I- BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHÓA XI, QUỐC HỘI BẦU VÀ PHÊ CHUẨN NHÂN SỰ, TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CẤP CAO
Bước vào thế kỷ XXI, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, nhằm tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức đưa đất nước phát triển mạnh mẽ trong những năm đầu thế kỷ XXI, từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã diễn ra tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII, tổng kết 15 năm đổi mới và 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 - 2000), Đại hội khẳng định, đất nước “đã đạt những thành tựu to lớn và rất quan trọng”[1]. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; chính trị ổn định bất chấp sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu; an ninh, quốc phòng được giữ vững và tăng cường; từng bước phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn hóa, xã hội gây bức xúc trong nhân dân chậm được giải quyết. Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Tình trạng tham nhũng, suy thoái ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng.
Đại hội chủ trương: “Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình ban hành và hướng dẫn thi hành luật. Quốc hội làm tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyết định và phân bổ ngân sách nhà nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, trước mắt tập trung vào những vấn đề bức xúc như sử dụng vốn và tài sản nhà nước, chống tham nhũng, quan liêu”[2].
Tiếp nối tinh thần đổi mới tại Đại hội lần thứ IX của Đảng, nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức, bộ máy và hoạt động của Quốc hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006) chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc hội. Tổ chức lại một số ủy ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao”[3].
Thực hiện chủ trương của Đảng, căn cứ các quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã từng bước tích cực chuẩn bị và triển khai thực hiện kế hoạch bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI. Tại phiên họp tháng 1-2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 284/2002/NQ-UBTVQH10, ngày 26-1-2002 về việc công bố ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và thành lập Hội đồng bầu cử đại biểu Quốc hội. Ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI được chính thức ấn định là Chủ nhật, 19-5-2002. Hội đồng bầu cử sẽ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật về bầu cử và hết nhiệm vụ sau khi bàn giao hồ sơ cuộc bầu cử cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI.
Xác định cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI là sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng của đất nước, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm lựa chọn những đại biểu xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, ngày 25-1-2002, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 07-CT/TW Về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, nhấn mạnh vai trò quan trọng của Quốc hội khóa XI và nêu bật ý nghĩa chính trị to lớn của công tác bầu cử; đồng thời yêu cầu các cấp ủy Đảng, đảng đoàn, ban cán sự Đảng cần có kế hoạch chỉ đạo cụ thể việc chuẩn bị và tiến hành bầu cử, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2002. Tiếp đó, ngày 30-1-2002, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 02/2002/CT-TTg Về tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI. Theo đó, các tổ chức phụ trách bầu cử của 61 tỉnh, thành phố trong cả nước cũng nhanh chóng được thành lập và triển khai công việc theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội. Từ ngày 31-1 đến ngày 1-2-2002, Hội nghị toàn quốc về triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI do Bộ Chính trị triệu tập có ý nghĩa rất quan trọng trong việc lãnh đạo cuộc bầu cử trong cả nước và ở các địa phương. Đây là sự chuẩn bị cần thiết để bảo đảm cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI diễn ra an toàn, tiết kiệm và theo đúng luật định.
Theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, ngày 7-3-2002, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 296-NQ/2002/UBTVQH10 công bố số đơn vị bầu cử, số đại biểu Quốc hội được bầu, danh sách các đơn vị bầu cử và số đại biểu Quốc hội được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Căn cứ vào số lượng đại biểu Quốc hội được bầu, căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã trao đổi ý kiến với Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện các tổ chức chính trị - xã hội để dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng người tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội và đã hai lần điều chỉnh dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu Quốc hội.
Trên cơ sở điều chỉnh dự kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tiến hành hiệp thương ba lần để thỏa thuận về cơ cấu thành phần, số lượng người của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương và địa phương được bầu làm đại biểu Quốc hội và lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XI.
