Lịch sử Quốc hội Việt Nam Tập 4

1. Bối cảnh hoạt động của Quốc hội khóa IX

            Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội lần thứ VI (12-1986), đất nước đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Ổn định chính trị được giữ vững, quốc phòng - an ninh được bảo đảm, kinh tế từng bước phát triển, văn hóa - giáo dục có bước tiến bộ, hệ thống chính trị được tăng cường và củng cố, hoạt động đối ngoại được mở rộng. Nhưng, về cơ bản đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiều vấn đề nóng bỏng chưa được giải quyết.

            Từ năm 1989 đến năm 1991, tình hình quốc tế diễn biến vô cùng phức tạp. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào khủng hoảng và lần lượt tan rã. Chủ nghĩa đế quốc tuyên bố sẽ lần lượt xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại bằng mọi giá, đặc biệt là Việt Nam. Chúng hy vọng đến năm 1999 “chiến thắng mà không cần chiến tranh”. Chủ nghĩa xã hội hiện thực từ một hệ thống nay chỉ còn một số nước đơn lẻ. Chủ nghĩa đế quốc hung hăng hơn bao giờ hết. Chiến tranh lạnh kết thúc. Mỹ trở thành siêu cường duy nhất sau khi Liên Xô sụp đổ.

            Trước bối cảnh quốc tế và trong nước đó, từ ngày 24-6 đến ngày 27-6-1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã được triệu tập họp tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộiChiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Đại hội khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”, với quyết tâm không gì lay chuyển được là kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Từ kết quả buổi đầu hoạt động đổi mới trong nhiệm kỳ khóa VIII, Quốc hội khóa IX tiếp tục thể chế hóa Cương lĩnh và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới sâu sắc và toàn diện, khẳng định quyết tâm của Đảng và nhân dân vượt qua những thử thách, đưa đất nước đi dần vào thế ổn định và phát triển năng động. Là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, Quốc hội khóa IX có trách nhiệm lịch sử to lớn, đó là “phát huy vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, tổ chức và động viên toàn dân đương đầu với mọi thử thách, vượt qua mọi trở ngại, tận dụng mọi thời cơ, giải quyết các vấn đề quan trọng vừa cơ bản, vừa cấp bách để đẩy mạnh quá trình phát triển”[1], nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

2. Tiếp tục thể chế hóa đường lối đổi mới, từng bước xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với Hiến pháp 1992

            Từ sau khi có đường lối đổi mới của Đảng, hoạt động lập pháp của Quốc hội đã được đẩy mạnh, nhưng pháp luật vẫn thiếu hệ thống, không đầy đủ và lạc hậu so với cuộc sống. Vì vậy, từ Đại hội lần thứ VII, Đảng đã chỉ đạo sát sao công tác lập pháp - một chức năng chủ yếu, quan trọng nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng đã nhấn mạnh: “Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật”. Do đó, phải nhanh chóng thiết lập hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, nhất là trên lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước và quản lý kinh tế để nâng cao khả năng quản lý nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần - nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

            Quốc hội khóa IX hoạt động theo khuôn khổ Hiến pháp 1992 - văn kiện Nhà nước có hiệu lực pháp lý cao nhất. Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp mới và chuẩn bị hệ thống pháp luật phục vụ các mục tiêu lớn mà Đảng đề ra: xây dựng xã hội bảo đảm cho các quyền công dân được thực hiện đầy đủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền, xây dựng các thể chế kinh tế... Tại các kỳ họp, Quốc hội khóa IX đã dành nhiều thời gian cho công tác tác xây dựng pháp luật, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của Đảng theo tinh thần của Hiến pháp 1992 và Nghị quyết của Đại hội lần thứ VII, nhằm tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới sâu sắc và toàn diện. Cách thức thảo luận các dự án luật rất sôi nổi, thể hiện trách nhiệm của đại biểu Quốc hội đã mang lại kết quả thiết thực trên lĩnh vực lập pháp.

            Theo Hiến pháp 1992, có một điểm mới trong quy định, đó là toàn bộ hoạt động lập hiến, lập pháp, kể cả việc xây dựng pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều do Quốc hội quyết định trong chương trình xây dựng pháp luật hằng năm của Quốc hội. Việc phân định tiêu chí để Quốc hội ban hành luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh, Chính phủ ban hành nghị định là việc rất quan trọng. Căn cứ tinh thần Nghị quyết của Đại hội lần thứ VI, Đại hội lần thứ VII, Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng, và các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng; căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội; đồng thời căn cứ vào khả năng thực tế, hằng năm Quốc hội ra nghị quyết về chương trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng.

            Để nhanh chóng tạo ra khuôn khổ pháp lý phù hợp, bảo đảm điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Đảng đặt ra yêu cầu phải “Đổi mới việc xây dựng, ban hành và thực thi luật pháp đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội theo cơ chế thị trường. Bảo đảm tính hệ thống của luật và các văn bản dưới luật, chú ý đến luật pháp và thông lệ quốc tế. Khẩn trương xây dựng và ban hành hệ thống luật kinh tế, luật bảo vệ môi trường, luật dân sự... Phổ cập luật pháp cho toàn dân. Phát triển các hình thức dịch vụ pháp lý”[2].

            Xuất phát từ yêu cầu bức xúc của cuộc sống cần luật hóa những quan hệ kinh tế - xã hội, tạo hành lang pháp lý an toàn cho những hoạt động đó; căn cứ khả năng thực tế trong hoạt động lập pháp, Quốc hội đã thể chế thành luật theo các nhóm vấn đề lớn như sau:

- Một là, luật pháp về kinh tế;

- Hai là, luật pháp về đổi mới hệ thống chính trị;

- Ba là, luật pháp về mặt xã hội;

- Bốn là luật pháp liên quan đến việc lập lại trật tự, kỷ cương, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng - an ninh.

            Nhiệm vụ trọng tâm đối với công tác lập pháp của Quốc hội khóa IX là khẩn trương rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật, có kế hoạch sửa đổi, bổ sung các văn bản đã ban hành và xây dựng mới hệ thống pháp luật theo nhóm vấn đề nêu trên, làm cho hệ thống pháp luật phù hợp với quy định của Hiến pháp 1992, đáp ứng đúng và từng bước đầy đủ yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật.

Chủ tịch nước Lê Đức Anh, đại biểu Quốc hội tỉnh Thừa Thiên Huế gặp mặt các đại biểu tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX, tháng 9-1992

Chủ tịch nước Lê Đức Anh, đại biểu Quốc hội tỉnh Thừa Thiên Huế
gặp mặt các đại biểu tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX, tháng 9-1992

2.1. Hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa IX

            Trong gần 5 năm thực hiện nhiệm vụ của mình, công tác lập pháp của Quốc hội đã được tiến hành mạnh mẽ, phản ánh đúng quan điểm của Đảng, đáp ứng được những vấn đề cơ bản và cấp bách mà cuộc sống đặt ra. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, trên cơ sở thống nhất cùng với Chính phủ, Quốc hội thông qua chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cho toàn khóa và từng năm. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, Quốc hội khóa IX mới chỉ ra được các nghị quyết xây dựng luật, pháp lệnh cho từng năm, còn chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cho toàn khóa chưa thực hiện được.

            Tại kỳ họp thứ nhất (9-1992), mặc dù chưa đưa ra được chương trình xây dựng pháp luật, nhưng Quốc hội đã thảo luận và thông qua: Luật tổ chức Chính phủ; Luật tổ chức Tòa án nhân dân; Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, phù hợp với các quy định của Hiến pháp 1992, góp phần thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, từng bước phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

            Tại kỳ họp thứ hai diễn ra từ ngày 9-12 đến ngày 23-12-1992, Quốc hội thông qua 3 dự án luật: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế, quản lý xã hội trong tình hình mới, nhất là cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu và mở rộng kinh tế đối ngoại. Quốc hội cũng góp ý về dự thảo Luật đất đai sửa đổi để chỉnh lý và công bố rộng rãi cho nhân dân tham gia ý kiến.

            Trên tinh thần quy định của Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, từ kỳ họp thứ hai, Quốc hội đều ra nghị quyết về công tác xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm, hoặc nghị quyết điều chỉnh công tác xây dựng luật, pháp lệnh theo hướng tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, phục vụ cho việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước lên một tầm cao mới, sâu sắc hơn, toàn diện hơn với những bước đi tích cực và vững chắc.

            Kỳ họp thứ ba diễn ra từ ngày 16-6-1993 đến ngày 14-7-1993, Quốc hội đã dành nhiều thời gian để xem xét, thông qua 8 đạo luật quan trọng mà nhân dân cả nước đang hết sức quan tâm và mong đợi. Đó là: Luật đất đai; Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế lợi tức; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế doanh thu; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật dầu khí; Luật xuất bản. Quốc hội cũng thảo luận và cho ý kiến về các dự án Luật doanh nghiệp nhà nước; Luật phá sản doanh nghiệp, nhằm chuẩn bị trước một bước cho việc xem xét, thông qua các văn bản luật này vào kỳ họp tới.

            Việc Quốc hội ban hành 8 đạo luật nêu trên là nhằm tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển của đất nước trên nhiều lĩnh vực: thăm dò, khai thác, sử dụng và bảo vệ có hiệu quả nguồn tài nguyên dầu khí; thúc đẩy sự nghiệp xuất bản phát triển, đáp ứng nhu cầu văn hóa, thông tin, động viên mạnh mẽ sức sáng tạo của quần chúng; sửa đổi một số bất hợp lý trong các sắc thuế hiện hành, nhằm khuyến khích phát triển sản xuất, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước và bảo đảm nguồn thu ngân sách...

            Trong lĩnh vực nông nghiệp, để nông dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, khuyến khích sử dụng và phát triển quỹ đất có hiệu quả, thực hiện công bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong nông thôn, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, Luật đất đai đã quy định việc giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân. Người sử dụng đất được quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng đất theo luật định. Luật còn quy định về mức đất dự trữ, hạn điền, đất ở... Đây là những nội dung quan trọng khẳng định bước tiến mới về chế độ quản lý, sử dụng đất, về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.

            Cùng với Luật đất đai, việc Quốc hội ban hành Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp đã thể hiện tinh thần vừa “khoan sức dân”, vừa bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước để đầu tư trở lại cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

            Hai văn bản pháp luật này đã góp phần thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn”.

            Cũng tại kỳ họp này, nhằm từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng thiết thực, có hiệu quả, Quốc hội đã thảo luận và thông qua các quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Về công tác xây dựng pháp luật, Quốc hội đã quyết định điều chỉnh, bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 1993 trong 6 tháng cuối năm.

            So với toàn khóa, đây là một trong hai kỳ họp Quốc hội thông qua được nhiều luật nhất, tập trung thể chế hóa chính sách của Đảng và Nhà nước về các sắc thuế, về đất đai và một lĩnh vực khác rất nhạy cảm đó là xuất bản. Điều đó, phản ánh quá trình xây dựng pháp luật của Nhà nước đã có bước tiến mới. Ngoài việc thông qua được 8 dự án luật, 4 quy chế, Quốc hội cũng đã xem xét và cho ý kiến về 3 dự án luật khác. Các luật và quy chế được thông qua đều thể hiện đúng tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị, nhất là Luật đất đai, Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp, Luật xuất bản.

Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội thảo luận tổ về các dự án luật tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa IX, tháng 6-1993

Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội thảo luận tổ về các dự án luật tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa IX, tháng 6-1993

            Kỳ họp thứ ba đã đánh dấu bước tiến mới của Quốc hội khóa IX trong công tác lập pháp. Quốc hội có thêm một số kinh nghiệm về quy trình xem xét, thông qua các dự án luật, mở ra triển vọng và tạo tiền đề cho việc hoàn thành chương trình xây dựng pháp luật năm 1993 theo như nghị quyết của Quốc hội đã thông qua tại kỳ họp thứ hai, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

            Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa IX được tổ chức vào cuối năm 1993 (từ ngày 4 đến ngày 30-12), tuy công tác xây dựng pháp luật không phải là nhiệm vụ trọng tâm của kỳ họp, nhưng Quốc hội đã dành thời gian thảo luận, xem xét và thông qua 3 dự án luật: Luật bảo vệ môi trường; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân (về tòa kinh tế); Luật phá sản doanh nghiệp. Đây là các đạo luật quan trọng và cần thiết, góp phần tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm các hoạt động sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước.

            Kỳ họp thứ năm diễn ra từ ngày 26-5 đến ngày 23-6-1994, xác định nội dung chủ yếu là công tác lập pháp, Quốc hội đã tập trung trí tuệ, dành phần lớn thời gian của kỳ họp để thảo luận và thông qua Bộ luật lao động và 7 dự án luật, 2 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật: Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi); Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi); Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất; Luật khuyến khích đầu tư trong nước; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật công ty; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật doanh nghiệp tư nhân; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật nghĩa vụ quân sự. Quốc hội cũng đã cho ý kiến về dự án Bộ luật dân sự để cơ quan soạn thảo tiếp tục chỉnh lý, trình Quốc hội xem xét, thông qua.

            Có thể nói, Bộ luật lao động và 7 đạo luật đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ năm là sản phẩm trí tuệ của toàn dân, của các ngành, các cấp, nhằm tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống các luật về tổ chức bộ máy nhà nước; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về đất đai, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách; tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để nhân dân yên tâm và hăng hái bỏ vốn đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh và từng bước xây dựng quân đội chính quy, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

            Thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đã đề ra, tại kỳ họp thứ bảy (tháng 4-1995), với sự nhất trí cao, Quốc hội đã thông qua 2 dự án luật: Luật doanh nghiệp nhà nước; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hàng không dân dụng Việt Nam; đồng thời, Quốc hội đã dành nhiều thời gian để cho ý kiến về dự án Luật khoáng sản và những vấn đề cơ bản của dự án Bộ luật dân sựLuật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân (về tòa hành chính). Thực tiễn của công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội không chỉ đòi hỏi Quốc hội phải đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, nhất quán mà còn yêu cầu các văn bản pháp luật được ban hành phải có tính khả thi cao, bảo đảm được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Nhận thức rõ điều đó, tại kỳ họp này với những quan điểm cơ bản trong đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, với những kinh nghiệm được đúc rút từ thực tiễn và những ý kiến đóng góp phong phú của cử tri, của các ngành, các cấp trong cả nước, Quốc hội đã nghiêm túc xem xét về nội dung của các dự án luật để xây dựng những quy định cụ thể, hợp lý trong các đạo luật đã được thông qua hoặc rút ra kết luận để có cơ sở chỉnh lý các dự án luật đang được tiếp tục chuẩn bị.

            Kỳ họp thứ tám diễn ra từ ngày 3 đến ngày 28-10-1995, Quốc hội đã dành nhiều thời gian để xem xét, thông qua Bộ luật dân sự. Đây là bộ luật lớn, tạo cơ sở pháp lý giải phóng sức sản xuất, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư sống và làm việc vì sự nghiệp phát triển đất nước, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Ngoài ra, Quốc hội cũng đã thảo luận, thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân (về tòa hành chính và tòa lao động) từng bước hoàn thiện hệ thống tổ chức tòa án ở nước ta, bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động và mọi công dân theo quy định của Hiến pháp 1992; thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế doanh thu; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt; Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật thuế lợi tức để thực hiện một bước chương trình cải cách thuế, giải quyết trước mắt các bất hợp lý về thuế suất...

            Ngày 28-10-1995, Quốc hội ra Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật dân sự, trong đó quy định một loạt pháp lệnh trái với bộ luật này sẽ bị bãi bỏ. Quốc hội giao Chính phủ phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Bộ luật dân sự, nhằm phát huy vai trò, tác dụng của Bộ luật trong quản lý nhà nước, trong giao lưu dân sự, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác. Cùng ngày, Quốc hội còn ra Nghị quyết về công tác xây dựng pháp luật từ nay đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX. Mặc dù Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã có rất nhiều cố gắng nhưng ở ba kỳ họp cuối của nhiệm kỳ cũng chỉ thông qua được 10 dự án luật, do đó không đạt yêu cầu mà nghị quyết đã đề ra.

            Kỳ họp thứ chín (tháng 3-1996), Quốc hội thông qua được 3 đạo luật quan trọng: Luật ngân sách nhà nước; Luật hợp tác xã; Luật khoáng sản. Các đạo luật này được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết từ thực tiễn và xuất phát từ yêu cầu giải quyết những vấn đề bức xúc mà thực tiễn cuộc sống đang đặt ra, liên quan đến việc xây dựng nền tài chính quốc gia vững mạnh, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên và thúc đẩy sự phát triển của thành phần kinh tế tập thể, phục vụ cho bước phát triển mới của đất nước.

            Tại kỳ họp thứ 10 diễn ra vào tháng 10-1996, Quốc hội thông qua được 2 dự án luật: Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luậtLuật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; cho ý kiến về dự án Luật thuế, dự án Luật thương mại; dự thảo Nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991 và quyết định điều chỉnh, bổ sung chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX.

            Tuy nhiên, để thực hiện một phần nhiệm vụ lập pháp do Nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ tám (10-1995); tại kỳ họp thứ 11 (4-1997) Quốc hội đã tập trung trí tuệ và dành nhiều thời gian để thông qua Luật bầu cử đại biểu Quốc hội (sửa đổi), nhằm phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ của nhân dân trong việc lựa chọn những người có đủ năng lực, phẩm chất để bầu vào Quốc hội khóa mới. Thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự; Luật thương mại; Luật thuế giá trị gia tăng (VAT); Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, góp phần phục vụ công tác quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội. Trong số 5 dự án luật được thông qua có hai đạo luật mới và rất quan trọng là Luật thương mạiLuật thuế giá trị gia tăng (VAT). Nội dung của luật đã bám sát đòi hỏi của cuộc sống, coi trọng thực tiễn ở Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tiên tiến của nước ngoài, góp phần tạo ra khuôn khổ pháp lý phù hợp để điều chỉnh các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước.

            Trong gần 5 năm với 11 kỳ họp, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa IX đã thông qua được 36 luật, bộ luật và 43 pháp lệnh, trong đó có hai bộ luật lớn là Bộ luật lao độngBộ luật dân sự; ban hành 17 nghị quyết và các văn bản khác có chứa quy phạm pháp luật, biểu thị quyết tâm và sự cố gắng cao độ của Quốc hội trong hoạt động lập pháp, nhằm thể chế hóa đường lối đổi mới trên cơ sở các Nghị quyết của Đại hội lần thứ VI, Đại hội lần thứ VII, Đại hội lần thứ VIII của Đảng và Hiến pháp 1992.

            - Về lĩnh vực kinh tế: khi đất nước bước vào nền kinh tế thị trường, rất nhiều hoạt động đòi hỏi phải luật hóa, nhằm thiết lập hệ thống chính sách nhất quán, tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; góp phần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đặc biệt là các lĩnh vực tài chính, tiền tệ, thuế, giá cả, nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng tích luỹ để tạo vốn cho đầu tư phát triển. Theo chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm, Quốc hội đã ưu tiên thảo luận và thông qua các dự án luật thật sự cần thiết, như Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 20-4-1995 đã thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới doanh nghiệp nhà nước; tạo cơ sở pháp lý để doanh nghiệp nhà nước hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

            Luật hợp tác xã được Quốc hội thông qua ngày 20-3-1996 đã góp phần thúc đẩy sự ra đời và khẳng định tư cách pháp lý của những mô hình kinh tế hợp tác có đủ điều kiện để trở thành các hợp tác xã, đồng thời tạo điều kiện để nhà nước quản lý hợp tác xã theo pháp luật.

