của Nhà nước; quyết định chia tách một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Những quyết định đó của Quốc hội đã góp phần vào việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, phù hợp với năng lực và trình độ quản lý, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới.

            Trong nhiệm kỳ khóa XI và khóa XII, Quốc hội luôn đề cao vai trò, trách nhiệm và nâng cao chất lượng khi quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, bảo đảm lợi ích chung của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế và trong nước, nhất là sự suy thoái kinh tế toàn cầu và những khó khăn về sản xuất cũng như đời sống của nhân dân, các quyết định của Quốc hội đã luôn bám sát thực tiễn, góp phần đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thách thức, tiếp tục phát triển nhanh và bền vững. Đặc biệt, Quốc hội khóa XI đã xem xét, quyết định chủ trương đầu tư các dự án, công trình quan trọng quốc gia: dự án Nhà máy thủy điện Sơn La, dự án tổng thể đường Hồ Chí Minh; cụm Khí - Điện - Đạm tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; xem xét tình hình triển khai thực hiện và quyết định điều chỉnh chỉ tiêu, nhiệm vụ đối với dự án Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất và dự án trồng mới 5 triệu hécta rừng.

            Trong nhiệm kỳ khóa XII, Quốc hội đã chủ trương đầu tư dự án Nhà máy thủy điện Lai Châu và dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận; quyết định chưa thông qua chủ trương đầu tư xây dựng dự án đường sắt cao tốc Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh, v.v.. Việc thực hiện tốt chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước đã tạo cơ sở cho việc quản lý, điều hành kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường hội nhập quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và từng giai đoạn, đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

            Cùng với việc thực hiện tốt chức năng lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, trên cơ sở đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển; thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác đối ngoại của Nhà nước, Quốc hội các khóa IX, X, XI và XII đã triển khai hoạt động đối ngoại một cách chủ động, tích cực, thực hiện có kết quả chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, từng bước phát huy vai trò, vị thế của Quốc hội Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần vào việc thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và đưa hoạt động ngoại giao nghị viện đi vào chiều sâu. Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã xem xét, thông qua nhiều luật, pháp lệnh liên quan đến hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại; đồng thời phê chuẩn một số hiệp ước quan trọng, góp phần tạo môi trường pháp lý thuận lợi, đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

            Trong nhiệm kỳ khóa IX, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và tổ chức nghị sĩ Việt Nam hữu nghị với các nước đã triển khai hoạt động đối ngoại một cách chủ động, tích cực theo phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy” của tất cả các nước. Qua đó đã góp phần đáng kể vào thành tựu đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội khóa X được triển khai chủ động trên nhiều địa bàn với nhiều đối tượng khác nhau, nhằm củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị song phương, nhất là với các nước láng giềng, các nước trong khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương và các nước trong khu vực khác; đồng thời, nâng cao hiệu quả hoạt động trên các diễn đàn nghị viện đa phương như AIPO, IPU, AAPP, APF..., thực hiện tích cực nghĩa vụ và trách nhiệm quốc tế của Quốc hội Việt Nam với các tổ chức liên nghị viện khu vực và thế giới.

            Trong nhiệm kỳ XI, hoạt động đối ngoại của Quốc hội tiếp tục được đẩy mạnh, củng cố và mở rộng, nhằm phát huy vai trò, vị thế của Quốc hội Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần quan trọng vào việc thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế và đưa hoạt động ngoại giao nghị viện đi vào chiều sâu. Quốc hội khóa XI đã triển khai nhiều hoạt động song phương trên khắp các địa bàn châu Âu, châu Mỹ, Trung Đông và châu Phi, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á, tạo sự chuyển biến tích cực trong quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực và thế giới. Về quan hệ đa phương, Quốc hội đã tích cực tham gia và đóng góp thiết thực vào hoạt động của ngoại giao nghị viện thế giới - một cơ chế vừa mang tính chất nhà nước, vừa mang tính nhân dân, đại diện cho lợi ích rộng rãi của các dân tộc và các xu thế chính trị khác nhau của các quốc gia.

            Hoạt động đối ngoại trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII tiếp tục được đẩy mạnh, củng cố và mở rộng. Quốc hội đã tăng cường đối ngoại song phương, tạo sự chuyển biến tích cực trong quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực và thế giới. Củng cố, phát triển quan hệ với các nước láng giềng, các nước ASEAN và Đông Bắc Á, đẩy mạnh quan hệ với Hoa Kỳ, Nghị viện châu Âu, Nghị viện nhiều nước thuộc Liên minh châu Âu, đưa các mối quan hệ này đi vào thực chất, phát triển cả chiều rộng và chiều sâu theo chủ trương chung của Đảng và Nhà nước; đồng thời quan tâm đẩy mạnh và củng cố quan hệ truyền thống với các nước Trung và Đông Âu, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

            Có thể khẳng định, với tinh thần trách nhiệm cao trước nhân dân và đất nước, với sự phấn đấu không ngừng, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ khóa IX đến khóa XII đã thu được những kết quả, những tiến bộ đáng trân trọng, nhất là trong việc thực hiện các chức năng, lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Trong quá trình hoạt động, bám sát yêu cầu nhiệm vụ mới, Quốc hội đã luôn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, lắng nghe và tiếp thu ý kiến của nhân dân, từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, giảm dần tính hình thức, do đó hiệu quả hoạt động ngày càng cao và được nhân dân tin cậy. Chính kết quả hoạt động của Quốc hội đã làm sâu sắc hơn nhận thức về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần tăng cường sự gắn bó mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, tạo tiền đề cho việc hình thành nếp sinh hoạt dân chủ trong hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