Việc lấy ý kiến cử tri ở nơi công tác và nơi cư trú đối với những người ứng cử đại biểu Quốc hội được tiến hành tích cực, khẩn trương và dân chủ. Với tinh thần trách nhiệm cao, đông đảo cử tri đã tham gia các cuộc tiếp xúc và đóng góp nhiều ý kiến xác đáng với những người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XI. Ý kiến cử tri đã được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp tổng hợp đầy đủ, nghiên cứu và xem xét khi hiệp thương, lựa chọn và lập danh sách những người ứng cử.
Căn cứ vào danh sách chính thức do Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Ủy ban bầu cử các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gửi đến, ngày 23-4-2002, Hội đồng bầu cử ban hành Nghị quyết số 134-NQ/HĐBC công bố danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XI tại 188 đơn vị bầu cử trong cả nước.
Ủy ban bầu cử và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các địa phương đã quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những người ứng cử thực hiện việc tiếp xúc cử tri, vận động bầu cử, báo cáo với cử tri chương trình hành động và dự kiến việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội của mình nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội. Tại các buổi tiếp xúc, cử tri nêu lên nhiều ý kiến, kiến nghị, mong muốn Quốc hội khóa XI tiếp tục phát huy vị trí, vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; đồng thời, đề nghị các đại biểu Quốc hội thường xuyên tiếp xúc cử tri, nắm bắt, phản ánh kịp thời ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội.
Danh sách những người ứng cử và danh sách cử tri đã được các Ban bầu cử tại các địa phương lập và niêm yết, bảo đảm đúng quy định của pháp luật.
Công tác thông tin tuyên truyền phục vụ bầu cử đại biểu Quốc hội được chuẩn bị chu đáo, đúng tiến độ và đạt kết quả tốt. Các hoạt động tuyên truyền được triển khai tích cực trong cả nước với nhiều hình thức phong phú đã trực tiếp góp phần nâng cao ý thức làm chủ và ý thức trách nhiệm của nhân dân đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, tạo không khí phấn khởi trong ngày hội lớn của nhân dân cả nước.
Công tác chỉ đạo bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội trong quá trình chuẩn bị và tiến hành bầu cử đã góp phần tích cực vào thành công của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI.
Trong quá trình triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử đã tổ chức 3 đợt kiểm tra giám sát, gồm 31 đoàn đi kiểm tra giám sát tại 57/61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, kể cả các nơi biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa. Qua các đợt kiểm tra, các đoàn đã trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn địa phương giải quyết hoặc có ý kiến kịp thời để giải quyết một số vấn đề cụ thể của địa phương, hoặc đã đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng bầu cử tạo điều kiện cho các địa phương thực hiện tốt các quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, như nói rõ quyền bầu cử, ứng cử của công dân, việc lập danh sách cử tri, quy trình vận động bầu cử...
Hội đồng bầu cử, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban bầu cử và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã nghiên cứu, xử lý kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân với tinh thần tôn trọng quyền dân chủ của công dân và bảo đảm các quy định của pháp luật. Đồng bào và chiến sĩ cả nước đã hăng hái tham gia việc chuẩn bị cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI.
Vẽ tranh cổ động tuyên truyền cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, tại huyện miền núi Mường Khương, tỉnh Lào Cai, tháng 4-2002.
Công nhân mỏ than Hà Lầm, tỉnh Quảng Ninh nhận phiếu bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XI, ngày 19-5-2002.
1. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, ngày 19-5-2002
Theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, sau một thời gian chuẩn bị tích cực, chu đáo và khẩn trương, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI được tiến hành vào ngày Chủ nhật 19-5-2002, đúng dịp kỷ niệm ngày sinh lần thứ 112 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạt được thắng lợi to lớn, bảo đảm yêu cầu dân chủ, đúng pháp luật, an toàn và tiết kiệm; 49.768.515 cử tri cả nước đã hăng hái đi bỏ phiếu, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, thực hiện trách nhiệm của công dân, trực tiếp tham gia xây dựng và củng cố chính quyền của dân, do dân và vì dân. Tỷ lệ cử tri đi bầu so với tổng số cử tri cả nước đạt 99,73%. Đây là tỷ lệ đạt được cao nhất từ trước đến nay, điều đó thể hiện tinh thần yêu nước và ý thức chính trị, khẳng định niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thành công của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI là sự tiếp tục quá trình đổi mới hệ thống chính trị và thực hiện công cuộc cải cách bộ máy nhà nước. Kết quả cuộc bầu cử quyết định chất lượng hoạt động của Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất theo tinh thần Luật bầu cử đại biểu Quốc hội được sửa đổi, bổ sung. Ngày 24-5-2002, Hội đồng bầu cử Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 217 NQ/HĐBC công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XI trong cả nước. Theo đó, tổng số đơn vị bầu cử trên cả nước là 188. Tổng số đại biểu Quốc hội được bầu là 498 người. Tổng số cử tri ghi trong danh sách 49.902.967 người. Tổng số cử tri đã đi bầu 49.768.515 người. Số cử tri vãng lai tham gia bầu cử là 133.374 người. Số phiếu hợp lệ là 49.560.669 phiếu. Tỷ lệ cử tri đi bầu so với tổng số cử tri là 99,73%.
Tổng số người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XI là 498 người, trong đó đại biểu Quốc hội khóa X tái cử: 135 người (27,11%), đại biểu Quốc hội ở các cơ quan Trung ương: 154 người (30,92%), đại biểu Quốc hội địa phương: 344 người (69,08%), đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số: 86 người (17,27%), đại biểu Quốc hội là phụ nữ: 136 người (27,31%), đại biểu Quốc hội trẻ tuổi: 56 người (11,24%), đại biểu Quốc hội có trình độ đại học và trên đại học: 465 người, đạt tỷ lệ 93,37%, trên đại học: 126 người, đạt tỷ lệ 25,30%), đại biểu Quốc hội là người ngoài Đảng: 51 người (10,24%), đại biểu Quốc hội là người tự ứng cử: 2 người (0,40%), đại biểu Quốc hội là chức sắc tôn giáo: 7 người (1,40%), đại biểu Quốc hội thuộc khối doanh nghiệp: 25 người (5,02%) trong đó, doanh nghiệp nhà nước có 20 người (4,02%), doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có 5 người (1,0%).
Nhìn chung, những người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XI đã hội tụ đủ tiêu chuẩn theo quy định. Cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội khóa XI về cơ bản đạt yêu cầu theo dự kiến. Đại biểu Quốc hội là phụ nữ, là người dân tộc thiểu số đạt tỷ lệ cao hơn khóa trước, đại biểu trẻ tuổi cũng đạt tỷ lệ khá; hầu hết đại biểu có trình độ đại học và trên đại học. Với thành phần, cơ cấu đại biểu được bầu, Quốc hội khóa XI đã “bao gồm mọi thành phần nhân dân, dân tộc, tôn giáo, nam nữ, nghề nghiệp, trong Đảng và ngoài Đảng, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân”[4].
Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng bầu cử đã đánh giá kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và thống nhất nhận định: “Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI đã đạt được thắng lợi to lớn và thành công tốt đẹp; bảo đảm dân chủ, đúng pháp luật, an toàn và tiết kiệm”. Do yêu cầu nhiệm vụ mới, số lượng đại biểu Quốc hội khóa XI so với khóa X tăng 48 đại biểu, đưa tổng số đại biểu lên 498 người. Việc tăng thêm số lượng đại biểu Quốc hội ở khóa XI đã tạo điều kiện bảo đảm mối quan hệ giữa cơ cấu đại biểu và tiêu chuẩn đại biểu. Quốc hội khóa XI đã thể hiện hợp lý hơn về cơ cấu giữa đại biểu các ngành, các giới, dân tộc, độ tuổi; giữa đại biểu công tác ở Trung ương và đại biểu hoạt động tại địa phương. Yêu cầu về tiêu chuẩn đại biểu được nâng cao và toàn diện hơn, số đại biểu có năng lực, trình độ nhiều hơn, bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ của người đại biểu, góp phần thiết thực vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội; đó chính là cơ sở để Quốc hội khóa XI có điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên, trong các khâu chuẩn bị cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI vẫn còn một số hạn chế, đó là: việc hướng dẫn về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách; về kê khai tài sản đối với những người ứng cử còn chậm, dẫn đến tình trạng nhiều địa phương lúng túng trong việc triển khai thực hiện. Trong quá trình hiệp thương giới thiệu người ứng cử, nhiều tỉnh, thành phố để số dư người ứng cử so với số đại biểu được bầu ở các đơn vị bầu cử quá ít, hạn chế việc lựa chọn đại biểu trong quá trình bầu cử. Công tác chỉ đạo chưa thật sâu sát đến từng tổ bầu cử nên đã phải tiến hành bầu cử lại ở khu vực bỏ phiếu số 3 (thôn Dương Lôi, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn) thuộc đơn vị bầu cử số 2, tỉnh Bắc Ninh.