            Trong hệ thống tài chính, ngân sách nhà nước là khâu chủ đạo, là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước do Hiến pháp quy định. Đồng thời, ngân sách nhà nước là công cụ quan trọng của Nhà nước để điều chỉnh vĩ mô đối với toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc gia. Mặc dù, hệ thống pháp luật về ngân sách nhà nước tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn đang trong tình trạng chắp vá, không đồng bộ và hiệu lực pháp lý thấp; đặc biệt là từ năm 1989 đến 1996, công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế được thực hiện mạnh mẽ đang đòi hỏi phải tăng cường vai trò điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước, thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật.

            Để khắc phục tồn tại, yếu kém và đáp ứng yêu cầu đổi mới, ngày 20-3-1996, Quốc hội đã thông qua Luật ngân sách nhà nước. Luật ra đời đã thể hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, bảo đảm vai trò của ngân sách nhà nước phục vụ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người nhằm thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần lập lại trật tự kỷ cương tài chính, ngăn chặn các hành vi tiêu cực.

            Ngoài những luật nêu trên, Quốc hội còn thông qua các luật thuế như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế doanh thu; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế lợi tức; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp... Tuy phạm vi điều chỉnh của các văn bản luật khác nhau nhưng đều có chung mục đích là “góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh”[3].

            Về lĩnh vực đổi mới hệ thống chính trị, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp 1992Luật tổ chức Quốc hội theo tinh thần đổi mới của Đảng thể hiện trong Văn kiện Đại hội lần thứ VI và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội lần thứ VII thông qua. Do vậy, bên cạnh việc ưu tiên xây dựng, ban hành hệ thống pháp luật về kinh tế, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa IX đã hướng trọng tâm vào việc sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới các luật, pháp lệnh, nhằm tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị phù hợp với những quy tắc hiến định của Hiến pháp 1992.

            Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội khóa IX xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ nhất (tháng 9-1992) nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Tiếp đó, ngày 21-6-1994 Quốc hội cũng đã thông qua Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân (về tòa kinh tế, tòa hành chính và tòa lao động)... Các văn bản luật nêu trên được ban hành đã góp phần dân chủ hóa đời sống xã hội, từng bước thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân và thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

            Nhằm góp phần tạo sự chuyển biến tích cực về mặt xã hội, trong nhiệm kỳ khóa IX, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã quan tâm xây dựng và thông qua nhiều pháp lệnh quan trọng như: Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng, nhằm thể chế hóa chủ trương “Đền ơn đáp nghĩa” của Đảng và Nhà nước. Các pháp lệnh được ban hành đã phát huy hiệu lực sâu rộng trong cuộc sống, được toàn dân hưởng ứng.

            Việc lập lại trật tự, kỷ cương, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh cũng được Quốc hội quan tâm, ban hành các văn bản pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới, như: Bộ luật lao động (1994); Bộ luật dân sự (1995); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật xuất bản; Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; Luật nghĩa vụ quân sự (sửa đổi); Pháp lệnh dân quân tự vệ; Pháp lệnh bảo vệ công trình quốc phòng và khu vực quân sự...

            Kế thừa và phát triển pháp luật lao động của nước ta từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Bộ luật lao động được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 23-6-1994 đã thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng được xác định trong các Nghị quyết của Đại hội lần thứ VI, VII và cụ thể hóa Hiến pháp 1992 trong lĩnh vực lao động, sử dụng và quản lý lao động. Bên cạnh đó, Bộ luật lao động còn bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động; đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hòa và ổn định, góp phần phát huy trí sáng tạo và tài năng của người lao động trí óc và lao động chân tay,
của người quản lý lao động, nhằm đạt năng suất, chất lượng và tiến bộ xã hội trong lao động, sản xuất, dịch vụ, hiệu quả trong sử dụng và quản lý lao động, góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

            Bộ luật dân sự được Quốc hội thông qua ngày 28-10-1995. Bộ luật ra đời đã tạo ra một văn bản pháp luật thống nhất có hiệu lực pháp lý cao, nhằm khắc phục tình trạng tản mạn, trùng lặp, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ của pháp luật dân sự hiện hành; tạo ra các chuẩn mực về cách ứng xử của cá nhân, tổ chức khi tham gia quan hệ dân sự; kịp thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích xã hội; tạo cơ sở pháp luật hết sức cần thiết cho công tác xét xử của các cơ quan tài phán, bảo đảm xét xử công minh, khách quan và đúng pháp luật. Đồng thời, tiến hành một bước cơ bản tiêu chuẩn hóa các khái niệm và phạm trù pháp lý dân sự, một tiền đề không thể thiếu cho sự phát triển lâu dài của khoa học pháp luật dân sự, làm cơ sở xây dựng ngành pháp luật dân sự hoàn chỉnh, thực sự trở thành công cụ quan trọng thúc đẩy nền kinh tế thị trường văn minh phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

            Cùng với những luật liên quan đến việc lập lại trật tự, kỷ cương, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng - an ninh, tại kỳ họp thứ tư, ngày 30-12-1993, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về thực hành tiết kiệm chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu, trong đó nhận định: Các tệ nạn này đang có chiều hướng ngày càng nghiêm trọng, tha hóa một bộ phận cán bộ, viên chức nhà nước, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, gây dư luận bất bình và làm giảm lòng tin của nhân dân. Do đó, để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ năm 1994 và các năm sau, phải thực hiện đồng bộ, kiên quyết các biện pháp có hiệu lực thực sự trên các lĩnh vực, nhằm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; ngăn chặn và đẩy lùi một bước tệ nạn tham nhũng, buôn lậu; thiết lập trật tự, kỷ cương trong quản lý nhà nước, quản lý kinh tế và quản lý xã hội.

            Nghị quyết của Quốc hội cũng chỉ rõ Chính phủ cần thực hiện đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn đã được pháp luật quy định và chú trọng các chủ trương, biện pháp chính, bao gồm:

1. Sửa đổi, bổ sung và ban hành các chính sách, chế độ, cơ chế quản lý phù hợp với thực tế, nhằm tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước; khắc phục các sơ hở, làm thất thoát tài sản của Nhà nước, gây trở ngại cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm thiệt hại lợi ích của nhân dân.

2. Kiện toàn các cơ quan nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức có đủ năng lực, phẩm chất và loại ra khỏi bộ máy nhà nước những phần tử thoái hóa, tham nhũng, buôn lậu.

3. Chỉ đạo chặt chẽ và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước để kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi lạm dụng chức quyền tham ô, sách nhiễu, hối lộ, buôn lậu hoặc tiếp tay cho bọn buôn lậu, lạm dụng công quỹ, gây lãng phí, làm thiệt hại tài sản của Nhà nước và lợi ích của nhân dân.

4. Có kế hoạch cụ thể chỉ đạo các ngành, các cấp triển khai thực hiện có kết quả nghị quyết này.

            Quốc hội yêu cầu Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội động viên nhân dân phát huy vai trò làm chủ, xây dựng nếp sống cần kiệm; phát hiện, tố giác các hành vi tham nhũng, buôn lậu hoặc tiếp tay cho bọn buôn lậu; tham gia giám sát, đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật; đồng thời, đề cao cảnh giác chống lại âm mưu, thủ đoạn của bọn phá hoại trong cuộc vận động này. Quốc hội yêu cầu toàn thể cán bộ, viên chức nhà nước quán triệt tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, nghiêm chỉnh chấp hành Nghị quyết của Quốc hội.

            Do quán triệt các quan điểm của Đảng về phát triển các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và bám sát yêu cầu của cuộc sống, coi trọng tổng kết thực tiễn đất nước, kết hợp với tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài... nên các luật, pháp lệnh được ban hành trong nhiệm kỳ khóa IX của Quốc hội được đánh giá có chất lượng và phát huy hiệu lực trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.

            Nhìn chung, hoạt động lập pháp của Quốc hội khóa IX đã được triển khai tích cực, mang lại hiệu quả cả về số lượng và chất lượng văn bản; đã hướng trọng tâm vào việc phục vụ đổi mới cơ cấu kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống chính trị, bảo vệ và phát huy quyền dân chủ của công dân, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Ở mức độ khác nhau, các bộ luật, đạo luật được Quốc hội khóa IX ban hành đều bảo đảm đúng quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân, đã phát huy tác dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ đa dạng trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.

            Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác lập pháp của Quốc hội khóa IX vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại. Về chương trình, chưa có chiến lược lập pháp dài hạn, thiếu chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cho cả nhiệm kỳ. Việc xây dựng chương trình hằng năm cũng chưa thật sự chủ động, nhưng chậm được khắc phục. Về nội dung, các luật được ban hành tuy tăng về số lượng, nhưng vẫn thiếu sự đồng bộ. Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm chưa thật sự ưu tiên ban hành các luật, pháp lệnh có nhu cầu cấp thiết. Vì vậy, nhiều văn bản quan trọng về các lĩnh vực thương mại, ngân hàng, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm... đến cuối nhiệm kỳ mới được xem xét, thông qua, hoặc để Quốc hội khóa mới tiếp tục xem xét. Về trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành các văn bản luật còn nhiều bất cập, thiếu quy định về mặt pháp lý và tạo điều kiện về mọi mặt để Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội có thể chủ động trong công tác lập pháp. Chưa có biện pháp hữu hiệu để khắc phục tình hình chậm ban hành văn bản hướng dẫn để phát huy hiệu lực của các văn bản pháp luật; chưa chú trọng đúng mức đến việc giải thích, tuyên truyền và động viên nhân dân “sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.

2.2. Hoạt động xây dựng pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa IX

            Mặc dù Quốc hội khóa IX không xây dựng được chương trình lập pháp cho toàn khóa, nhưng tại các kỳ họp toàn thể, Quốc hội đã ban hành 7 nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm. Trong các nghị quyết này, Quốc hội đều giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội xây dựng và ban hành các pháp lệnh liên quan đến các lĩnh vực của đời sống xã hội mà Quốc hội chưa có điều kiện ban hành luật. Trong Nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 1993, Quốc hội đã giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 16 pháp lệnh. Đặc biệt Quốc hội đã yêu cầu Ủy ban Thường vụ Quốc hội chuẩn bị dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ ba (tháng 6-1993). Yêu cầu này của Quốc hội vào thời điểm đó quá khả năng của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bởi vì chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX đã qua nhiều lần chuẩn bị, nhưng do quá trình chuyển đổi cơ chế, nhiều vấn đề mới trong lĩnh vực lập pháp được đặt ra, có những vấn đề khá phức tạp, quan điểm xử lý còn chưa thống nhất, sự chuẩn bị của các cơ quan trình dự án chưa đầy đủ, cho nên chưa có đủ cơ sở để xây dựng chương trình.

            Tuy nhiên, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, trong năm 1993 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã triển khai việc phân công cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra và định tiến độ xây dựng các dự án pháp lệnh theo kế hoạch của Quốc hội. Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng trong năm 1993, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ ban hành được 14/16 pháp lệnh để điều chỉnh các vấn đề có tính cấp bách thuộc các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, đó là: Pháp lệnh thú y (4-2-1993); Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật (4-2-1993); Pháp lệnh phòng, chống lụt, bão (8-3-1993); Pháp lệnh thi hành án phạt tù (8-3-1993); Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự (19-4-1993); Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự (19-4-1993); Pháp lệnh thi hành án dân sự (17-4-1993); Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài (17-4-1993); Pháp lệnh về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân (12-5-1993); Pháp lệnh về thẩm phán và hội thẩm Tòa án nhân dân (14-5-1993); Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam (23-8-1993); Pháp lệnh về hành nghề y, dược tư nhân (30-9-1993); Pháp lệnh về cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài (12-12-1993); Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài (2-12-1993).

            Trong năm 1994, Quốc hội giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội một chương trình xây dựng pháp lệnh nặng nề hơn. Ngoài việc phải ban hành 18 pháp lệnh, với tư cách là cơ quan chủ trì việc chuẩn bị các kỳ họp Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải chỉ đạo và giám sát chặt chẽ việc thực hiện chương trình theo đúng tiến độ; quyết định danh mục các dự án luật, pháp lệnh cần nghiên cứu chuẩn bị trong năm 1994, phân công cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra các dự án luật, xác định tiến độ xây dựng từng văn bản; đồng thời dự kiến chương trình xây dựng pháp luật từ năm 1995 để trình Quốc hội quyết định. Nhưng năm 1994, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ thông qua được 13 pháp lệnh, đạt 72% yêu cầu Quốc hội giao. Đối với các dự án luật trình Quốc hội và các dự án pháp lệnh, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã dành phần lớn thời gian các phiên họp để xem xét, cho ý kiến về cả nội dung và kỹ thuật văn bản, tập trung chủ yếu vào những nội dung còn nhiều ý kiến khác nhau. Những pháp lệnh đã được thông qua năm 1994, gồm: Pháp lệnh thuế bổ sung đối với hộ gia đình sử dụng đất nông nghiệp vượt quá hạn mức diện tích (15-3-1994); Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (16-3-1994); Pháp lệnh bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự (19-5-1994); Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (19-5-1994); Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về thuế nhà, đất (19-5-1994); Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” (29-8-1994); Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng (29-8-1994);
Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi (31-8-1994); Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất (14-10-1994); Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức và cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam (14-10-1994); Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả (2-12-1994); Pháp lệnh bảo vệ công trình giao thông (2-12-1994); Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình khí tượng thủy văn (2-12-1994).

            Ngày 1-11-1994, Quốc hội đã ra Nghị quyết về công tác xây dựng pháp luật năm 1995, theo đó Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ ban hành 10 pháp lệnh và dự bị 3 dự án pháp lệnh khác. Quốc hội cũng giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo việc chuẩn bị các dự án luật để đưa vào chương trình chính thức năm 1996 và các năm sau. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cùng Chính phủ và các cơ quan hữu quan nỗ lực triển khai xây dựng, hoàn thiện các dự án để kỳ họp thứ bảy Quốc hội thông qua. Riêng Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua được 5 pháp lệnh, cho ý kiến về 6 bộ luật và đạo luật, xem xét đối với 5 dự án pháp lệnh khác: Pháp lệnh về hàm, cấp ngoại giao (31-5-1995); Pháp lệnh phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV-AIDS) (31-5-1995); Pháp lệnh xử lý và vi phạm hành chính (6-7-1995); Pháp lệnh sửa đổi Điều 6 của Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam (6-7-1995); Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài (14-9-1995).

            Để đẩy mạnh quá trình lập pháp, tại kỳ họp thứ tám (10-1995) Quốc hội đã thông qua chương trình xây dựng luật và pháp lệnh khá đồ sộ đến hết nhiệm kỳ (chỉ còn hơn một năm nữa là kết thúc), bao gồm 14 dự án pháp lệnh của năm 1995 chuyển sang và 13 dự án pháp lệnh mới bổ sung vào chương trình. Xác định việc ban hành pháp lệnh là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong điều kiện Quốc hội với đa số đại biểu hoạt động kiêm nhiệm, mỗi năm chỉ họp có hai kỳ thì việc Quốc hội giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục ban hành các pháp lệnh để điều chỉnh các vấn đề có tính cấp bách thuộc các lĩnh vực quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội là cần thiết. Tuy nhiên, trong năm 1996, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ ban hành được 9 pháp lệnh, năm 1997 ban hành thêm 2 pháp lệnh nữa, tổng cộng là 11 pháp lệnh, không đạt được số lượng như Quốc hội dự kiến.

            Các pháp lệnh được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 1996, gồm: Pháp lệnh về dân quân tự vệ (9-1-1996); Pháp lệnh về giám sát và hướng dẫn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân (15-2-1996); Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (11-4-1996); Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (21-5-1996); Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở mỗi cấp (25-6-1996); Pháp lệnh an toàn và kiểm soát bức xạ (25-6-1996); Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên (1996); Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất và cho thuê đất (1996); Pháp lệnh tình báo (1996).

            Các pháp lệnh được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 1997, gồm: Pháp lệnh sửa đổi một số điều của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (1997); Pháp lệnh bộ đội biên phòng (1997).

            Như vậy, trong gần 5 năm của nhiệm kỳ khóa IX, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua được 43 pháp lệnh, 20 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật. Các văn bản do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành đều đúng với nội dung, thẩm quyền do Quốc hội giao. Tuy số lượng pháp lệnh được ban hành hằng năm cũng như toàn khóa không đạt so với nghị quyết của Quốc hội đề ra, nhưng về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội đất nước, từ tổ chức bộ máy nhà nước, hành chính, tư pháp, kinh tế, đất đai, lao động đến an ninh, quốc phòng và chính sách xã hội. Đối với một số pháp lệnh, nghị quyết có nội dung phức tạp, liên quan đến việc triển khai thi hành Luật đất đai, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Bộ luật lao động, Bộ luật dân sự..., Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều tổ chức xin ý kiến đại biểu Quốc hội trước khi ban hành.

            Trong công tác lập pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội còn có một nhiệm vụ khá nặng nề là xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội. Điều dễ nhận thấy là trong nhiệm kỳ khóa IX, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa trình được chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cho toàn khóa, thay vào đó là các kế hoạch hằng năm gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, được xác định trọng tâm, trọng điểm theo từng thời kỳ hoặc kế hoạch điều chỉnh chương trình tại các kỳ họp giữa năm để bảo đảm phù hợp với tình hình thực tế. Khi Quốc hội đã ra nghị quyết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã sớm phân công cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra các dự án, xác định tiến độ xây dựng từng văn bản, xem xét việc chuẩn bị các dự án và đề ra các biện pháp cụ thể nhằm bảo đảm tiến độ thực hiện chương trình; tích cực phối hợp với Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan, tổ chức hữu quan; đồng thời chỉ đạo các ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội trong suốt quá trình xây dựng và hoàn chỉnh văn bản.

            Việc chuẩn bị các dự án luật trình Quốc hội được Ủy ban Thường vụ Quốc hội quan tâm chỉ đạo và dành nhiều thời gian tại các phiên họp để xem xét. Nhiều nội dung quan trọng trong các dự án luật, pháp lệnh, đặc biệt là những vấn đề thuộc về chủ trương, quan điểm, tổng kết kinh nghiệm, những vấn đề phức tạp còn nhiều ý kiến khác nhau... đã được các cơ quan soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu chỉnh lý trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước và thực tế cuộc sống.

            Mặc dù còn có một số nhược điểm, thiếu sót là chưa thực hiện đầy đủ chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được Quốc hội thông qua; việc chuẩn bị các dự án còn bị động, nhiều lĩnh vực cấp bách đòi hỏi phải ban hành luật hoặc pháp lệnh lại chưa được chuẩn bị chu đáo..., nhưng nhiệm vụ xây dựng và triển khai thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã được tiến hành đúng quy định, có trọng tâm, trọng điểm trên cơ sở xem xét lại các văn bản pháp luật đã ban hành trước đó để định kế hoạch xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung, góp phần làm cho hệ thống pháp luật phù hợp với Hiến pháp 1992, đây là điều đáng kể nhất.