            Đạt được những thắng lợi nói trên, trước hết là do Đảng đã đổi mới phương thức lãnh đạo, Quốc hội đã quán triệt đường lối, chính sách của Đảng vào hoạt động cụ thể của mình. Các đại biểu Quốc hội đã xác định rõ trách nhiệm trước cử tri, trung thành với Tổ quốc, với nhân dân; đồng thời tích cực nắm bắt thực tế, nâng cao trình độ năng lực để thực thi nhiệm vụ của người đại biểu. Có được thắng lợi ấy cũng là nhờ ở sự phối hợp chặt chẽ của Chính phủ, các cơ quan tư pháp, các ngành, các cấp, sự ủng hộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các tổ chức thành viên và đông đảo quần chúng nhân dân.

            Tuy nhiên, đối chiếu với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và sự mong đợi của nhân dân, hiệu quả hoạt động của Quốc hội trong gần 20 năm qua (1992-2011) vẫn còn những hạn chế. Công tác xây dựng pháp luật chưa thực hiện đầy đủ chương trình đề ra, một số luật, pháp lệnh được ban hành chất lượng chưa cao. Hoạt động giám sát tuy đã đạt được một số kết quả nhưng vẫn còn là khâu yếu, còn thiếu đồng bộ, nhiều kiến nghị chưa được xử lý. Nhiều vấn đề quan trọng của đất nước chưa được xem xét, quyết định kịp thời.

            Mặc dù còn một số hạn chế, thiếu sót, nhưng Quốc hội khóa từ IX đến khóa XII đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xứng đáng là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hoạt động của Quốc hội đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tạo nền tảng pháp lý, tạo thế và lực để đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa vào năm 2020.

            Những thành công và những hạn chế trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội các khóa IX, X, XI và XII đã để lại một số bài học kinh nghiệm quý báu trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội.

            Một là, sự phát triển của Quốc hội là một quá trình phát triển liên tục, có sự kế thừa và không ngừng đổi mới để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng. Kinh nghiệm thực tiễn của Quốc hội khóa trước luôn là bài học quý giá cho việc củng cố, nâng cao hoạt động của Quốc hội khóa sau. Đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội cần được tiến hành chặt chẽ, đồng bộ, từ việc thử nghiệm mô hình và cách thức, phương pháp cho đến đổi mới cơ bản về thể chế pháp luật. Đổi mới phải được thực hiện có định hướng, mục tiêu rõ ràng, bước đi chắc chắn và mang lại hiệu quả thiết thực.

            Hai là, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định để Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, hoàn thành tốt trọng trách mà nhân dân giao phó. Đây không chỉ là nguyên tắc trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước cũng như trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước mà còn là quan điểm chỉ đạo quá trình đổi mới, hoàn thiện Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước hoạt động theo đúng định hướng chính trị của Đảng. Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước luôn gắn liền với việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, bao gồm đổi mới cả nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng. Thực tế cho thấy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng vừa tạo khả năng xây dựng một cơ cấu tổ chức thống nhất của Quốc hội và là tiền đề để bảo đảm cho Quốc hội phát huy được vai trò của mình trong việc thực hiện có hiệu quả các hoạt động lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng, kể cả trong hoạt động đối ngoại. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội không chỉ nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, mà còn bảo đảm thực hiện tốt các mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.

            Ba là, phát huy dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội là yêu cầu quan trọng, tạo thêm sức mạnh và sự năng động, sáng tạo từ hệ thống chính trị của nước ta. Trong nhiệm kỳ khóa IX, X, XI và XII, tại các kỳ họp, Quốc hội đã tỏ rõ bản lĩnh, trí tuệ, trách nhiệm, thảo luận, tranh luận đầy nhiệt huyết, với nhiều lý lẽ có sức thuyết phục, tạo sự đồng thuận cao, giúp công tác chỉ đạo, điều hành thuận lợi và hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, phù hợp với ý nguyện của đông đảo nhân dân.

            Bốn là, chất lượng và hiệu quả thực hiện các chức năng của Quốc hội phụ thuộc phần lớn vào hoạt động của các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, nhất là các đại biểu Quốc hội chuyên trách. Do đó, phải luôn luôn coi trọng việc đổi mới các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Kịp thời tổng kết, đánh giá sâu sắc, cụ thể về các hoạt động nói chung của Quốc hội.

            Sự đồng thuận, trách nhiệm của tập thể Ủy ban Thường vụ Quốc hội, của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội; sự phối hợp có hiệu quả của Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan, tổ chức hữu quan và sự đóng góp tích cực của cử tri và nhân dân cả nước là yếu tố rất quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần giúp Quốc hội hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

            Năm là, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mối liên hệ gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe đầy đủ và tiếp thu ý kiến, kiến nghị của nhân dân; đồng thời thông tin kịp thời đến nhân dân về các hoạt động và kết quả hoạt động của Quốc hội, góp phần nâng cao uy tín, vai trò của Quốc hội và tăng cường niềm tin của cử tri và nhân dân cả nước đối với Quốc hội.

            Những bài học được đúc kết từ những thành tựu và hạn chế trong hoạt động của Quốc hội cần được vận dụng một cách sáng tạo để tìm ra nhiều giải pháp đột phá cho hoạt động của Quốc hội trong giai đoạn cách mạng mới, phấn đấu xây dựng Quốc hội Việt Nam ngày càng vững mạnh, xứng đáng là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.