Mặc dù còn một số hạn chế, nhưng kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI đã đạt được thắng lợi to lớn và thành công tốt đẹp. Điều đó thể hiện ý thức chính trị, trách nhiệm công dân, trình độ dân trí và sinh hoạt dân chủ của các tầng lớp nhân dân đã được nâng lên một bước. Kết quả đó thể hiện sự gắn bó và niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, tạo tiền đề để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoàn thành mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Toàn cảnh phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XI,
tổ chức tại Hội trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội, ngày 19-7-2002.
2. Quốc hội khóa XI bầu và phê chuẩn các cơ quan và các chức danh lãnh đạo bộ máy nhà nước
Trong khí thế thắng lợi của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, ngày 17-7-2002, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XI đã khai mạc trọng thể tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Tham dự phiên khai mạc có Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội khóa X Nguyễn Văn An, các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, các vị cán bộ cách mạng lão thành, nhiều vị đại biểu Quốc hội các khóa trước và đông đủ các vị đại biểu Quốc hội vừa mới trúng cử trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI. Đến dự phiên khai mạc còn có nhiều vị khách trong đoàn ngoại giao, đại diện các tổ chức quốc tế tại Hà Nội, đại diện các cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài nước.
Phát biểu tại kỳ họp, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh chỉ rõ: “Quốc hội khóa XI là Quốc hội đầu tiên của nước ta trong thế kỷ mới. Quốc hội khóa XI có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, vừa có vinh dự to lớn, vừa có trách nhiệm nặng nề trước vận mệnh của dân tộc ta trong những năm đầu của thế kỷ XXI”[5].
Với ý nghĩa đó, Tổng Bí thư yêu cầu Quốc hội cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ cấp bách về xây dựng Nhà nước mà Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã xác định.
Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng theo nguyên tắc: Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, hoàn toàn không có sự phân lập giữa các quyền này. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Việc cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải gắn liền với việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Hai là, tiến hành mạnh mẽ việc cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước: “...kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, làm tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thực hiện có hiệu quả quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước”[6].
Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa. Điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ. Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm, phẩm chất và năng lực của các cơ quan và cán bộ tư pháp.
Để nâng cao chất lượng và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động lập pháp của Quốc hội, Tổng Bí thư nhấn mạnh, cần có chương trình lập pháp dài hạn cho cả thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trên cơ sở đó, xây dựng chương trình kế hoạch lập pháp hằng năm và cả nhiệm kỳ. Đổi mới hơn nữa quy trình lập pháp bảo đảm việc xây dựng luật phải tuân thủ quy trình chặt chẽ, bao gồm nhiều công đoạn với nhiều chủ thể tham gia; đổi mới công tác lấy ý kiến nhân dân và các chuyên gia; thay đổi cách thức và nâng cao hiệu quả thông qua luật tại các kỳ họp Quốc hội.
Cùng với việc yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác lập pháp, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đề nghị Quốc hội khóa XI đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát. Trong đó, công tác giám sát tập trung vào những vấn đề bức xúc đang được nhân dân quan tâm và kỳ vọng. Đồng thời, tăng cường giám sát việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo của công dân và các kiến nghị của cử tri. Tăng cường các hình thức giám sát của Quốc hội trong và ngoài các kỳ họp; tập trung giám sát việc thực hiện lời hứa của các cơ quan nhà nước đối với các chất vấn của cử tri.