3. Tăng cường hoạt động giám sát trên các lĩnh vực, bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững

            Quyền giám sát tối cao của Quốc hội là bộ phận cấu thành quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, Quốc hội không thể thực hiện toàn bộ quyền giám sát tối cao đó đối với tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang và công dân, mà Quốc hội phân định thẩm quyền giám sát cho các cơ quan nhà nước khác nhau theo tinh thần quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng. Quốc hội chỉ thực hiện quyền giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động của Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

            Trong 5 năm hoạt động với 11 kỳ họp, Quốc hội đã nghe, thảo luận, cho ý kiến một khối lượng lớn báo cáo của các cơ quan nhà nước, trong đó có 13 báo cáo chung của Chính phủ; 27 báo cáo về kinh tế - ngân sách của Chính phủ và các bộ, ngành; 6 báo cáo về dân tộc và miền núi; 31 báo cáo về tư pháp; 16 báo cáo về quốc phòng - an ninh; 10 báo cáo về văn hóa, giáo dục; 9 báo cáo về xã hội; 7 báo cáo về khoa học, công nghệ, môi trường; 12 báo cáo về đối ngoại. Ngoài ra, Quốc hội cũng cho ý kiến đối với nhiều loại báo cáo khác như: báo cáo về tình hình triển khai công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 1994-1999; báo cáo về cải cách hành chính; các báo cáo tổng hợp ý kiến của cử tri cả nước... Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghe và nghiên cứu 79 báo cáo của Chính phủ; báo cáo của các bộ, ngành gồm nhiều vấn đề liên quan đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và tổ chức 49 đoàn đi giám sát tại các địa phương, cơ sở...[4].

            Khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác giám sát của Quốc hội khóa VIII, ngay từ kỳ họp đầu tiên (10-1992), Quốc hội khóa IX đã yêu cầu Chính phủ và các cơ quan hữu quan chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội về kết quả và phương hướng hoạt động. Kể từ đó, các báo cáo trước Quốc hội đã được chuẩn bị công phu và thể hiện sự nghiêm túc hơn. Toàn bộ công tác giám sát trong nhiệm kỳ 5 năm của Quốc hội khóa IX tập trung vào những vấn đề lớn sau:

            Về lĩnh vực kinh tế và ngân sách nhà nước, Quốc hội tập trung giám sát việc triển khai thực hiện nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ và về ngân sách nhà nước, trong đó có những vấn đề nóng bỏng, cấp bách nổi lên như thu chi ngân sách, các biện pháp tăng thu, giảm chi, giảm bội chi ngân sách, kiềm chế lạm phát, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, dồn vốn cho đầu tư phát triển, hoạt động của ngân hàng, hoạt động xuất, nhập khẩu, tình trạng nhập siêu quá lớn. Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội đã hướng vào việc tháo gỡ khó khăn, tạo động lực và điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động, nhằm phát huy vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, phát triển các thành phần kinh tế.

            Về lĩnh vực thi hành pháp luật, Quốc hội đã quan tâm giám sát việc thực thi các giải pháp đấu tranh chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội; xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các ngành, các cấp, từ Trung ương đến cơ sở, của các vị đại biểu Quốc hội và của mọi công dân trong cuộc đấu tranh này; yêu cầu các cơ quan chức năng xử lý nghiêm và kịp thời mọi hành vi vi phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng trong toàn xã hội tích cực tham gia cuộc đấu tranh này. Quốc hội cũng đã chú ý đến việc lập lại trật tự, kỷ cương, trước hết là trong lĩnh vực hoạt động tài chính, ngân hàng, đất đai, thuế xuất, nhập khẩu và cả trong hoạt động của nhiều cơ quan thi hành pháp luật.

            Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội đã nhiều lần kết hợp nghe báo cáo và cử đoàn đến tận địa phương, cơ sở để giám sát tình hình thi hành pháp luật về đất đai, tình hình chống tham nhũng, chống buôn lậu. Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Thường trực Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có nhiều cuộc họp liên tịch để bàn việc phối hợp thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về vấn đề này.

            Trước những vấn đề bức xúc của xã hội, như người lao động còn thiếu việc làm, đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, chất lượng giáo dục, đào tạo, y tế ở nhiều nơi còn thấp, trật tự xã hội còn nhiều phức tạp, môi trường sinh thái chưa tốt... Quốc hội đã dành nhiều thời gian để giám sát và góp sức cùng với Chính phủ, các ngành, các cấp tìm các giải pháp để khắc phục.

            Về lĩnh vực quốc phòng - an ninh, Quốc hội đã tập trung giám sát việc nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của lực lượng quân đội nhân dân và công an nhân dân; công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, việc cải thiện đời sống và điều kiện hoạt động của lực lượng vũ trang. Bằng những việc làm cụ thể trong các chương trình giám sát, Quốc hội đã góp phần tích cực vào việc phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp thế trận an ninh nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh để bảo vệ đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

            Các hình thức giám sát đã được cải tiến và mang lại hiệu quả thiết thực. Phát huy kết quả của các khóa trước, Quốc hội khóa IX đã tiến hành hoạt động giám sát trên cả chiều rộng và chiều sâu. Những vấn đề đặt ra đều được quan tâm xem xét bằng việc nghe báo cáo, cử đoàn đi kiểm tra, chất vấn các cơ quan hữu quan, thảo luận nghiêm túc để có được những kết luận, quyết định đúng đắn có hiệu quả, hiệu lực. Ở mỗi kỳ họp Quốc hội, ngoài báo cáo chung của Chính phủ về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, ngày càng có nhiều báo cáo bổ sung, báo cáo chuyên đề của các bộ, ngành để giải trình rõ những vấn đề cấp bách, nổi cộm mà đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước quan tâm.

            Chất vấn và trả lời chất vấn được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc trong các kỳ họp, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của đại biểu Quốc hội, của Chính phủ và các cơ quan hữu quan trước nhân dân. Thông qua hình thức hoạt động quan trọng này của Quốc hội, nhiều vấn đề đã được sáng tỏ, làm căn cứ để đại biểu Quốc hội báo cáo với cử tri. Hình thức đối thoại, tranh luận trực tiếp, tạo không khí cởi mở giữa người hỏi và người trả lời tại các phiên họp chất vấn và trả lời chất vấn đã thể hiện sâu sắc tính dân chủ, công khai trong hoạt động của Quốc hội, mang lại kết quả thiết thực, được nhân dân quan tâm theo dõi và hoan nghênh.

            Cùng với hoạt động giám sát chung của Quốc hội, trong nhiệm kỳ 5 năm, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành 79 cuộc giám sát. Nội dung giám sát tập trung vào việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội liên quan đến các vấn đề chủ yếu sau:

            Giám sát một số vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại và tình hình thi hành pháp luật: nhìn chung, hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã bao quát tương đối đầy đủ các lĩnh vực, những vấn đề cấp bách mà nghị quyết của Quốc hội đề ra và cử tri cả nước quan tâm. Ngoài việc nghe Chính phủ và các bộ, ngành báo cáo, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cử các đoàn công tác và giao cho Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội thành lập các đoàn giám sát đến các địa phương, cơ sở để nắm tình hình cụ thể. Thông qua đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã kịp thời kiến nghị về các giải pháp để giúp các địa phương khắc phục khó khăn. Ủy ban Thường vụ Quốc hội rất chú ý giám sát các vấn đề như: phân bổ thu - chi ngân sách nhà nước, các biện pháp chỉ đạo thu - chi theo nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước hằng năm; việc giảm lãi suất cho vay của ngân hàng; tình hình tiền lương, giải quyết chính sách với người có công; tình hình xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước; vấn đề phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh, gắn với ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ và bảo vệ môi trường; quy hoạch Thủ đô...

            Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng quan tâm phối hợp với Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu thông qua việc ban hành Quy chế về việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện vấn đề này. Trên thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp chỉ đạo xử lý kịp thời nhiều vụ việc cấp thiết.

            Đối với lĩnh vực thi hành pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tập trung giám sát việc thi hành pháp luật về đất đai từ việc giao đất, cho thuê đất, vấn đề sử dụng quỹ đất tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010; kế hoạch chuyển đất nông - lâm nghiệp có rừng vào mục đích khác, tình hình sử dụng đất ở các vùng đồng bào thiểu số... Từ hoạt động giám sát này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nhiều lần cho ý kiến để hoàn chỉnh dự án và thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về quyền, nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, góp phần giải toả khó khăn cho một số doanh nghiệp, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

            Theo sự phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội đã triển khai giám sát một số vấn đề quan trọng như: tình hình thi hành pháp luật về lao động, về bảo vệ môi trường; việc phòng, chống các tệ nạn xã hội, vấn đề xóa đói, giảm nghèo; vấn đề dân số và việc làm, bảo hiểm xã hội; vấn đề hệ thống giáo dục, sắp xếp mạng lưới các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề; vấn đề học phí, viện phí, bảo hiểm y tế; việc lập lại trật tự kỷ cương trong lĩnh vực báo chí, xuất bản và các hoạt động văn hóa khác; vấn đề thanh, thiếu niên; vấn đề kinh tế kết hợp với quốc phòng và an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, đấu tranh chống các loại tội phạm, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội... Kết quả hoạt động giám sát đã được Hội đồng Dân tộc, các ủy ban báo cáo, kiến nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đồng thời đề xuất kiến nghị những vấn đề cần yêu cầu các cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu và có biện pháp giải quyết cụ thể.

            Công tác giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, cũng được Ủy ban Thường vụ Quốc hội quan tâm. Để tạo cơ sở pháp lý về hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tập trung chỉ đạo xây dựng để trình Quốc hội thông qua Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi), Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sửa đổi). Việc quan trọng nhất là trong nhiệm kỳ khóa IX, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tổ chức được hai lần hội nghị toàn quốc về Hội đồng nhân dân (năm 1993 và năm 1997) để tổng kết hoạt động và đề ra phương hướng công tác cho cơ quan này[5]. Đặc biệt, ngày 15-2-1996 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về giám sát và hướng dẫn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân, giúp cho việc thực hiện nhiệm vụ này của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được thường xuyên hơn.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa IX họp bàn về việc tổ chức giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân

Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa IX họp bàn về việc tổ chức giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân

            Việc giám sát giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân đã có cố gắng bằng việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phân công một ủy viên theo dõi công tác này. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nhiều lần xem xét, cho ý kiến về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đã cử nhiều đoàn công tác giám sát việc xử lý một số vụ việc quan trọng tại địa phương. Tại nhiều kỳ họp Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chuẩn bị, phối hợp với Chính phủ và các cơ quan hữu quan để báo cáo Quốc hội về công tác dân nguyện.

            Tuy đã có cố gắng, nhưng kết quả của việc giám sát giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân đạt được chưa cao, tình trạng đơn thư chạy lòng vòng ở các cơ quan nhà nước vẫn chưa được khắc phục, làm giảm lòng tin của công dân đối với cơ quan đại diện của mình. Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa cử được nhiều đoàn trực tiếp đi xem xét, giám sát tình hình thực tế, chưa hướng dẫn đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong việc tiếp dân, góp phần giải quyết đơn thư tố cáo của công dân. Chất lượng và hiệu quả giám sát được nâng lên một bước, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của thực tế cuộc sống, chưa đúng với thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo luật định. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc ngày càng có nhiều đơn thư vượt cấp, nhiều đoàn đi khiếu kiện tập thể lên các cơ quan nhà nước cấp cao và đến cá nhân các đồng chí lãnh đạo cao nhất, vừa thể hiện sự không lành mạnh, không bình thường ở một xã hội dân chủ, có kỷ cương, vừa thể hiện sự hạn chế trong hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

            Quán triệt chức năng giám sát của Quốc hội là thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước; đồng thời, giám sát cũng là biện pháp quan trọng bảo đảm tăng cường quyền lực Nhà nước của Quốc hội. Xuất phát từ nhận thức đó, trong nhiệm kỳ khóa IX, hoạt động giám sát của Hội đồng Dân tộc tập trung vào ba lĩnh vực chủ yếu sau:

            Giám sát việc thực hiện luật và pháp lệnh có liên quan đến dân tộc và miền núi, Hội đồng Dân tộc đã chọn điểm và tổ chức giám sát chuyên đề về Luật đất đai ở vùng đồng bào dân tộc và miền núi, một điểm ở đồng bằng vùng dân tộc Khmer Nam Bộ, một điểm là vùng đồng bào dân tộc miền núi tỉnh Đắk Lắk. Theo đánh giá của Hội đồng Dân tộc, nhìn chung các luật, pháp lệnh đã ban hành mới bắt đầu đi vào cuộc sống của đồng bào dân tộc và miền núi; đồng thời kiến nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần tăng cường giám sát và đề cao vai trò, trách nhiệm quản lý, thực hiện của cơ quan hành pháp để dần từng bước đưa việc thực hiện luật, pháp lệnh thực sự có hiệu lực và đi vào cuộc sống của đồng bào.

            Giám sát việc thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số và thực hiện ngân sách trong lĩnh vực này theo tinh thần các nghị quyết của Quốc hội. Đây là nội dung được Hội đồng Dân tộc rất quan tâm. Do đó, trong nhiệm kỳ khóa IX, Hội đồng Dân tộc đã tổ chức 9 đợt giám sát: tháng 3-1993 giám sát tại 3 tỉnh vùng Tây Bắc (Sơn La, Lai Châu, Yên Bái), tập trung chủ yếu vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội, theo Nghị quyết số 22 của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội miền núi”, chương trình 327 về phủ xanh đất trồng đồi trọc...; giám sát tại 3 tỉnh Trà Vinh, Kiên Giang, An Giang, nội dung chủ yếu của đợt này là chương trình chính sách đối với đồng bào dân tộc Khmer. Tháng 11-1993, giám sát tại 5 tỉnh Tây Nguyên và miền Trung (Gia Lai, Kon Tum, Bình Định, Quảng Ngãi, Thừa Thiên Huế). Tháng 5-1994, giám sát tại 3 tỉnh phía Bắc miền Trung (Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh). Tháng 7-1994, giám sát tại 3 tỉnh Tây Nguyên... Qua các đợt giám sát của Hội đồng Dân tộc về thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi đã góp phần quan trọng vào việc động viên đồng bào dân tộc thiểu số tích cực thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về vần đề này.

            Giám sát tình hình, kết quả thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với dân tộc và miền núi. Hội đồng Dân tộc đã tổ chức 6 đợt giám sát tập trung về thực trạng tăng, giảm dân số của dân tộc Ơđu tại Nghệ An
(9-1993); giám sát tình hình di dịch cư của đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh phía Nam (8-1994); giám sát tình hình phá bỏ cây thuốc phiện tại 2 tỉnh Hòa Bình và Sơn La; giám sát tình hình thực hiện Chỉ thị số 68 của trung ương về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer (đầu năm 1995); giám sát thực hiện Quyết định số 1960 về cho không 4 mặt hàng và trợ giá 7 mặt hàng cho miền núi tại Khánh Hòa (8-1995); giám sát tình hình thực hiện chủ trương xóa đói, giảm nghèo ở một số dân tộc đời sống có nhiều khó khăn... Năm 1996, Hội đồng Dân tộc đã tập trung tổ chức hai đợt giám sát chuyên sâu với thời gian kéo dài 6 tháng trong phạm vi cả nước về thực hiện chính sách cử tuyển vào các trường đại học, cao đẳng và thực hiện chính sách đối với hệ thống trường nội trú. Qua hai đợt giám này, Hội đồng Dân tộc đã đánh giá được những thành tựu về thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về việc đào tạo cán bộ; đồng thời cũng phát hiện ra một số khuyết điểm trong việc thực hiện chủ trương, chính sách trong lĩnh vực cử tuyển và đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số, từ đó kiến nghị được các cơ quan chủ quản, các địa phương tiếp thu và có biện pháp khắc phục kịp thời.

            Trong nhiệm kỳ, ngoài 17 đợt giám sát tập trung của Hội đồng Dân tộc, Thường trực Hội đồng Dân tộc đã tổ chức 7 đợt giám sát và nhiều đợt đi công tác của Chủ tịch, Phó Chủ tịch ở các địa phương. Ngoài ra, các thành viên Hội đồng Dân tộc còn trực tiếp tham gia vào các đoàn giám sát của Ủy ban Kinh tế và Ngân sách, Ủy ban về Các vấn đề xã hội, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng và các đoàn giám sát do Quốc hội tổ chức. Sau mỗi đợt giám sát và sau mỗi năm hoạt động, Hội đồng Dân tộc đều tổ chức tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm và từng bước thực hiện đổi mới về tổ chức giám sát. Do nhận thức đúng tầm quan trọng của hoạt động giám sát, trong nhiệm kỳ khóa IX, Hội đồng Dân tộc đã tiến hành giám sát hầu hết 53 dân tộc thiểu số, kể cả các vùng xa xôi hẻo lánh như biên giới Việt - Trung, Việt - Lào, Việt - Campuchia. Các địa phương như Mường Tè (Lai Châu), Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ (Hà Giang)... Các chương trình giám sát bảo đảm đúng trọng tâm, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ giám sát. Kết quả giám sát đã phát hiện được nhiều vấn đề quan trọng được nhân dân quan tâm đồng tình, tăng thêm lòng tin của nhân dân các dân tộc vào việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.

            Đối với Ủy ban Pháp luật, mặc dù công tác xây dựng pháp luật chiếm phần lớn thời gian, song Ủy ban Pháp luật đã cố gắng thực hiện công tác giám sát thông qua hình thức tổ chức các cuộc họp để xem xét, cho ý kiến đối với 30 báo cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan về tình hình thi hành pháp luật, về hoạt động của các ngành, về tình hình đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu và một số lĩnh vực khác thuộc trách nhiệm giám sát của Ủy ban; tổ chức 13 đoàn đi giám sát trực tiếp tại một số cơ quan, đơn vị trọng điểm ở Trung ương và địa phương; tham gia 12 đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Kết quả hoạt động giám sát của Ủy ban Pháp luật được thể hiện trên một số mặt công tác sau:

- Giám sát việc triển khai thi hành Luật đất đai, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi)... tại một số địa phương: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Lạng Sơn, Bà Rịa - Vũng Tàu, Sóc Trăng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Minh Hải, Cần Thơ, An Giang, Hải Hưng, Sông Bé, Đồng Tháp;

- Giám sát việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội, trọng tâm là Nghị quyết về công tác đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu tại một số cơ quan ở các địa phương: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Minh Hải, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Hải Hưng, Tây Ninh, Sóc Trăng.

- Giám sát hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp; hoạt động của cơ quan công an trong việc bắt, giam, giữ, thi hành án phạt tù;
giám sát việc giải quyết một số vụ án dân sự phức tạp tại một số địa phương như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Nam Hà, Đồng Nai, Long An, Hà Bắc, Hải Phòng, Đồng Tháp, Sông Bé, Bến Tre, Ninh Bình, Tây Ninh, Lạng Sơn...

- Giám sát việc ban hành các văn bản pháp quy của một số cơ quan nhà nước ở Trung ương như: việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai, Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình khí tượng thủy văn, Pháp lệnh về giám sát, hướng dẫn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân.

            Thông qua hoạt động giám sát, Ủy ban Pháp luật có thêm những căn cứ thực tiễn trong việc xem xét, thẩm tra các dự án luật, nhất là thẩm tra các báo cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đồng thời tham mưu cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội những vấn đề cần tập trung trong việc giám sát, chỉ đạo thi hành pháp luật về các lĩnh vực đất đai, về chống tham nhũng, buôn lậu; về điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; đề xuất và kiến nghị những biện pháp để tổ chức triển khai thi hành pháp luật trong lĩnh vực này.

            Công tác giám sát của Ủy ban Kinh tế và Ngân sách tập trung chủ yếu vào việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế, hoạt động kinh doanh, ngân sách, tài chính và tiền tệ; giám sát hoạt động của Chính phủ, của các bộ, ngành, địa phương trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện kế hoạch về phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước. Để thực hiện nhiệm vụ giám sát, Ủy ban đã triển khai theo các hình thức thích hợp như giám sát bằng văn bản, tổ chức các đợt giám sát thực tế ở địa phương và đi khảo sát làm việc trực tiếp với các bộ, ngành ở Trung ương và tiếp xúc với cử tri. Bên cạnh đó, Ủy ban cũng đã tổ chức nhiều hội nghị, các cuộc họp với các bộ, ngành liên quan để nghe và nắm thông tin từ nhiều phía. Trên cơ sở những thông tin thu thập được từ những đợt giám sát, từ các hội nghị, Ủy ban đã xây dựng các báo cáo và đề xuất kiến nghị của Ủy ban với Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tình hình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước; đồng thời, tổng hợp được thông tin tư liệu cần thiết qua kết quả giám sát để chuẩn bị các báo cáo thuyết trình hoặc báo cáo thẩm tra của Ủy ban tại các kỳ họp Quốc hội về lĩnh vực kinh tế và ngân sách, góp phần giúp Quốc hội thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.

            Trong nhiệm kỳ khóa IX, Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội đã tổ chức được 32 đoàn công tác về làm việc tại 53 tỉnh và thành phố trong cả nước. Ủy ban tập trung đi sâu vào việc quy hoạch phát triển ngành gắn với quy hoạch vùng, lãnh thổ và địa phương; về cơ cấu cây trồng, vật nuôi; công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư... áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; tình hình giao đất, khoán rừng, công tác định canh, định cư, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa; về phát triển công nghiệp gắn với phát triển nông nghiệp, vùng nguyên liệu, tài nguyên khoáng sản của đất nước; về tình hình xuất, nhập khẩu và hợp tác đầu tư nước ngoài; tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm... Đặc biệt, đối với các bộ, ngành tổng hợp, Ủy ban tập trung giám sát về những cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân như: cung cầu hàng hóa, tiền - hàng - giá cả, tài chính - tiền tệ, vốn đầu tư phát triển, thu - chi ngân sách... các biện pháp bảo đảm kiềm chế lạm phát, đáp ứng nhu cầu vật tư, nguyên liệu và vốn cho sản xuất, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.

            Đánh giá toàn bộ quá trình thực hiện công tác giám sát cho thấy: với khối lượng công việc lớn và phức tạp, trong khi số thành viên Ủy ban hoạt động theo chế độ chuyên trách quá ít, đa số làm việc theo chế độ kiêm nhiệm; nhưng Ủy ban đã cố gắng đáp ứng được cơ bản yêu cầu đề ra, từng bước nâng cao được chất lượng và hiệu quả của công tác giám sát.

            Trong nhiệm kỳ khóa IX, Ủy ban Quốc phòng và An ninh đã cử 45 đoàn công tác đến làm việc với hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước để thực hiện chức năng giám sát theo quy định của pháp luật đối với lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ giám sát chung, Ủy ban đã tập trung khảo sát, giám sát một số lĩnh vực, khu vực trọng điểm như: biển, đảo, biên giới... Cụ thể, Ủy ban đã thành lập các đoàn đi khảo sát toàn bộ các tuyến biển, đảo của Tổ quốc (Trường Sa, Đông Bắc, miền Trung, Tây Nam), làm việc với các tỉnh ven biển, với Tổng Công ty Dầu khí Việt - Xô Petro. Qua khảo sát, Ủy ban đã cung cấp nhiều thông tin cho Quốc hội và Chính phủ thấy rõ tiềm năng to lớn của biển, đảo đối với sự nghiệp kinh tế của đất nước; đặc biệt là cơ sở để Ủy ban tham gia vào nội dung Nghị quyết Quốc hội về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và tiến hành việc thẩm tra dự án Pháp lệnh về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam; Pháp lệnh lực lượng cảnh sát biển và một số văn bản khác của Chính phủ.

            Ủy ban cũng đã thành lập các đoàn khảo sát về tuyến biên giới trên đất liền, tập trung chủ yếu vào những vị trí thường xuyên bị tranh chấp và những khu vực quan trọng của biên giới. Ủy ban đã trực tiếp kiến nghị với địa phương, cơ sở nơi đoàn đến khảo sát những vấn đề về kinh tế - xã hội kết hợp với quốc phòng - an ninh và các giải pháp để giữ gìn, bảo vệ biên giới theo phương châm hòa bình, hữu nghị và hợp tác..., đồng thời, đã có báo cáo và kiến nghị với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Trung ương và Chính phủ về tình hình biên giới cũng như những chủ trương và giải pháp nhằm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nhiều kiến nghị của Ủy ban đã được Chính phủ quan tâm đầu tư ngân sách xây dựng những công trình vừa mang ý nghĩa kinh tế, vừa kết hợp với việc phòng thủ trên các tuyến biển đảo và biên giới của Tổ quốc.

            Việc giám sát tình hình thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng trong các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước được Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội triển khai thực hiện nghiêm túc. Hằng năm, theo chương trình, kế hoạch, Ủy ban đã cử các đoàn đi giám sát tại các địa phương, cơ sở; làm việc với các bộ, ngành, đoàn thể để nắm bắt tình hình triển khai và thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm; về tình hình thi hành pháp luật thuộc lĩnh vực Ủy ban theo dõi; khảo sát tình hình thực tế và việc thực hiện các chính sách về văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Bên cạnh đó, Ủy ban còn cử các đoàn đi khảo sát những vấn đề mà Ủy ban quan tâm, nghe các cơ quan chức năng báo cáo những vấn đề cụ thể.

            Trong nhiệm kỳ khóa IX, Ủy ban đã cử các đoàn đi giám sát và khảo sát tại 38 tỉnh, thành phố trong cả nước. Từ thực tế và rút kinh nghiệm việc tổ chức đoàn đi giám sát ở những khóa trước, Ủy ban chỉ thành lập đoàn từ 3 đến 5 đại biểu. Trong quá trình thực hiện chức năng giám sát, các đoàn chỉ dành thời gian vừa phải để nghe báo cáo tình hình, chủ yếu tập trung đi cơ sở, làm việc với cơ sở, tiếp xúc trực tiếp với cử tri, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng và kiến nghị của cử tri, của các đơn vị. Với cách làm này, Ủy ban đã thu thập được nhiều tư liệu, số liệu cụ thể, nắm tình hình khá sâu sát và chắc chắn, được các địa phương, nhất là các cử tri hoan nghênh và bày tỏ sự đồng tình, ủng hộ.

            Trong chương trình giám sát, Ủy ban đã tập trung vào một số vấn đề trọng yếu, nhằm góp phần đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển và tháo gỡ vướng mắc, khắc phục những tồn tại, khó khăn, đó là: chính sách về nguồn lực và việc quản lý nhà nước có liên quan tới việc huy động và sử dụng nguồn lực trong lĩnh vực văn hóa, xã hội; những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo; vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa; vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa trong công cuộc đổi mới, trong thời kỳ mở cửa và hội nhập; vấn đề bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; vấn đề giáo dục tư tưởng chính trị cho thanh niên, công tác vận động, tập hợp thanh niên và chính sách của Nhà nước đối với thanh thiếu niên và nhi đồng.

            Để phục vụ cho công tác giám sát có chất lượng, hiệu quả và rút kinh nghiệm từ thực tế hoạt động giám sát, từ năm 1994, hằng năm Ủy ban đã xem xét và quyết định một số chuyên đề khảo sát có tính nghiên cứu, tranh thủ thu hút trí tuệ của các nhà chuyên môn, nhà khoa học, nhà quản lý giỏi có nhiều kinh nghiệm bằng các hình thức lấy ý kiến, tổ chức tọa đàm, hội thảo, nhằm cung cấp tư liệu một cách hệ thống phục vụ cho công tác giám sát của Ủy ban.

            Công tác giám sát của Ủy ban về Các vấn đề xã hội được tiến hành trên 50 cuộc ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với các nội dung chủ yếu như: giám sát việc thực hiện các chính sách ưu đãi xã hội (trước khi có Pháp lệnh về người có công và Pháp lệnh về bà mẹ Việt Nam anh hùng); tình hình triển khai thực hiện các Pháp lệnh về người có công và Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
tình hình triển khai thi hành Bộ luật lao động; một số vấn đề về công tác tôn giáo; tình hình phòng, chống các tệ nạn xã hội; việc thực hiện chiến lược dân số đến năm 2000; các nghị quyết của Quốc hội (phần các vấn đề xã hội)... Trong 5 năm, Ủy ban và Thường trực Ủy ban đã có 11 cuộc làm việc với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; 6 cuộc làm việc với Bộ Tài chính; 6 cuộc làm việc với Bộ Y tế; 4 cuộc làm việc với Ủy ban Quốc gia Dân số - Kế hoạch hóa gia đình; 1 cuộc làm việc với Ủy ban Dân tộc và Miền núi; 1 cuộc làm việc với Ban Tôn giáo và dự nhiều hội nghị với các ngành đó. Kết hợp giữa các hình thức giám sát nói trên, Ủy ban đã kiến nghị hơn 20 vấn đề lớn và đã được các bộ, ngành Trung ương tiếp nhận, xử lý, như: sau các cuộc giám sát về việc triển khai thực hiện các dự án nhỏ bằng Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, Ủy ban đã kiến nghị và liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư đã có 4 thông tư (số 12 ngày 1-4-1994; số 03 ngày 10-2-1995; số 30 ngày 11-11-1995 và số 03 ngày 3-2-1996) với các nội dung phân cấp xét duyệt dự án cho chủ tịch tỉnh, mở rộng và điều chỉnh đối tượng cho vay, sửa đổi lãi suất cho vay, điều chỉnh thời hạn vay và kinh phí điều hành dự án. Những tiếp thu, sửa đổi đó đã có tác dụng làm cho việc xét duyệt, triển khai các dự án nhanh hơn, đúng đối tượng hơn...

            Nhìn chung, các cuộc giám sát của Ủy ban được đánh giá là thiết thực và bổ ích, góp phần tháo gỡ những vướng mắc, khuyết điểm trong việc thực thi pháp luật và thực hiện các chế độ, chính sách xã hội; từ đó đề xuất, kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung các quy định của chính sách luật pháp để phù hợp với thực tiễn cuộc sống.

            Trong nhiệm kỳ khóa IX, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã bám sát các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội để tiến hành giám sát các lĩnh vực thuộc nhiệm vụ của Ủy ban và tổ chức giám sát các bộ, ngành theo những nội dung cụ thể có liên quan, như: giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường; giám sát việc thực hiện ngân sách cho công tác khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường... Sau các đợt giám sát, Ủy ban đều có báo cáo gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đưa ra các kiến nghị đối với Chính phủ, các cấp, các ngành và theo dõi các kết quả thực hiện. Một số kiến nghị sau giám sát đã được các cơ quan của Chính phủ tiếp thu, như: kiến nghị của Ủy ban với Bộ Năng lượng về việc chuyển nhà máy sàng tuyển than mới ra khỏi thị xã Hòn Gai đã được chấp nhận; kiến nghị thành lập tiểu ban đánh giá phương án giải quyết về kỹ thuật cho đoạn đê Yên Phụ; đề nghị Chính phủ nghiên cứu việc xây dựng sân gôn Thủ Đức tránh ảnh hưởng đến môi trường... Nhìn chung, các hình thức giám sát của Ủy ban rất đa dạng, thích hợp với mục tiêu đề ra và đã đạt được một số kết quả nhất định, góp phần vào việc định hướng sự phát triển nền khoa học, công nghệ của đất nước.

            Thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định, trong nhiệm kỳ khóa IX, Ủy ban Đối ngoại đã tiến hành các cuộc giám sát việc thực hiện Pháp lệnh về “Xuất nhập cảnh, cư trú và đi lại của người nước ngoài ở Việt Nam” tại các địa phương (Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Nam - Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên - Huế, Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng); giám sát việc thực hiện Pháp lệnh về Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tại Đại sứ quán Việt Nam ở Canađa, Pháp, Ấn Độ, Philíppin, Thái Lan; giám sát hoạt động đối ngoại tại Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ chí Minh, Đồng Nai, Sông Bé... Qua các đợt giám sát, Ủy ban đã đưa ra một số nhận xét về việc thực thi luật, pháp lệnh liên quan đến hoạt động đối ngoại. Pháp lệnh về xuất nhập cảnh, cư trú và đi lại của người nước ngoài ở Việt Nam và các nghị định của Chính phủ đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc quản lý những tổ chức và cá nhân người nước ngoài ra, vào Việt Nam, làm việc và sinh sống tại Việt Nam. Các địa phương đã có nhiều cố gắng trong việc khắc phục khó khăn để thực hiện nghiêm chỉnh Pháp lệnh và các văn bản pháp luật liên quan. Điều đó có ý nghĩa quan trọng, góp phần thúc đẩy sự hợp tác và đầu tư của các tập đoàn, công ty nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong việc thực hiện chức năng giám sát của Ủy ban vẫn còn những hạn chế nhất định như: quy trình chưa thống nhất, còn những kẽ hở để một số tổ chức và cá nhân lợi dụng vào mục đích vụ lợi, gây ra những lộn xộn trong đời sống kinh tế - xã hội, ảnh hưởng nhiều đến công tác quản lý, nhất là tại các địa bàn có số đông người nước ngoài, Việt kiều hồi hương như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và một số tỉnh, thành phố phía Nam.

            Trong khi thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng của Đảng và Nhà nước, các địa phương đã chủ động thực hiện công tác đối ngoại có kết quả. Tuy nhiên, theo kiến nghị của Ủy ban, các cơ quan Trung ương theo ngành dọc và lãnh đạo các tỉnh, thành phố cần có kế hoạch bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm tốt cả công tác chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại ở địa phương. Lực lượng cán bộ làm công tác đối ngoại cần có phẩm chất chính trị tốt, giỏi về nghiệp vụ và ngoại ngữ để đáp ứng nhiệm vụ ngày càng nặng nề của công tác này. Việc thi hành Pháp lệnh về xuất nhập cảnh, cư trú và đi lại của người nước ngoài ở Việt Nam không được nghiêm do việc cấp visa vẫn tiếp tục gây ra nhiều tiêu cực, không được ngăn chặn, mặc dù Ủy ban đã có nhiều lần kiến nghị những biện pháp khắc phục.

            Có thể nói, trong nhiệm kỳ khóa IX, hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội đã có những đổi mới, góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực giám sát của Quốc hội thông qua tác động của các quyết định, kết luận và kiến nghị của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Nhưng, đây cũng chính là mặt hạn chế của công tác này. Mặc dù Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã cố gắng triển khai công tác giám sát trên các lĩnh vực, nhưng trên thực tế nhiều lĩnh vực nóng bỏng về kinh tế - xã hội, thi hành pháp luật vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn, nổi lên là nạn tham nhũng, buôn lậu ngày càng có chiều hướng gia tăng. Việc giám sát công tác điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án chưa làm được nhiều. Nhiều hành vi vi phạm pháp luật chưa được đấu tranh ngăn chặn và xử lý kịp thời, chưa đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân.

            Thực tế nêu trên, đòi hỏi hoạt động giám sát của Quốc hội phải tiếp tục đổi mới hơn nữa, phải xác định rõ hơn nội dung, đối tượng, phương thức và cơ chế giám sát; phải tăng cường giám sát tại kỳ họp Quốc hội, tăng cường hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội; đồng thời, xác định trách nhiệm của các cơ quan trong việc xử lý các kiến nghị, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong việc tham gia vào việc thực hiện chức năng quan trọng này. Có như vậy mới đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của cuộc sống và mong muốn của cử tri và nhân dân cả nước.

4. Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

            Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội khóa IX đã thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề trọng đại để xây dựng, phát triển đất nước. Đó là các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại..., điều chỉnh địa giới hành chính các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và thành lập các cơ quan cấp cao của Nhà nước.

            Xác định đây là vấn đề hệ trọng liên quan đến vận mệnh quốc gia, cho nên Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, có quy trình nghiêm ngặt, đặc biệt là về tổ chức và nhân sự cấp cao của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị thể hiện rõ mục tiêu lãnh đạo Quốc hội, nhằm phát huy đầy đủ trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đưa ra những định hướng lớn về các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, các định hướng phát triển kinh tế - xã hội hằng năm, giới thiệu nhân sự cấp cao của Nhà nước (Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ) để Quốc hội bầu theo luật định. Bộ Chính trị chỉ đạo những vấn đề có tính nguyên tắc, những vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương, chính sách lớn để Quốc hội thảo luận dân chủ, quyết định theo đa số đối với những vấn đề trọng đại của đất nước, những vấn đề liên quan đến quốc kế dân sinh.

            Trong nhiệm kỳ khóa IX, thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Quốc hội thường xuyên xem xét, quyết định về nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và ngân sách nhà nước. Trên tinh thần đó, Quốc hội đã ra nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế, về dự toán ngân sách nhà nước và phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước hằng năm[6]. Đáng chú ý là để cụ thể hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, ngày 12-11-1996, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch 5 năm 1996-2000. Đây là lần đầu tiên sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Quốc hội đã có nghị quyết về nhiệm vụ, kế hoạch dài hạn, thể hiện trách nhiệm của Quốc hội khóa IX trước định hướng phát triển của đất nước.

            Về nhiệm vụ tổng quát cho giai đoạn 1996-2000, Quốc hội xác định rõ trong nghị quyết: tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.

            Về nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu, Quốc hội tán thành với Chính phủ tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:

1. Tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hằng năm 9-10%, trong đó: giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân hằng năm 4,5-5%. Đến năm 2000, sản lượng lương thực khoảng 30-32 triệu tấn; giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm 14-15%; giá trị dịch vụ tăng bình quân hằng năm 12-13%. Đến năm 2000, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng đạt khoảng 34-35% trong GDP; nông, lâm, ngư nghiệp đạt khoảng 19-20%; dịch vụ đạt khoảng 45-46%; tỷ lệ đầu tư phát triển trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân khoảng 30% GDP; GDP bình quân theo đầu người gấp đôi năm 1990.

2. Tăng nhanh khả năng và tiềm lực tài chính của đất nước, lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia: huy động 20-21% GDP vào ngân sách nhà nước; bội chi ngân sách không quá 3,5% GDP; lạm phát dưới 10%.

3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại; giảm nhập siêu: kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hằng năm khoảng 27-28%; kim ngạch nhập khẩu tăng bình quân hằng năm khoảng 22-24%.

4. Giải quyết tốt một số vấn đề xã hội: thanh toán nạn mù chữ cho những người lao động trong độ tuổi 15-35 và thu hẹp diện mù chữ ở các độ tuổi khác; hoàn thành cơ bản phổ cập tiểu học trong cả nước; phổ cập trung học cơ sở ở các thành phố lớn và những nơi có điều kiện; phát triển quy mô giáo dục ở các ngành học, nhất là giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề. Chuyển mạnh về chất lượng giáo dục, đào tạo. Cải tiến và nâng cao chất lượng thi cử; phát triển và nâng cao năng lực, hiệu quả nghiên cứu, triển khai khoa học và công nghệ; phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, thông tin, y tế, thể dục thể thao, mở rộng tới các vùng sâu, vùng xa; giảm nhịp độ phát triển dân số vào năm 2000 xuống dưới 1,8%; giải quyết việc làm cho 6,5-7 triệu người. Cải cách tiền lương, giải quyết những bất hợp lý trong chính sách tiền lương và các chính sách xã hội khác; hoàn thành căn bản định canh, định cư và ổn định đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số; bảo vệ và cải thiện môi sinh; ngăn chặn và giảm ô nhiễm môi trường ở thành phố, khu công nghiệp; ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác, nhất là tệ buôn bán, nghiện hút ma tuý, tệ nạn mại dâm; loại trừ văn hóa độc hại.

5. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vững mạnh.

6. Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác quốc tế và chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa.

7. Tích cực chuẩn bị và tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000, tập trung vào 4 nội dung chủ yếu: phát triển nguồn nhân lực; nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia; phát triển kết cấu hạ tầng và xây dựng một số công trình công nghiệp then chốt; hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

            Để hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu phát triển nói trên, Quốc hội thông qua đề xuất của Chính phủ, triển khai thực hiện 11 chương trình và lĩnh vực phát triển, đó là: Chương trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; Chương trình phát triển công nghiệp; Chương trình phát triển kết cấu hạ tầng; Chương trình phát triển khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường sinh thái; Chương trình phát triển kinh tế dịch vụ; Chương trình phát triển kinh tế đối ngoại; Chương trình phát triển giáo dục và đào tạo; Chương trình giải quyết các vấn đề văn hóa - xã hội; Chương trình phát triển các vùng lãnh thổ; Chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc; Chương trình xoá đói, giảm nghèo.

            Đối với việc xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia, Quốc hội yêu cầu Chính phủ báo cáo để Quốc hội xem xét, quyết định. Đối với các công trình quan trọng khác, Quốc hội giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định và báo cáo Quốc hội.

            Quốc hội xác định việc tổ chức thực hiện Nghị quyết về kế hoạch 5 năm 1996-2000 là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân, của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Do đó, nhiệm vụ đặt ra cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội cần tổng kết rút kinh nghiệm qua 10 năm đổi mới, tập trung vào tổng kết nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX; tổ chức tốt cuộc Tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội khóa X; trên cơ sở đó tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội về mọi mặt, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Quốc hội ngày càng cao, trong đó tập trung đẩy mạnh và cải tiến các hoạt động giám sát, thực hiện mạnh mẽ và có hiệu quả chức năng giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

            Quốc hội giao trách nhiệm cho Chính phủ căn cứ vào Nghị quyết về kế hoạch 5 năm 1996-2000 để dự kiến nhiệm vụ hằng năm, trình Quốc hội xem xét, quyết định; đồng thời tổ chức chỉ đạo, điều hành việc thực hiện kế hoạch 5 năm 1996-2000 đạt kết quả cao.

            Quốc hội giao trách nhiệm cho Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải phát huy mạnh mẽ hiệu lực của công tác kiểm sát, xét xử đối với việc thực hiện các nhiệm vụ và biện pháp đã được Quốc hội thông qua.

            Quốc hội yêu cầu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tăng cường giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước; đồng thời động viên nhân dân phát huy vai trò làm chủ, nêu cao tinh thần yêu nước, tích cực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 1996-2000.

            Cùng với Nghị quyết về kế hoạch 5 năm 1996-2000, Quốc hội còn thông qua nghị quyết về nhiệm vụ của các năm 1993, 1994, 1995, 1996, 1997 và Nghị quyết về việc tiếp tục thực hiện nhiệm vụ năm 1995; các nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 1993, 1994, 1995, 1996, 1997; các nghị quyết phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1991, 1992, 1993, 1994, 1995, 1996.

            Đặc biệt trong nhiệm kỳ, thẩm quyền và trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội trong việc quyết định, phân bổ và giám sát việc thu chi ngân sách theo Luật ngân sách nhà nước được xác định rõ hơn. Từ kinh nghiệm giám sát việc điều hành ngân sách nhà nước qua 10 năm đổi mới, nhất là từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX, Quốc hội giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội căn cứ vào quyết định của Quốc hội về ngân sách nhà nước hằng năm để quyết định phương án phân bổ ngân sách Trung ương cho từng bộ, ngành và mức bổ sung từ ngân sách Trung ương cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Quốc hội cũng đã xem xét, quyết định việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010 theo quy định của Luật đất đai, góp phần quản lý, sử dụng đất đai đúng mục đích và có hiệu quả cho những năm sau.

            Ngoài ra, Quốc hội cũng thường xuyên xem xét, thảo luận, phân tích các báo cáo của Chính phủ, báo cáo thẩm tra, thuyết trình của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội. Quốc hội đã xác định những chỉ tiêu, những giải pháp đúng, có tính khả thi, phù hợp với tình hình đất nước. Những quyết định của Quốc hội đã tạo điều kiện để Chính phủ, các ngành, các cấp điều hành việc triển khai thực hiện nhiệm vụ với sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân; đã góp phần đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành nhiều mục tiêu chủ yếu, tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại.

            Điểm nổi bật trong việc thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, đó là: trên cơ sở quy định của Hiến pháp 1992, cùng với việc thông qua các luật về tổ chức Nhà nước, Quốc hội đã bầu Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; bầu Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước; bầu Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ tại kỳ họp đầu tiên (9-1992).

            Trong các kỳ họp tiếp theo của nhiệm kỳ, Quốc hội đã quyết định miễn nhiệm, bầu và phê chuẩn việc bổ nhiệm một số nhân sự cấp cao khác của Nhà nước. Những quyết định của Quốc hội đã góp phần vào việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cụ thể:

- Tại kỳ họp thứ hai, ngày 16-12-1992, căn cứ vào Điều 84 và Điều 114 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Điều 74 của Luật tổ chức Quốc hội, Điều 2 của Luật tổ chức Chính phủ, và Nghị quyết của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ nhất, ngày 30-9-1992 quy định các bộ và cơ quan ngang bộ, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm ông Nguyễn Quang Hà giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp.

- Tại kỳ họp thứ ba, ngày 7-7-1993, căn cứ vào biên bản kết quả bỏ phiếu, Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc bầu bổ sung ông Trần Văn Nhẫn giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội, ông Nguyễn Văn Tư giữ chức vụ Ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội.

- Tại kỳ họp thứ năm, ngày 23-6-1994, căn cứ Tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và biên bản kết quả bỏ phiếu ngày 18-6-1994, Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc ông Mai Thúc Lân được thôi giữ các chức vụ ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội để nhận công tác khác. 

- Tại kỳ họp thứ sáu, ngày 1-11-1994, căn cứ Tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và biên bản kết quả bỏ phiếu ngày 29-10-1994, Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc bầu bổ sung Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội và bầu bổ sung ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Theo đó, ông Lý Tài Luận được bầu giữ chức vụ Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội. Cũng tại kỳ họp này, căn cứ vào Tờ trình của Chủ tịch Quốc hội và biên bản kết quả bầu cử ngày 29-10-1994, Quốc hội thông qua Nghị quyết bầu ông Vũ Minh Mão giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội.

- Tại kỳ họp thứ tám, ngày 21-10-1995, căn cứ Nghị quyết của Quốc hội khóa IX ngày 21-10-1995 việc điều chỉnh tổ chức một số cơ quan của Chính phủ; căn cứ biên bản kết quả bỏ phiếu, Quốc hội thông qua Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm một số thành viên của Chính phủ, cụ thể:

 + Ông Nguyễn Công Tạn thôi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm để giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

+ Ông Nguyễn Cảnh Dinh thôi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Thuỷ lợi để giữ chức vụ Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban sông Mê Kông của Việt Nam, kiêm Trưởng Ban Chỉ đạo phòng, chống lụt bão Trung ương.

+ Ông Nguyễn Quang Hà thôi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp.

+ Ông Đặng Vũ Chư thôi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ để giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Công nghiệp.

+ Ông Trần Lum thôi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng.

+ Ông Thái Phụng Nê thôi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Năng lượng.

+ Ông Đỗ Quốc Sam thôi giữ chức vụ Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước để giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

 + Ông Đậu Ngọc Xuân thôi giữ chức vụ Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư để giữ chức vụ Bộ trưởng, Chủ tịch Hội đồng thẩm định Nhà nước về các dự án đầu tư.

+ Ông Nguyễn Kỳ Cẩm thôi giữ chức vụ Tổng Thanh tra Nhà nước để giữ chức vụ Bộ trưởng, Thường trực Ban Chỉ đạo công tác chống tham nhũng, chống buôn lậu.

+ Ông Tạ Hữu Thanh giữ chức vụ Tổng Thanh tra Nhà nước.

+ Ông Nguyễn Trọng Nhân thôi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Y tế.

+ Ông Đỗ Nguyên Phương giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Y tế.

- Tại kỳ họp thứ 10, ngày 24-10-1996, căn cứ Tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và đề nghị của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; căn cứ kết quả bỏ phiếu của Quốc hội, Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc bãi nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch Quốc hội và đại biểu Quốc hội của ông Nguyễn Hà Phan.

- Ngày 4-11-1996, căn cứ Tờ trình của Chủ tịch nước và biên bản kiểm phiếu ngày 4-11-1996, Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc miễn nhiệm chức Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao của ông Lê Thanh Đạo; miễn nhiệm chức vụ ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội của ông Hà Mạnh Trí và bầu ông Hà Mạnh Trí giữ chức Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

            Tiếp đó, căn cứ Tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc bầu ông Nguyễn Văn Yểu giữ chức ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội. Căn cứ Tờ trình của Chủ tịch Quốc hội, Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc bầu ông Vũ Đức Khiển giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội.

            Cũng tại kỳ họp thứ 10, ngày 6-11-1996, căn cứ Tờ trình của Thủ tướng Chính phủ và biên bản kết quả kiểm phiếu, Quốc hội thông qua Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc miễn nhiệm, bổ nhiệm một số thành viên của Chính phủ, cụ thể:

1. Phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng đối với các nhân sự sau:

- Ông Bùi Danh Lưu, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải.

- Ông Đỗ Quốc Sam, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

- Ông Đặng Hữu, Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.

- Ông Bùi Thiện Ngộ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

- Ông Hồ Tế, Bộ trưởng Bộ Tài chính.

- Ông Phan Ngọc Tường, Bộ trưởng, Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ.

- Ông Nguyễn Tấn Trịnh, Bộ trưởng Bộ Thủy sản.

- Ông Trần Hoàn, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin.

- Ông Lê Xuân Trinh, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.

- Ông Phan Văn Tiệm, Bộ trưởng, phụ trách một số công tác của Chính phủ.

- Ông Nguyễn Kỳ Cẩm, Bộ trưởng, Thường trực Ban Chỉ đạo công tác phòng chống tham nhũng, chống buôn lậu.

- Ông Đậu Ngọc Xuân, Bộ trưởng, Chủ tịch Hội đồng thẩm định Nhà nước về các dự án đầu tư.

2. Phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm giữ chức bộ trưởng đối với các nhân sự sau:

- Ông Trần Xuân Giá, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

- Ông Phạm Gia Khiêm, Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường.

- Ông Lê Minh Hương, Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

- Ông Nguyễn Sinh Hùng, Bộ trưởng Bộ Tài chính.

- Ông Đỗ Quang Trung, Bộ trưởng, Trưởng ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ.

- Ông Tạ Quang Ngọc, Bộ trưởng Bộ Thủy sản.

- Ông Nguyễn Khoa Điềm, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin.

- Ông Lại Văn Cử, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.

            Nhìn chung, những cán bộ cấp cao của Nhà nước được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn bổ nhiệm qua các kỳ họp đều có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, xứng đáng với sự tín nhiệm của Quốc hội và nhân dân.

            Cũng trong nhiệm kỳ khóa IX, Quốc hội đã quyết định điều chỉnh tổ chức một số cơ quan của Chính phủ. Ngày 21-10-1995, tại kỳ họp thứ tám, Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc thành lập các bộ sau đây:

- Thành lập Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn trên cơ sở hợp nhất ba bộ: Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Lâm Nghiệp và Thủy Lợi.

- Thành lập Bộ Công nghiệp trên cơ sở hợp nhất ba bộ: Công nghiệp nặng, Năng lượng, Công nghiệp nhẹ.

- Thành lập Bộ Kế hoạch và Đầu tư trên cơ sở hợp nhất Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư.

            Ngoài ra, thực hiện thẩm quyền của Quốc hội về việc quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương[7]; theo đề nghị của Chính phủ và trên cơ sở báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật, tại kỳ họp thứ tư, ngày 30-12-1993, Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa tại khu vực Đèo Cả - Vũng Rô, theo đó: địa giới hành chính giữa tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa tại khu vực Đèo Cả - Vũng Rô được điều chỉnh như sau:

- Tuyến ranh giới được cắt từ đỉnh cao nhất 580-600m xuống mỏm phía Nam núi Đá đen theo kinh độ 109 độ 23 phút 24 giây Đông, vĩ độ 12 độ 50 phút 28 giây Bắc tới chân mép nước cực phía Nam đảo Hòn Nưa (tính lúc nước thủy triều thấp nhất); phía Bắc thuộc huyện Tuy Hòa do tỉnh Phú Yên quản lý, phía Nam thuộc huyện Vạn Ninh do tỉnh Khánh Hòa quản lý.

- Chuyển thôn Vũng Rô hiện đang thuộc địa phận của xã Đại Lãnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa được sáp nhập vào địa phận của xã Hòa Xuân, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên[8].

            Để bảo đảm thực hiện tốt Nghị quyết của Quốc hội về việc điều chỉnh địa giới giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa tại khu vực Đèo Cả - Vũng Rô, Quốc hội giao cho Chính phủ chỉ đạo các cơ quan hữu quan, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên và Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa tiến hành việc cắm mốc, xác định ranh giới giữa hai tỉnh theo Nghị quyết của Quốc hội và lập bản đồ địa giới hành chính theo quy định của Chính phủ; đồng thời giao cho Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, nhân dân hai tỉnh, bảo đảm giữ gìn truyền thống đoàn kết, gắn bó vì lợi ích chung để chấp hành nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm sự ổn định, tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội của hai tỉnh đều phát triển tốt.

            Tiếp tục thực hiện phương án tổng thể, toàn diện về địa giới hành chính cấp tỉnh, bảo đảm tính ổn định lâu dài, đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương các cấp trong việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở địa phương. Tại kỳ họp thứ 10, ngày 6-11-1996, căn cứ đề nghị của Chính phủ, Quốc hội thông qua Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh:

1. Chia tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh là tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Thái Nguyên

a) Tỉnh Bắc Kạn có 6 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Bắc Kạn và 5 huyện Bạch Thông, Chợ Đồn, Na Rì, Ngân Sơn và Ba Bể (hai huyện Ngân Sơn, Ba Bể do tỉnh Cao Bằng quản lý, nay chuyển giao cho tỉnh Bắc Kạn quản lý); và 9 xã, 1 thị trấn: Yên Hân, Yên Cư, Như Cố, Bình Văn, Quản Chu, Yên Đĩnh, Thanh Bình, Nông Hạ, Nông Thịnh và thị trấn Chợ Mới thuộc huyện Phú Lương, nay thuộc tỉnh Thái Nguyên chuyển giao về huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn quản lý; có diện tích 4.795,54 km2, với số dân 268.047 người.

Tỉnh lỵ: Thị xã Bắc Kạn.

b) Tỉnh Thái Nguyên có 9 đơn vị hành chính gồm: Thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công và 7 huyện: Định Hoá, Đại Từ, Võ Nhai, Đồng Hỷ, Phú Lương, Phú Bình, Phổ Yên; có diện tích 3.541,10 km2, với số dân 1.019.299 người.

Tỉnh lỵ: Thành phố Thái Nguyên.

2. Chia tỉnh Hà Bắc thành hai tỉnh là tỉnh Bắc Giang và tỉnh Bắc Ninh

a) Tỉnh Bắc Giang có 10 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Bắc Giang và 9 huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế, Lạng Giang, Yên Dũng, Hiệp Hoà, Việt Yên, Tân Yên; có diện tích 3.816,7 km2 với số dân 1.441.044 người.

Tỉnh lỵ: Thị xã Bắc Giang.

b) Tỉnh Bắc Ninh có 6 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Bắc Ninh và 5 huyện: Quế Võ, Yên Phong, Tiên Sơn, Thuận Thành, Gia Lương; có diện tích 797,9 km2, với số dân 922.210 người.

Tỉnh lỵ: Thị xã Bắc Ninh.

3. Chia tỉnh Hải Hưng thành hai tỉnh là tỉnh Hải Dương và tỉnh Hưng Yên

a) Tỉnh Hải Dương có 9 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Hải Dương và 8 huyện: Chí Linh, Nam Thanh, Kim Môn, Cẩm Bình, Gia Lộc, Tứ Kỳ, Ninh Giang, Thanh Miện; có diện tích 1.661,22 km2, với số dân 1.685.486 người.

Tỉnh lỵ: Thị xã Hải Dương.

b) Tỉnh Hưng Yên có 6 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Hưng Yên và 5 huyện: Mỹ Văn, Châu Giang, Phù Tiên, Kim Động, Ân Thi; có diện tích 894,79 km2 với số dân 1.075.517 người.

Tỉnh lỵ: Thị xã Hưng Yên.

4. Chia tỉnh Minh Hải thành hai tỉnh là tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau

a) Tỉnh Bạc Liêu có 4 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Bạc Liêu và 3 huyện: Hồng Dân, Vĩnh Lợi, Giá Rai; có diện tích 2.484,96 km2, với số dân 772.078 người.

Tỉnh lỵ: Thị xã Bạc Liêu.

b) Tỉnh Cà Mau có 6 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Cà Mau và 6 huyện: Đầm Dơi, Ngọc Hiển, Cái Nước, Trần Văn Thời, U Minh, Thới Bình; có diện tích 5.204,41 km2, với số dân 1.067.925 người.

Tỉnh lỵ: Thị xã Cà Mau.

5. Chia tỉnh Nam Hà thành hai tỉnh là tỉnh Hà Nam và tỉnh Nam Định

a) Tỉnh Hà Nam có 6 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Phủ Lý và 5 huyện: Lý Nhân, Bình Lục, Kim Bảng, Thanh Liêm, Duy Tiên; có diện tích 826,66 km2, với số dân 804.800 người.

Tỉnh lỵ: Thị xã Phủ Lý.

b) Tỉnh Nam Định có 7 đơn vị hành chính gồm: Thành phố Nam Định và 6 huyện: Xuân Thuỷ, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Nam Ninh, Ý Yên, Vụ Bản và 7 xã Mỹ Thuận, Mỹ Tiến, Mỹ Hà, Mỹ Thịnh, Mỹ Thành, Mỹ Thắng, Mỹ Hưng thuộc huyện Bình Lục nay chuyển giao về thành phố Nam Định thuộc tỉnh Nam Định quản lý; có diện tích 1.669,36 km2, với số dân 1.898.100 người.

Tỉnh lỵ: Thành phố Nam Định.

6. Tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương

a) Tỉnh Quảng Nam có 14 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Hội An, thị xã Tam Kỳ và 12 huyện: Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên, Quế Sơn, Thăng Bình, Hiệp Đức, Núi Thành, Tiên Phước, Phước Sơn, Trà Mi, Giằng, Hiên; có diện tích 10.406,34 km2, với số dân 1.364.599 người.

Tỉnh lỵ: Thị xã Tam Kỳ.

b) Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương có 7 đơn vị hành chính là các quận: Hải Châu, Liên Chiểu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, huyện Hòa Vang và huyện Đảo Hoàng Sa; có diện tích 942,46 km2, với số dân 663.115 người.

7. Chia tỉnh Sông Bé thành hai tỉnh là tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước

a) Tỉnh Bình Dương có 4 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Thủ Dầu Một và 3 huyện: Thuận An, Tân Uyên, Bến Cát, và 4 xã Minh Hoà, Minh Thạnh, Minh Tân, Trừ Văn Thố thuộc huyện Bình Long nay thuộc tỉnh Bình Phước chuyển giao cho huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương quản lý và 5 xã: An Linh, Phước Sang, Tân Hiệp, An Bình, Vĩnh Hòa và thị trấn Phước Vĩnh thuộc huyện Đồng Phú nay thuộc tỉnh Bình Phước chuyển giao cho huyện Tân Yên, tỉnh Bình Dương quản lý; có diện tích 2.718,50 km2, với số dân 646.317 người.

Tỉnh lỵ: Thị xã Thủ Dầu Một.

b) Tỉnh Bình Phước có 5 đơn vị hành chính gồm các huyện: Lộc Ninh, Phước Long, Bù Đăng, Bình Long, Đồng Phú; có diện tích tự nhiên 6.814,22 km2, với số dân 531.557 người.

Tỉnh lỵ: Thị trấn Đồng Xoài thuộc huyện Đồng Phú.

8. Chia tỉnh Vĩnh Phú thành hai tỉnh là tỉnh Phú Thọ và tỉnh Vĩnh Phúc

a) Tỉnh Phú Thọ có 10 đơn vị hành chính gồm: Thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ và 8 huyện: Hạ Hoà, Thanh Ba, Đoan Hùng, Sông Thao, Yên Lập, Thanh Sơn, Tam Thanh, Phong Châu; có diện tích 3.465,12 km2, với số dân 1.261.949 người.

Tỉnh lỵ: Thành phố Việt Trì.

b) Tỉnh Vĩnh Phúc có 6 đơn vị hành chính gồm: Thị xã Vĩnh Yên và 5 huyện: Lập Thạch, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Tam Đảo, Mê Linh; có diện tích 1.370,73 km2, với số dân 1.066.522 người.

Tỉnh lỵ: Thị xã Vĩnh Yên.

            Quốc hội giao Chính phủ chỉ đạo các tỉnh được chia tách sớm giải quyết mọi vấn đề thuộc về cơ sở vật chất, trụ sở, phương tiện làm việc, sắp xếp bố trí cán bộ; đồng thời tiến hành xác định địa giới trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, nhằm nhanh chóng ổn định tổ chức để phát triển sản xuất, bảo đảm đoàn kết, tiết kiệm, gọn nhẹ về tổ chức và biên chế.

            Thực tế đã chứng minh, các tỉnh, thành phố được Quốc hội khóa IX quyết định chia tách đã nhanh chóng ổn định về tổ chức và có sự phát triển mới về các lĩnh vực, nhất là về kinh tế - xã hội.

            Trong nhiệm kỳ khóa IX, sau khi xem xét Báo cáo của Chính phủ về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai trong cả nước đến năm 2010 tại Tờ trình số 1091/KTN ngày 10-3-1997 và ý kiến của đại biểu Quốc hội, ngày 10-5-1997, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về Kế hoạch sử dụng đất đai trong cả nước 5 năm từ năm 1996 đến năm 2000, trong đó xác định: tổng diện tích đất đai tự nhiên của cả nước là 33.104.200 ha được phân bổ như sau:

a) Đất nông nghiệp đến năm 2000 đạt: 8.992.500 ha; trong đó: đất trồng lúa nước: 4.230.000 ha; đất trồng cây hằng năm và đất trồng cây lâu năm tăng thêm do khai hoang: 500.000 - 700.000 ha.

b) Đất lâm nghiệp có rừng đủ tiêu chuẩn đến năm 2000 đạt: 11.008.900 ha. Trong đó: Rừng trồng mới và rừng khoanh nuôi tái sinh: 2.500.000 ha. Bao gồm: Rừng trồng mới: 1.000.000 ha; rừng khoanh nuôi tái sinh: 1.500.000 ha; như vậy, tỷ lệ che phủ đạt 40% tổng diện tích đất đai tự nhiên. Trong đó: Che phủ bằng cây rừng: 33%; che phủ bằng cây nông nghiệp lâu năm: 7%.

c) Đất chuyên dùng: 1.468.300 ha; d) Đất khu dân cư nông thôn: 751.100 ha; đ) Đất đô thị: 155.400 ha.

e) Đất chưa sử dụng: 10.728.000 ha.

            Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình lập kế hoạch sử dụng đất đến năm 2000 và kế hoạch hằng năm trình Chính phủ xét duyệt và tổ chức thực hiện. Trong quá trình tổ chức thực hiện, Quốc hội đề nghị Chính phủ lưu ý một số vấn đề cụ thể, như: việc thực hiện kế hoạch sử dụng đất phải gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; bảo vệ môi trường sinh thái; hạn chế đến mức thấp nhất việc chuyển đất trồng lúa nước và đất có rừng sang sử dụng vào mục đích khác; có chính sách hợp lý cho người làm nông nghiệp, lâm nghiệp có đất để sản xuất và yên tâm sản xuất; có chính sách khuyến khích đầu tư vào việc khai thác, sử dụng đất trống, đồi núi trọc; việc giao đất, cho thuê đất phải theo đúng thẩm quyền, phải căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, luận chứng kinh tế - kỹ thuật đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, bảo đảm sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý, đúng mục đích, có hiệu quả...

            Với những quy định chi tiết và xác định rõ trách nhiệm quản lý của các cơ quan đã giúp cho Chính phủ hoàn chỉnh được công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai dài hạn trong cả nước trình Quốc hội xem xét, quyết định. Nghị quyết về kế hoạch sử dụng đất đai trong cả nước 5 năm từ năm 1996 đến năm 2000 đã góp phần vào việc quản lý, sử dụng đất đai đúng mục đích và có hiệu quả trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

            Tuy Quốc hội khóa IX đã có rất nhiều cố gắng trong việc thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Lĩnh vực cân đối ngân sách, dự toán và quyết định phân bổ thu chi còn thiếu chặt chẽ. Các biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng chưa được khắc phục kịp thời và chậm được xử lý. Tệ tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác vẫn chưa được ngăn chặn... Đây là những vấn đề bức xúc được cử tri cả nước hết sức quan tâm và Quốc hội đã dành thời gian thảo luận, đề xuất nhiều biện pháp để sớm xử lý, song kết quả vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do đại biểu Quốc hội thiếu thông tin về các vấn đề mà Quốc hội phải quyết định. Một số báo cáo của Chính phủ và các cơ quan hữu quan cũng chưa cung cấp đầy đủ số liệu thống kê, kết quả kiểm tra, kiểm toán để đại biểu có cơ sở thảo luận, quyết định; do đó đã ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của Quốc hội.

5. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội theo phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới

            Trong nhiệm kỳ khóa VIII, hoạt động đối ngoại của Quốc hội bắt đầu được chú trọng và mở rộng theo mục tiêu, phương hướng chung là giữ vững hòa bình, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực vào sự nghiệp của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

            Trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hoạt động đối ngoại của Nhà nước Việt Nam đã thể hiện chính sách nhất quán, đó là: đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, ra sức gìn giữ hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, trước hết là các nước láng giềng và các nước trong khu vực, tạo môi trường và điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “đẩy lùi một bước âm mưu bao vây, cô lập đối với nước ta, tăng thêm bầu bạn, nâng cao uy tín của nước ta trên trường quốc tế”[9].

            Tuy vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng diễn ra nửa cuối năm 1991, khi nhận định về công tác đối ngoại của Nhà nước, Đảng đánh giá còn có khuyết điểm và những mặt yếu kém: “khi tình hình thế giới và quan hệ quốc tế thay đổi, có việc chưa đánh giá đầy đủ và kịp thời để có chủ trương sát đúng; chưa tạo được sự thống nhất cao về nhận thức và hành động giữa một số ngành trong một số trường hợp”2.

            Từ những thành tựu và hạn chế trong hoạt động đối ngoại của Nhà nước trong 5 năm đầu đổi mới; từ tình hình quốc tế biến động khó lường, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu lần lượt sụp đổ, Việt Nam vẫn nằm trong thế bị bao vây, cấm vận..., trên tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, hoạt động ngoại giao nghị viện và hoạt động đối ngoại trên các kênh khác nhau đã có sự phối hợp chặt chẽ, tạo thuận lợi cho việc thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại chung của quốc gia.

            Trên cơ sở đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác quốc tế; với vị trí là một kênh đối ngoại vừa mang tính nhà nước, vừa mang tính nhân dân, Quốc hội khóa IX đã triển khai hoạt động đối ngoại một cách chủ động, tích cực, thực hiện có kết quả chính sách rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại theo phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”[10].

            Giai đoạn 1992-1997 là thời kỳ hoạt động ngoại giao Đảng, ngoại giao Nhà nước, ngoại giao nghị viện diễn ra sôi động nhằm bình thường hóa quan hệ với hai nước lớn là Trung Quốc và Mỹ, đẩy nhanh lộ trình gia nhập ASEAN, hợp tác giúp đỡ cách mạng Lào và cách mạng Campuchia, khôi phục quan hệ hữu nghị truyền thống với Liên bang Nga và các nước Đông Âu, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước tư bản phát triển Tây Âu và Nhật Bản, chú trọng quan hệ với các nước Trung Cận Đông và Mỹ La tinh, ủng hộ cách mạng Cuba... phá thế bị bao vây, cấm vận, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới, tạo môi trường quốc tế phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước.

            Từ những kết quả và kinh nghiệm hoạt động đối ngoại của Quốc hội khóa VIII, trước yêu cầu mới, tại phiên họp ngày 30-9-1993, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua đề cương tổng quát, phương hướng, nhiệm vụ của hoạt động đối ngoại của Quốc hội khóa IX do Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội xây dựng. Theo đề cương tổng quát, hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội các nhóm nghị sĩ hữu nghị với các nước đã được triển khai trên cơ sở kế hoạch đã được phê duyệt. Do đó, trong nhiệm kỳ khóa IX, Quốc hội đã thành lập 72 đoàn đi thăm và làm việc ở 91 lượt quốc gia và vùng lãnh thổ. Kết quả cụ thể như sau:

Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội: Chủ tịch Quốc hội dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao của Quốc hội đi thăm Philíppin (3-1993); Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (8-1993); Thụy Điển, Phần Lan, Anh, Pháp, Đức (10-1993); Trung Quốc (2-1994); Ấn Độ (6-1994); Cộng đồng châu Âu (EU), Bỉ, Séc, Xlôvakia (2-1995); Inđônêxia, Xingapo (9-1995), Malaixia, Thái Lan (9-1996). Các Phó Chủ tịch Quốc hội đã đi thăm và làm việc tại Thụy Điển (9-1994), Trung Đông, Châu Phi (2-1995); Ba Lan, Bungari (6-1995); Hunggari, Rumani (9-1995).

Hoạt động đối ngoại của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội: Hội đồng Dân tộc đi thăm và làm việc tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (12-1993), Ấn Độ (2-1994), Trung Quốc (9-1994), Malaixia (11-1995).

- Ủy ban Đối ngoại đi thăm và làm việc tại Cuba, Chi Lê (6-1994); Ôxtrâylia, Fiji, Vanuatu (2-1995); Trung Quốc (5-1995); Inđônêxia, Xingapo (8-1995); Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (1-1996), Hoa Kỳ (1-1996); Cuba, Mêhicô, Thái Lan (5-1996); Campuchia (8-1996).

- Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng đi thăm Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
(3-1995), Thái Lan (11-1995), Trung Quốc (5-1995), Ôxtrâylia (12-1996).

- Ủy ban về Các vấn đề xã hội tham dự Đại hội đồng AFPPD tại Malaixia (10-1993), Hội nghị thường niên của APDA tại Trung Quốc (2-1994), thăm và làm việc tại Ấn Độ (6-1994), tham dự Hội nghị các nghị sĩ tại Cairô - Ai Cập (8-1994), tham dự Hội nghị tại Côpenhaghen - Đan Mạch và Hội nghị APDA tại Nhật Bản (2-1995), Hội nghị dân số tại Pháp (2-1995), Hội nghị dân số tại Philíppin (5-1995), Hội nghị AFPPD tại Nhật Bản và Hội nghị Phụ nữ lần thứ tư tại Bắc Kinh (9-1995), Hội nghị APDA tại Philíppin (2-1996), thăm và làm việc tại Thái Lan (2-1996), tại Philíppin (4-1996), thăm và làm việc tại Thụy Điển (5-1996), Hội nghị AFPPD tại Ôxtrâylia, Thụy Sĩ (11-1996), thăm và làm việc tại Canađa (12-1996).

- Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đi thăm và dự hội nghị quốc tế tại: Hàn Quốc (9-1993), Thái Lan (9-1994), Nhật Bản (7-1994), Philíppin (12-1994), Malaixia (9-1995 và 12-1995), Thụy Điển, Phần Lan (11-1996), Niu Dilân (12-1996).

- Ủy ban Kinh tế và Ngân sách thăm và làm việc tại các nước: Malaixia (10-1992), Trung Quốc (9-1993), Phần Lan (11-1994), Thụy Điển (3-1995), Cộng hòa dân chủ Đức (9-1995), Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (12-1995).

- Ủy ban Quốc phòng - An ninh thăm Ấn Độ tháng 12-1995.

- Văn phòng Quốc hội cũng đã có 8 đoàn đi thăm và làm việc tại 8 nước: Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (3-1994 và 1-1997), Hoa Kỳ (2-1995), Hàn Quốc (8-1995); Phần Lan, Thụy Điển (8-1995), Đài Loan, Thái Lan (12-1995), Trung Quốc (11-1996).

            Ngoài ra, Quốc hội còn cử nhiều đoàn đại biểu cấp cao tham dự nhiều hội nghị quốc tế, đặc biệt là 2 lần tham dự Hội nghị AIPO với tư cách là quan sát viên (1993, 1994) 3 lần với tư cách thành viên chính thức (1995, 1996, 1997); dự Hội nghị Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU) mỗi năm 2 lần; Hội nghị tổ chức Liên minh các nghị sĩ sử dụng tiếng Pháp (AIPLF) tại nước ngoài mỗi năm một lần; Hội nghị Liên minh nghị sĩ châu Á - Thái Bình Dương (APPU) 3 lần; Hội nghị diễn đàn nghị sĩ châu Á - Thái Bình Dương (APPF) 3 lần... Qua việc tham dự các hội nghị đã góp phần tăng cường hiểu biết lẫn nhau và mở rộng tình hữu nghị giữa Quốc hội Việt Nam với Quốc hội và nhân dân thế giới.

            Cũng trong nhiệm kỳ 5 năm của Quốc hội khóa IX đã có 116 đoàn đại biểu Quốc hội của nhiều nước đã đến thăm và làm việc tại Việt Nam. Trong 116 đoàn, đặc biệt có 17 chủ tịch, 4 phó chủ tịch Quốc hội các nước trực tiếp đến làm việc với Quốc hội Việt Nam: Chủ tịch Quốc hội Lào
(8-1993), Chủ tịch Quốc hội Campuchia (2-1994), Chủ tịch Quốc hội Marshall (10-1994), Chủ tịch Quốc hội Mali
(6-1994), Chủ tịch Quốc hội Đan Mạch (9-1995), Chủ tịch Hạ viện Thái Lan (6-1995 và 1-1996), Chủ tịch Quốc hội Xingapo - Chủ tịch AIPO (7-1995), Chủ tịch Quốc hội Thụy Điển (10-1995), Trưởng đoàn nghị sĩ châu Âu quan hệ với ASEAN của Nghị viện châu Âu, Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc (3-1996 và 9-1996), Chủ tịch Quốc hội Bungari (7-1996), Chủ tịch Quốc hội Ôxtrâylia (9-1996), Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc (11-1996), Chủ tịch Quốc hội Inđônêxia (12-1996), Phó Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc (11-1994), Phó Chủ tịch Quốc hội Hunggari (4-1995), Phó Chủ tịch Hạ viện Thái Lan (5-1995), Phó Chủ tịch Đuma quốc gia Nga (8-1995).

            Có thể khẳng định, đây là thời kỳ quan hệ giữa Quốc hội Việt Nam với Quốc hội các nước được tăng cường và mở rộng, không chỉ ở quan hệ song phương mà cả quan hệ đa phương, điều đó được thể hiện qua việc nhiều đoàn đại biểu cấp cao của Quốc hội các nước đã đến thăm và làm việc tại Việt Nam.

            Trong quan hệ đa phương, Quốc hội khóa IX đã quan tâm chỉ đạo hoạt động của đoàn Việt Nam trong Liên minh Nghị viện thế giới và khu vực, thông qua đó đề cao vai trò và vị trí của Quốc hội Việt Nam, tranh thủ bằng nhiều hình thức giới thiệu đường lối đối ngoại của Đảng và sự nghiệp đổi mới của đất nước, thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác về nhiều mặt của các nước với Việt Nam.

            Do vị thế mới của Việt Nam, tháng 7-1992, sau khi Việt Nam tham gia ký Hiệp ước thân thiện Đông Nam Á (Hiệp ước Bali) và trở thành quan sát viên của tổ chức ASEAN; ngày 28-7-1995, tại thủ đô của Brunây, Việt Nam đã chính thức được kết nạp và là thành viên thứ 7 của ASEAN. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 được coi là bước khởi đầu quan trọng đối với tiến trình mở rộng và phát triển của ASEAN. Ngay sau khi tham gia ASEAN, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy việc kết nạp các nước Lào, Mianma và Campuchia vào ASEAN, qua đó góp phần hoàn tất ý tưởng về một ASEAN bao gồm toàn bộ 10 quốc gia ở Đông Nam Á, mở ra một trang mới của đoàn kết, hữu nghị và hợp tác ở khu vực.

            Tiếp sau sự kiện nói trên, nhận lời mời của Chủ tịch Quốc hội Xingapo, đồng thời là Chủ tịch Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPO 16), từ ngày 17 đến 23-9-1995, đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh dẫn đầu đã sang thăm hữu nghị chính thức Xingapo và tham dự một số hoạt động tại kỳ họp lần thứ 16 của Tổ chức Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPO).

            Tổ chức Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPO) được chính thức thành lập từ tháng 9-1977 gồm đại diện các vị lãnh đạo Quốc hội các nước ASEAN tại Manila, Philíppin. Tại kỳ họp này, Điều lệ hoạt động của AIPO đã được thông qua, theo Điều lệ thì Quốc hội của tất cả các nước thành viên ASEAN mặc nhiên có thể trở thành thành viên đầy đủ của AIPO nếu chấp nhận Điều lệ và sẵn sàng gia nhập. Từ 28-7-1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN. Ngay sau đó, Quốc hội các nước thành viên của AIPO đã trao đổi ý kiến và nhất trí bày tỏ mong muốn Quốc hội Việt Nam gia nhập AIPO (thực tế, Quốc hội Việt Nam đã tham gia nhiều hoạt động với tư cách là quan sát viên của AIPO từ năm 1992).

            Ngày 7-9-1995, được sự ủy nhiệm của chủ tịch Quốc hội các nước thành viên, Chủ tịch AIPO 16 đồng thời là Chủ tịch Quốc hội Xingapo đã sang thăm Việt Nam trân trọng trao tận tay Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh thư mời đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam tham dự kỳ họp lần thứ 16 Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPO) và mời Quốc hội Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức AIPO.

            Trước đó, vào trung tuần tháng 8, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn của Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đã sang thăm làm việc tại Xingapo và Inđônêxia để trao đổi chi tiết về việc chuẩn bị cho Quốc hội Việt Nam gia nhập AIPO với đương kim Chủ tịch và Tổng Thư ký AIPO, Ban Thư ký thường trực AIPO cũng như gặp gỡ với Ban Thư ký thường trực ASEAN.

            Ngày 19-9-1995, tại kỳ họp lần thứ 16 Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPO 16), lễ kết nạp Quốc hội Việt Nam vào AIPO đã diễn ra với nghi thức trọng thể tại phiên họp toàn thể đầu tiên. Chủ tịch AIPO và các vị đứng đầu Nghị viện các nước Inđônêxia, Malaixia, Philíppin và Thái Lan đã long trọng ký Nghị quyết kết nạp Quốc hội Việt Nam vào AIPO (Brunây không có Quốc hội nên họ tham gia AIPO với tư cách “Quan sát viên đặc biệt”, vì vậy không được ký vào văn kiện). Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh cũng đã ký vào Nghị quyết xác nhận sự kiện trên.

Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh ký Nghị quyết kết nạp Việt Nam vào Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPO)
tổ chức tại Xingapo, ngày 19-9-1995

Lễ rước Quốc kỳ Việt Nam tại kỳ họp Đại hội đồng AIPO lần thứ 16
tổ chức tại Xingapo, ngày 19-9-1995

            Sau lễ kết nạp, với tư cách là thành viên chính thức của AIPO, theo chương trình làm việc của kỳ họp lần thứ 16 Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á, lần đầu tiên tại diễn đàn này Chủ tịch Quốc hội Việt Nam đã đọc diễn văn quan trọng có tính chất như một tuyên bố về đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với khu vực Đông Nam Á, trên cơ sở đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Nội dung chính tập trung vào các vấn đề chủ yếu như sau:

- Việt Nam mong muốn hợp tác với các nước trong khu vực cùng phấn đấu xây dựng một Đông Nam Á hòa bình, ổn định hợp tác và phồn vinh, không có vũ khí hạt nhân và căn cứ quân sự của nước ngoài vì hòa bình, an ninh và phát triển ở châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới.

- Quốc hội Việt Nam bày tỏ sự tin tưởng, Tổ chức Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á có uy tín, đại diện cho hơn 400 triệu dân ở một khu vực phát triển năng động của thế giới sẽ góp phần xứng đáng vào việc xây dựng một trật tự thế giới mới tốt đẹp hơn.

- Việt Nam tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị với chính sách rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa theo tinh thần “muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, vì lợi ích và sự phát triển của mỗi quốc gia cũng như ở khu vực và trên thế giới.

            Chủ tịch Quốc hội cũng đã bày tỏ rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam mong muốn thông qua thương lượng hòa bình, giải quyết các vấn đề tồn tại giữa các nước, kể cả tranh chấp trên biển Đông theo tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau; tôn trọng luật pháp quốc tế; tôn trọng chủ quyền và quyền tài phán của mỗi nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Chủ tịch đã đề nghị các bên liên quan duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, tự kiềm chế, không làm gì phức tạp thêm tình hình, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, góp phần xây dựng một trật tự thế giới mới tốt đẹp hơn.

            Tại Diễn đàn kỳ họp lần thứ 16 Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPO 16), Trưởng đoàn đại biểu các nước thành viên AIPO cũng như quan sát viên và khách mời đều nồng nhiệt chúc mừng Quốc hội Việt Nam trở thành thành viên chính thức của AIPO, coi Việt Nam gia nhập tổ chức này là nhân tố mới quan trọng, tăng cường thêm sức mạnh cho Tổ chức Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPO). Với tư cách là thành viên chính thức của AIPO, đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đã tích cực tham gia vào các ủy ban của tổ chức khu vực, vừa làm nghĩa vụ của nước thành viên, vừa tích cực đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm đối ngoại của Đảng, vừa bảo vệ lợi ích chính đáng của dân tộc mình.

            Việc Quốc hội Việt Nam gia nhập AIPO là phù hợp với chủ trương đẩy mạnh hợp tác khu vực cũng như từng bước hội nhập với các quốc gia trong cộng đồng Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương và thế giới. Cơ chế hợp tác liên nghị viện khu vực AIPO thực sự đóng góp tích cực và có hiệu quả trong hợp tác nhiều mặt giữa các quốc gia trong và ngoài khu vực, thúc đẩy chính phủ các nước thực hiện tốt hơn các chương trình hợp tác song phương và đa phương. Việc Quốc hội Việt Nam gia nhập AIPO còn có ý nghĩa quan trọng, đó là thông qua cơ chế này, các nước thành viên ASEAN bắt tay xây dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp với thực tế và tinh thần chung của khu vực,
vừa bảo vệ lợi ích của mỗi dân tộc, vừa tạo điều kiện môi trường thuận lợi thúc đẩy Chính phủ và các nhà doanh nghiệp trong hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư.

            Như vậy, chỉ trong vòng hai tháng, từ tháng 7 đến tháng 9-1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN và Quốc hội Việt Nam là thành viên chính thức của AIPO. Đây là một thắng lợi ngoại giao lớn, như một dấu mốc quan trọng đánh dấu Việt Nam hòa nhập đầy đủ vào khu vực Đông Nam Á.

            Từ những hoạt động ngoại giao nghị viện chủ động, tích cực, Quốc hội có thêm nhiều kinh nghiệm hoạt động và nâng cao vị trí của Quốc hội Việt Nam trong các tổ chức, như: Liên minh Nghị viện thế giới (IPU), Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPO), Liên minh Nghị sĩ các nước có sử dụng tiếng Pháp (AIPLF) và Liên minh Nghị sĩ châu Á - Thái Bình Dương (APPU).

            Một sự kiện đáng chú ý, tháng 2-1996, Quốc hội Việt Nam đã đăng cai và tổ chức thành công Hội nghị Ban Chấp hành Tổ chức Nghị sĩ các nước sử dụng tiếng Pháp (AIPLF) tại Hà Nội với sự tham gia của các đoàn đại biểu Quốc hội 14 nước từ khắp các châu lục, trong đó có nhiều chủ tịch và phó chủ tịch Quốc hội. Đây là lần đầu tiên Quốc hội Việt Nam đăng cai tổ chức một hội nghị quốc tế tại Việt Nam có tầm cỡ lớn về số lượng và về tầm quan trọng của hội nghị cũng như thành phần tham dự. Hội nghị thành công và gây nhiều ấn tượng tốt đối với đại biểu Quốc hội các nước, giúp họ hiểu biết thêm về đất nước và con người Việt Nam. Qua đó, đóng góp kinh nghiệm cho Việt Nam sẽ đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao các nước sử dụng tiếng Pháp trong năm 1997.

            Ngoài ra, trong nhiệm kỳ khóa IX, Quốc hội cũng cử nhiều đoàn đại biểu tham gia các cơ chế hữu nghị, hợp tác khác trong khuôn khổ liên minh, hiệp hội các nghị sĩ như: Diễn đàn nghị sĩ châu Á - Thái Bình Dương (APPF), Hiệp hội các nghị sĩ châu Á về Dân số và Phát triển (AFPPD), Diễn đàn nghị sĩ các nước lưu vực sông Mê Kông và Tổ chức các nghị sĩ ngành y quốc tế (IMPO)...

            Trong quan hệ song phương, với sự tham gia trực tiếp và chỉ đạo phục vụ chu đáo của Ủy ban Đối ngoại, đoàn Chủ tịch Quốc hội Việt Nam đã lần lượt thăm hữu nghị chính thức tất cả các nước trong khu vực Đông Nam Á.

            Đối với Trung Quốc: sau các chuyến thăm cấp cao của Chủ tịch nước Lê Đức Anh (8-1991), Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt (11-1991), đoàn đại biểu cấp cao của Quốc hội Việt Nam do Chủ tịch Nông Đức Mạnh dẫn đầu đã thăm Trung Quốc tháng 9-1993 và Đoàn đại biểu cấp cao Quốc hội Trung Quốc do Chủ tịch Kiều Thạch đã thăm Việt Nam tháng 11-1996. Kết quả các chuyến thăm làm cho quan hệ hai nước nồng ấm hơn, tiến tới xác định mối quan hệ thân thiện bằng 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.

            Đối với Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào: Từ ngày 15 đến ngày 19-8- 1993, đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do Chủ tịch Nông Đức Mạnh dẫn đầu đã thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Trong chuyến thăm, hai bên đã hội đàm, cùng khẳng định trước sau như một tinh thần đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Lào do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản đặt nền móng; coi đây là xuất phát từ quy luật khách quan được đúc kết qua thực tiễn giành độc lập, xây dựng và phát triển của hai nước. Trong cuộc hội đàm và ở những nơi đoàn đến, các đồng chí lãnh đạo của bạn từ Trung ương đến cơ sở đều xúc động nhắc lại nhiều lần truyền thống đoàn kết, gắn bó keo sơn đã có từ lâu đời và tình cảm tốt đẹp dành cho nhau giữa hai Đảng và nhân dân hai nước. Trong các cuộc gặp gỡ, các đồng chí Khămtày Xiphănđon, Nuhắc Phumxavẳn, Xamản Vinhakệt đều cảm động, tỏ lòng kính trọng Bác Hồ và nhắc lại những kỷ niệm tốt đẹp mà Bác Hồ đã dành cho Đảng và nhân dân các bộ tộc Lào. Trong hội đàm, đồng chí Xamản Vinhakệt đã nhắc lại nhiều lần lời của đồng chí Cayxỏn Phômvihản: “Việt Nam giàu thì Lào mới giàu, Lào giàu thì Việt Nam cũng giàu” và câu nói của đồng chí Khămtày Xiphănđon: “Quan hệ với Việt Nam là quan hệ chiến lược, Việt Nam là người bạn láng giềng gần gũi, thân thiết và đáng tin cậy nhất. Có quan hệ với Việt Nam, chúng ta mới có đủ điều kiện để xây dựng và bảo vệ đất nước”.

            Cùng với chuyến thăm cấp cao của Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh tới Lào, Chủ tịch Quốc hội Lào cũng đã sang thăm Việt Nam. Ngoài ra, trong nhiệm kỳ khóa IX, hầu hết các ủy ban của Quốc hội Việt Nam đã sang thăm và làm việc tại Lào và các ủy ban của Quốc hội Lào đã sang thăm và làm việc tại Việt Nam, giúp cho quan hệ Việt - Lào được củng cố và phát triển cả chiều rộng và chiều sâu.

            Đối với Campuchia: tháng 11-1991, Hội nghị quốc tế về Campuchia tại Pari đã ký Hiệp định về giải pháp chính trị toàn bộ cho vấn đề Campuchia, chấm dứt tình hình căng thẳng đối đầu giữa nước ta với nhiều nước đang thực hiện chính sách bao vây cấm vận và tiến hành chiến tranh phá hoại nhiều mặt chống Việt Nam. Từ đây quan hệ Việt Nam - Campuchia bước sang trang mới. Tháng 8-1993, sau cuộc Tổng tuyển cử ở Campuchia (5-1993), hai nước đã ra Thông cáo chung xác định quan hệ Việt Nam - Campuchia và tổ chức các đoàn đại biểu cấp cao của Nhà nước Campuchia thăm chính thức Việt Nam. Tháng 2-1994, Chủ tịch Quốc hội Campuchia thăm chính thức Việt Nam. Cuối tháng 8-1995, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Campuchia sang thăm Việt Nam. Ngoài ra bạn còn cử đoàn tham dự Hội nghị APDA tại Hà Nội tháng 2-1993 và Hội nghị Nữ nghị sĩ Đông Dương tháng 6-1995.

            Để đáp lại sự thân thiện, hữu nghị, tháng 8-1995 Chủ tịch nước Lê Đức Anh sang thăm chính thức Campuchia. Tháng 4-1994 và tháng 4-1996, Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt cũng sang thăm chính thức Campuchia. Về ngoại giao nghị viện, tháng 8-1996, đoàn Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Việt Nam sang thăm và làm việc tại Phnôm Pênh. Hai nước đã ký nhiều hiệp định hợp tác trên nhiều lĩnh vực và phối hợp với nhau trong lĩnh vực an ninh phòng, chống tội phạm. Việt Nam ủng hộ mạnh mẽ và tích cực vận động các nước thành viên kết nạp Campuchia vào ASEAN, Quốc hội Campuchia gia nhập AIPO.

            Đối với các nước Đông Nam Á khác: sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN và Quốc hội Việt Nam là thành viên chính thức của AIPO, cùng với hoạt động ngoại giao Nhà nước, ngoại giao nghị viện có bước phát triển mới. Chủ tịch Quốc hội Việt Nam đã đi thăm và làm việc ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. Chủ tịch Hạ viện Thái Lan, Chủ tịch Quốc hội Xingapo, Chủ tịch Quốc hội Inđônêxia cũng đã đến Hà Nội. Hội đồng Dân tộc, các ủy ban và Văn phòng Quốc hội Việt Nam đã cử nhiều đoàn đi thăm và làm việc tại hầu hết Quốc hội các nước AIPO; Quốc hội các nước Đông Nam Á cũng đã cử nhiều đoàn cấp ủy ban sang trao đổi công tác với các ủy ban của Quốc hội Việt Nam. Thái Lan là một trong những nước cử nhiều đoàn nhất. Như vậy, Việt Nam đã hội nhập đầy đủ và là thành viên quan trọng, tin cậy, có trách nhiệm của các nước Đông Nam Á.

            Đối với Liên bang Nga và các nước Đông Âu: sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ thì quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam với các nước này gặp khó khăn, quan hệ trao đổi thương mại bị thu hẹp. Để khôi phục và thúc đẩy quan hệ hữu nghị, Việt Nam đã chủ động, tích cực hợp tác nhiều mặt với các nước trên cơ sở mới.

            Từ năm 1993, quan hệ Việt - Nga dần dần được hồi phục. Ngoại giao nghị viện hai nước được thiết lập. Tháng 6-1995, Chủ tịch Nhóm hữu nghị Việt - Nga sang thăm Liên bang Nga, tháng 8-1995, Phó Chủ tịch Đuma quốc gia Nga thăm Hà Nội. Đây là những bước đi đầu tiên chuẩn bị cho mối quan hệ tốt đẹp trong hoạt động ngoại giao của hai nước.

            Đối với các nước Đông Âu, từ năm 1992, Việt Nam chủ động khôi phục quan hệ ngoại giao, tháng 3-1995, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh đã thăm Séc và Xlôvakia. Ngay sau đó, các Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam đã sang thăm và làm việc tại Ba Lan, Bungari (6-1995); Hunggari, Rumani (9-1995), Phó Chủ tịch Quốc hội Hunggari cũng đã thăm Hà Nội tháng 4-1995.

            Đối với các nước phát triển Tây Âu - Bắc Âu: hoạt động của các chuyến thăm đã thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các nước, góp phần tích cực vào việc quyết định của Chính phủ các nước Tây Âu, Bắc Âu giảm nợ, giãn nợ hoặc xóa nợ cho Việt Nam. Điểm nổi bật, thông qua hoạt động đối ngoại song phương, Quốc hội Việt Nam đã góp phần quan trọng đối với việc ra đời của Hiệp định khung được ký kết giữa Việt Nam và EU, nhằm xác định mối quan hệ hợp tác Việt Nam - EU (17-7-1995).

            Tháng 10-1993, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh đã đi thăm và làm việc tại Thụy Điển, Phần Lan, Anh, Pháp, Đức và tháng 2-1995 đã đi thăm EU và Bỉ. Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam đã sang thăm Thụy Điển (9-1994). Một số ủy ban của Quốc hội Việt Nam đã cử đoàn sang thăm và làm việc tại các nước Tây Âu - Bắc Âu.

            Từ sau chuyến thăm Việt Nam (9-1993) của một vị tổng thống đầu tiên của các nước phương Tây - Tổng thống Pháp Ph.Míttơrăng, đã mở ra thời kỳ mới trong quan hệ giữa Việt Nam và các nước Tây Âu - Bắc Âu. Sau đó Thủ tướng Thụy Điển, Tổng thống Áo, Thủ tướng Hà Lan, Thủ tướng Đức, Thủ tướng Bỉ, Thủ tướng Nauy, Thủ tướng Lúcxămbua, Tổng thống Pháp Jắc Xirắc đã thăm chính thức Việt Nam.

            Để nối lại quan hệ ngoại giao, Quốc hội Việt Nam cũng đã mời và đón rất nhiều đoàn của Quốc hội các nước phát triển ở châu Âu sang thăm và làm việc tại Việt Nam, như: Đoàn của Chủ tịch Quốc hội Thụy Điển (10-1995), Chủ tịch Quốc hội Đan Mạch (9-1995), Đoàn nghị viện châu Âu - Trưởng đoàn nghị sĩ châu Âu quan hệ với ASEAN (cuối năm 1995). Ngoài ra còn có hơn 20 đoàn của các ủy viên, các nhóm nghị sĩ của Quốc hội các nước EU sang thăm và làm việc tại Việt Nam, nhiều nhất là của Quốc hội Đức và Quốc hội Pháp.

            Đối với Nhật Bản và Hàn Quốc: sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết, từ năm 1992, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, Việt Nam - Hàn Quốc được bình thường hóa và phát triển tích cực trên tất cả các lĩnh vực, với quy mô và tốc độ cao. Tháng 3-1993, Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt là nhà lãnh đạo cao cấp đầu tiên sang thăm Nhật Bản. Sau đó một năm, Tổng Bí thư Đỗ Mười cũng đã thăm chính thức Nhật Bản (4-1995). Thủ tướng Nhật đầu tiên sang thăm hữu nghị chính thức Việt Nam là ông Murayama (8-1994). Tháng 1-1997, Thủ tướng Hashimato cũng đã sang thăm Việt Nam.

            Ngoại giao nghị viện giữa hai nước cũng đã bắt đầu phát triển. Tháng 12-1995, lần đầu tiên đoàn đại biểu cấp cao của Quốc hội Việt Nam do Chủ tịch Nông Đức Mạnh dẫn đầu đã sang thăm và làm việc tại Nhật Bản. Ngoài ra Quốc hội hai nước còn cử một số đoàn sang thăm, làm việc và dự các hội nghị ở mỗi nước, góp phần tăng cường quan hệ hai nước, Nhật Bản trở thành bạn hàng lớn và là nước tài trợ ODA lớn nhất của Việt Nam, chiếm 40% tổng số ODA quốc tế dành cho Việt Nam (từ năm 1992-2000 tổng số ODA của Nhật viện trợ cho Việt Nam vào khoảng 6 tỷ USD), là nước có đầu tư lớn thứ ba ở Việt Nam, kim ngạch buôn bán hai chiều hàng tỷ USD mỗi năm.

            Từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1992, Hàn Quốc nhanh chóng trở thành đối tác hàng đầu của Việt Nam. Thời kỳ này các vị lãnh đạo cấp cao của hai nước đã sang thăm viếng lẫn nhau. Các năm 1993 và 1995, Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt và Tổng Bí thư Đỗ Mười đã đến Hàn Quốc. Thủ tướng Ly Yêng Tơc, Tổng thống Kim Young Sam cũng đã sang Hà Nội thăm hữu nghị chính thức Việt Nam vào năm 1994 và năm 1996. Cũng năm 1996, Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc đã sang thăm chính thức nước ta. Quốc hội hai nước cũng đã trao đổi một số đoàn ở cấp ủy ban.

            Đối với Ôxtrâylia và Niu Dilân: quan hệ ngoại giao nghị viện của Việt Nam với Ôxtrâylia và Niu Dilân bắt đầu được xúc tiến từ sau chuyến thăm Việt Nam của Chủ tịch Quốc hội Ôxtrâylia (9-1996). Quốc hội Việt Nam và Quốc hội hai nước này cũng đã cử một số đoàn sang thăm hữu nghị lẫn nhau.

            Đối với Hoa Kỳ: quan điểm của Việt Nam tỏ rõ thiện chí với việc chủ động trao đổi để cải thiện từng bước quan hệ Việt - Mỹ bằng cả ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nghị viện. Tháng 11-1992, Thượng nghị sĩ Giôn Keri đã sang Hà Nội chuyển thông điệp của Tổng thống mới đắc cử Bin Clintơn và thư của Tổng thống Busơ về bình thường hóa quan hệ hai nước. Tháng 8-1993, ta đã tiếp phái đoàn của Tiểu ban thương mại Hạ viện Mỹ do Hạ nghị sĩ Sam Gibbons làm Trưởng đoàn sang làm việc tại Việt Nam. Đáp lại, phía Việt Nam đã cử đoàn cán bộ Văn phòng Quốc hội và đoàn Ủy ban Pháp luật sang thăm Hoa Kỳ vào tháng 2-1995 và tháng 1-1996.

            Sau khi tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận Việt Nam (ngày 3-2-1994), ngày 10-7-1995, Tổng thống Bin Clintơn tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Ngày 5-8-1995, Ngoại trưởng Hoa Kỳ W.Crítstốphơ sang Hà Nội ký Hiệp định thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước với Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm. Tháng 5-1997, Việt Nam và Hoa Kỳ trao đổi Đại sứ ở Thủ đô hai nước. Nhận xét về sự kiện này, Bộ ngoại giao Việt Nam đánh giá: “Với việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, lần đầu tiên Việt Nam có quan hệ với tất cả các nước lớn trên thế giới. Việc này góp phần củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và tạo thêm điều kiện thuận lợi để Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác với các nước khác và các tổ chức quốc tế”[11].

            Ngoài quan hệ song phương nói trên, đối với các nước khác ở Mỹ Latinh (đặc biệt là Cuba), Trung Cận Đông, châu Phi, Nam Á, Tây Nam Á (đặc biệt là Ấn Độ), ngoại giao nghị viện đã góp phần đáng kể cùng với ngoại giao Nhà nước giữ vững và tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước bạn bè trên khắp các châu lục.

            Điểm nhấn trong hoạt động đối ngoại nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh, sự phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Tổ chức Nghị sĩ Việt Nam hữu nghị với các nước đã được thành lập. Đây là tổ chức mang tính chất tự nguyện của các nghị sĩ và tương đối độc lập trong khuôn khổ Quốc hội. Ban lãnh đạo tổ chức gồm: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Chủ tịch các nhóm nghị sĩ hữu nghị với các nước. Chủ tịch nhóm là Ủy viên Ủy ban Đối ngoại để thuận lợi kết hợp trong công tác đối ngoại. Tổ chức Nghị sĩ hữu nghị với các nước là bộ phận cấu thành của hoạt động đối ngoại Quốc hội làm cho các hình thức hoạt động của Quốc hội thêm phong phú, đa dạng. Đến năm 1997, đã có 14 nhóm nghị sĩ được thành lập, đó là: Nhóm Nghị sĩ hữu nghị với các nước Lào, Trung Quốc, Cuba, Thái Lan, Pháp, Nhật Bản, Nga, Bỉ, Philíppin, Canađa, Hàn Quốc, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Mêhicô và Nghị viện châu Âu.

            Trong nhiệm kỳ khóa IX, có một số đoàn nghị sĩ các nước đã đến thăm và làm việc chính thức tại Quốc hội Việt Nam với danh nghĩa là đoàn nghị sĩ hữu nghị; đồng thời, Chủ tịch Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Việt - Nga đã thăm Nga vào tháng 6-1995, Chủ tịch Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Việt - Nhật thăm Nhật Bản vào tháng 7-1997; Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Côoét - Việt Nam, Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Pháp - Việt đã đến thăm Việt Nam tháng 10-1995 và tháng 10-1996.

            Có thể nói, toàn bộ hoạt động ngoại giao của Quốc hội Việt Nam trong giai đoạn này chủ yếu tập trung làm cho quốc tế hiểu rõ về sự nghiệp đổi mới của Việt Nam, đặc biệt là quá trình đổi mới chính trị, trong đó chú trọng đến đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở Việt Nam. Các cuộc đi thăm và làm việc của các đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam ra nước ngoài cũng như các cuộc làm việc của các đoàn đại biểu Quốc hội nước ngoài tại Việt Nam tại các diễn đàn song phương và đa phương đã góp phần bác bỏ luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc, vu cáo Việt Nam về vấn đề nhân quyền và dân chủ; xây dựng tình hữu nghị giữa Quốc hội Việt Nam và Quốc hội các nước, thúc đẩy quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và giáo dục.

            Chính từ hoạt động ngoại giao nghị viện, Quốc hội Việt Nam có điều kiện nghiên cứu kinh nghiệm về tổ chức bộ máy, quy trình xây dựng pháp luật và giám sát việc thực hiện pháp luật của các nước để có thể áp dụng ở Việt Nam. “Tiếng nói của đoàn Quốc hội Việt Nam trong các diễn đàn đa phương cũng như trong các cuộc tiếp xúc song phương ngày càng được coi trọng và đánh giá cao. Trên thực tế, hoạt động đối ngoại của Quốc hội ta đã phát triển theo nền ngoại giao nghị viện, vừa mang tính chất nhà nước, vừa mang tính nhân dân hỗ trợ cho ngoại giao Chính phủ, góp phần gặt hái những thành tựu đáng kể trên mặt trận đối ngoại của nước ta”[12] trong giai đoạn 1992-1997.

            Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, hoạt động đối ngoại của Quốc hội khóa IX đã phát triển theo chiều hướng ngày càng thiết thực và hiệu quả, góp phần đáng kể vào thành tựu đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, do công tác đối ngoại của Nhà nước nói chung và của Quốc hội nói riêng ngày càng lớn và phức tạp, trong quá trình triển khai thực hiện theo kế hoạch không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, đó là: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội chưa tranh thủ hết những điều kiện khách quan thuận lợi để triển khai mạnh mẽ hoạt động đối ngoại trong tình hình mới để có thể đạt được những thành tựu cao hơn. Việc thống nhất quản lý trong hoạt động đối ngoại được đề cập nhiều lần, nhưng ngay trong phạm vi Quốc hội cũng chưa thực hiện tốt. Công tác giám sát hoạt động đối ngoại đã được tiến hành cả ở trong và ngoài nước, nhưng hiệu quả đạt được chưa cao. Đặc biệt, Quốc hội chưa khai thác và phát huy được hết tiềm năng của đông đảo các đại biểu Quốc hội trong lĩnh vực công tác quan trọng này.

 

*

*      *

            Quốc hội khóa IX (1992-1997) được bầu ngày 19-7-1992, có 395 đại biểu trúng cử. Với 5 năm hoạt động (1992-1997), qua 11 kỳ họp, Quốc hội đóng vai trò quan trọng trong việc thể chế hóa Cương lĩnh, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội theo Hiến pháp năm 1992 và Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng nhằm tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới sâu sắc và toàn diện đất nước. Việc quy định công dân có quyền tự ứng cử đại biểu Quốc hội và quy định cụ thể về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1992 đánh dấu bước đổi mới quan trọng trong cơ chế bầu cử, tạo cơ sở pháp lý cần thiết bảo đảm phát huy quyền dân chủ của công dân, tạo điều kiện cho những người có đủ tiêu chuẩn thực hiện quyền tự ứng cử, cử tri lựa chọn, bầu vào Quốc hội, để họ có điều kiện đóng góp trí tuệ và khả năng của mình với Quốc hội, với đất nước.

            Trong nhiệm kỳ, Quốc hội tập trung thời gian, trí tuệ để đẩy mạnh hoạt động lập pháp, do đó đã có 36 luật, bộ luật và 43 pháp lệnh được ban hành. Nhiều đạo luật tạo cơ sở pháp lý hình thành môi trường ổn định và thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế được Quốc hội khóa IX ban hành như: Luật đất đai, Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật hợp tác xã, Luật phá sản doanh nghiệp, Luật công ty (sửa đổi), Luật doanh nghiệp tư nhân (sửa đổi), Luật khuyến khích đầu tư trong nước, các luật về thuế... Cùng với đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành nhiều pháp lệnh, trong đó đáng chú ý là Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nướcBà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnhƯu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng”. Nhìn chung, hoạt động lập pháp trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX được triển khai tích cực, mang lại hiệu quả cả về số lượng lẫn chất lượng văn bản; đã hướng trọng tâm vào việc phục vụ đổi mới cơ cấu kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống chính trị, bảo vệ và phát huy quyền dân chủ của công dân, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Ở mức độ khác nhau, các lĩnh vực của đời sống xã hội đã được Quốc hội quan tâm xây dựng và ban hành bằng văn bản pháp luật. Các luật, pháp lệnh được thông qua bảo đảm quan điểm cơ bản, đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Một hệ thống pháp luật bao gồm các lĩnh vực từ tổ chức bộ máy nhà nước đến kinh tế, ngân sách, quốc phòng, an ninh, các quyền công dân, khoa học, công nghệ và môi trường... phục vụ cho yêu cầu đổi mới được hình thành, phát huy tác dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ đa dạng của đời sống kinh tế, xã hội trên đất nước ta.

            Về hoạt động giám sát. Để từng bước khắc phục những hạn chế mặt yếu kém, Quốc hội khóa IX đã đẩy mạnh việc thực hiện chức năng giám sát và đã thu được những kết quả quan trọng. Hiệu quả và hiệu lực giám sát của Quốc hội được đánh giá bằng tác động của các quyết định, kết luận và kiến nghị của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội thông qua các hoạt động giám sát. Nội dung giám sát đã bao quát nhiều mặt và dần dần đi vào thực chất, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế, từng bước vững chắc đổi mới hệ thống chính trị. Các hình thức giám sát được cải tiến, mang lại hiệu quả thiết thực. Đặc biệt, từ năm 1994, các phiên chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội khóa IX đã được phát thanh và truyền hình trực tiếp, tạo không khí cởi mở, đối thoại giữa người hỏi và người trả lời, được nhân dân quan tâm theo dõi và hoan nghênh.

            Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội khóa IX đã thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề trọng đại để xây dựng, phát triển đất nước. Với việc thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ, kế hoạch 5 năm (1996-2000), Quốc hội đã thể hiện vai trò và trách nhiệm của mình trước định hướng phát triển lâu dài của đất nước. Đồng thời, Quốc hội cũng đã quyết định việc miễn nhiệm, bầu và phê chuẩn việc bổ nhiệm một số nhân sự cấp cao của Nhà nước; sáp nhập một số bộ, ngành; việc chia tách một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

            Trên cơ sở đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác quốc tế, Quốc hội khóa IX đã mở rộng hoạt động đối ngoại cả song phương lẫn đa phương. Trong quan hệ song phương, đối ngoại của Quốc hội được triển khai trên khắp các địa bàn châu Âu, châu Mỹ, Trung Đông và châu Phi, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á và châu Á, Thái Bình Dương. Về quan hệ đa phương, Quốc hội đã tích cực tham gia và bước đầu đóng góp thiết thực vào các hoạt động của ngoại giao nghị viện thế giới - một cơ chế vừa mang tính chất nhà nước, vừa mang tính nhân dân, đại diện cho lợi ích rộng rãi của các dân tộc và các xu thế chính trị khác nhau của các quốc gia. Kết quả hoạt động đối ngoại của Quốc hội khóa IX đã góp phần đáng kể vào thành tựu đối ngoại của Đảng và Nhà nước, làm cho quốc tế hiểu rõ về sự nghiệp đổi mới mà nhân dân ta đang tiến hành, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

            Điểm đáng lưu ý, trước đòi hỏi của công cuộc đổi mới, tổ chức của Quốc hội khóa IX đã được tăng cường một bước, sinh hoạt của Quốc hội ngày càng dân chủ thể hiện rõ nét nhất trong việc thảo luận, quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Trong sinh hoạt dân chủ, lề lối làm việc của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội được cải tiến, mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri được tăng cường thông qua hình thức duy trì và phát huy hiệu quả của các đợt tiếp xúc với cử tri trước và sau mỗi kỳ họp. Với nhận thức sâu sắc rằng, những thành tích của Quốc hội trong nhiệm kỳ khóa IX là do nhân dân mà có, những quyết định của Quốc hội chính là ý chí và nguyện vọng của nhân dân; là kết quả của sự lãnh đạo của Đảng; sự ủng hộ nhiệt tình, sự cổ vũ lớn lao của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân. Do đó, kết thúc nhiệm kỳ, khi đánh giá hiệu quả hoạt động của Quốc hội khóa IX, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh, nêu rõ: Cùng với toàn Đảng, toàn dân, các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, Quốc hội đã không ngừng phấn đấu, góp phần quan trọng vào những thành tựu đạt được sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng và 10 năm đổi mới của đất nước.

            Bên cạnh những kết quả đạt được, Quốc hội khóa IX còn một số tồn tại như: chưa có chiến lược lập pháp dài hạn; thiếu chương trình xây dựng pháp luật cả nhiệm kỳ; việc xây dựng chương trình hằng năm chưa thật chủ động; về nội dung còn thiếu sự đồng bộ, chưa thực sự ưu tiên các luật, pháp lệnh có nhu cầu cấp thiết ban hành. Trong hoạt động giám sát, nhiều lĩnh vực nóng bỏng về kinh tế, xã hội, thi hành pháp luật, nổi lên là nạn tham nhũng, buôn lậu ngày càng có chiều hướng gia tăng... tuy Quốc hội đã cố gắng giám sát nhưng hiệu quả chưa cao. Việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước còn nhiều hạn chế, nhất là trong việc dự toán và quyết định phân bổ thu chi ngân sách nhà nước; quyết định các công trình xây dựng cơ bản quan trọng; chính sách phát triển vùng dân tộc và miền núi... Về đối ngoại, Quốc hội khóa IX chưa tranh thủ những điều kiện khách quan, thuận lợi để triển khai mạnh mẽ hơn nữa hoạt động đối ngoại trong tình hình mới để có thể đạt được những thành tựu cao hơn, v.v..

            Có thể nói, với 5 năm hoạt động, thành tựu mà Quốc hội khóa IX đạt được là hết sức to lớn, nhưng vẫn còn những mặt hạn chế, tồn tại. Đó là cơ sở và tiền đề quan trọng để Quốc hội các khóa tiếp theo đúc kết kinh nghiệm, tích cực đổi mới tổ chức và hoạt động, xứng đáng với lòng mong mỏi của cử tri cả nước, xứng đáng là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

 

[1]. Đỗ Mười: Phát huy vai trò của Quốc hội xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, Sđd, tr.19.

[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.26.

[3]. Quốc hội khóa IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Báo cáo công tác của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội nhiệm kỳ khóa IX (1992-1997), Văn phòng Quốc hội xuất bản, Hà Nội, 1997, tr.6.

[4]. Báo cáo hoạt động giám sát qua các kỳ họp của Quốc hội và của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhiệm kỳ khóa IX (1992-1997), Văn phòng Quốc hội, tháng 9-1997.

[5]. Hội nghị Hội đồng nhân dân năm 1993 đã thảo luận, đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn có giá trị, góp phần chuẩn bị và hoàn chỉnh dự thảo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, xây dựng các pháp lệnh và quy chế liên quan đến Hội đồng nhân dân. Đến Hội nghị tháng 2-1997 đã thảo luận nhiều vấn đề quan trọng, cần thiết, góp thêm ý kiến vào việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, trong đó có hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân - Báo cáo công tác của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội nhiệm kỳ khóa IX (1992-1997), Văn phòng Quốc hội, tháng 9-1997.

[6]. Trong nhiệm kỳ khóa IX, Quốc hội đã thông qua 18 nghị quyết quan trọng về các vấn đề liên quan đến quốc kế dân sinh, về những vấn đề trọng đại của đất nước.

[7]. Quy định tại khoản 8, Điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992.

[8]. Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới giữa tỉnh Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa tại khu vực Đèo Cả - Vũng Rô, giao vịnh Vũng Rô cho tỉnh Phú Yên quản lý “thể hiện ý kiến kết luận của Bộ Chính trị khóa VI và Bộ Chính trị khóa VII về vấn đề này”, chấm dứt tình trạng tranh chấp triền miên giữa hai tỉnh trên trong một thời gian dài.

[9], 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.72, 72-73.

[10]. Lời phát biểu của Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh tại phiên bế mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa IX - Kỷ yếu của Quốc hội khóa IX - Kỳ họp thứ nhất, tập 1, tr.468.

[11]. Nguyễn Đình Bin (Chủ biên): Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.353.

[12]. Báo cáo công tác của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội, nhiệm kỳ khóa IX (1992-1997), Văn phòng Quốc hội xuất bản, Hà Nội, 1997, tr.206.