Nhằm thực hiện tốt chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Tổng Bí thư yêu cầu phải phấn đấu để Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, trên cơ sở những nguồn thông tin đầy đủ, phát huy trí tuệ, đầu tư công sức, thảo luận dân chủ, tìm ra phương án tối ưu, quyết định một cách thực chất các vấn đề về kế hoạch và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, các chương trình quốc gia, các dự án đầu tư lớn, các vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy và nhân sự cũng như các vấn đề quan trọng khác; đồng thời có chương trình và
kế hoạch đổi mới hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội, nhất là các hoạt động khảo sát thực tiễn, tiếp xúc với cử tri, với nhân dân; thu thập, phân tích thông tin để có cơ sở quyết định chính xác. Mỗi đại biểu Quốc hội dù ở cương vị công tác nào cũng phải đề cao trách nhiệm người đại biểu của nhân dân, liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, lắng nghe, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri, thu thập và phản ánh trung thực ý kiến của cử tri với Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan. Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn xã hội, theo trách nhiệm và quyền hạn do Hiến pháp quy định, đã, đang và sẽ tiếp tục chăm lo xây dựng Nhà nước và Quốc hội thật sự của dân, do dân và vì dân, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả”[7].
Phát biểu khai mạc kỳ họp, Chủ tịch Quốc hội khóa X Nguyễn Văn An khẳng định thắng lợi quan trọng của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI; nêu lên những thành tựu cơ bản của Quốc hội khóa X; đồng thời, xác định những nhiệm vụ quan trọng tại kỳ họp. Tiếp đó, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đọc Tờ trình Quốc hội về dự kiến danh sách Ủy ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội khóa XI. Với 99% số phiếu tán thành, Quốc hội đã biểu quyết thông qua danh sách Ủy ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội khóa XI gồm 18 ủy viên do ông Trần Đình Hoan làm Trưởng ban.
Căn cứ vào Điều 89 Hiến pháp 1992 và Điều 69 Luật tổ chức Quốc hội, căn cứ kết quả thẩm tra của Ủy ban thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội khóa XI, ngày 19-7-2002, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 01 NQ/2002/QH11, xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội của 498 vị đã được Hội đồng bầu cử công bố trúng cử trong cuộc bầu cử ngày 19-5-2002 theo biên bản tổng kết cuộc bầu cử ngày 24-5-2002 của Hội đồng bầu cử.
Nội dung quan trọng trong chương trình nghị sự của kỳ họp thứ nhất là Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các chức danh của các cơ quan của Quốc hội; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về thành lập Hội đồng Quốc phòng và An ninh; đồng thời quyết định một số vấn đề quan trọng khác nhằm tiếp tục đẩy mạnh quá trình đổi mới về tổ chức và cán bộ của bộ máy nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày 23-7-2002, sau khi nghe Chủ tịch Quốc hội khóa X Nguyễn Văn An đọc báo cáo kết quả trao đổi ở Đoàn đại biểu Quốc hội về chức danh Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI, Quốc hội đã tiến hành bỏ phiếu bầu các chức danh nói trên. Kết quả:
Chủ tịch và Phó Chủ tịch Quốc hội
Chủ tịch
Các Phó Chủ tịch
Các ủy viên
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
|
Nguyễn Văn An
Trương Quang Được
Nguyễn Phúc Thanh
Nguyễn Văn Yểu
Tráng A Pao
Lê Quang Bình
Trần Thị Tâm Đan
Vũ Đức Khiển
Nguyễn Đức Kiên
Vũ Mão
Bùi Ngọc Thanh
Nguyễn Thị Hoài Thu
Hồ Đức Việt
|
Tiếp sau đó, căn cứ tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giới thiệu nhân sự để Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch nước; căn cứ kết quả trao đổi ở Đoàn đại biểu Quốc hội, ngày 24-7-2002, Quốc hội đã nhất trí danh sách và bầu ông Trần Đức Lương giữ chức Chủ tịch nước; Quốc hội cũng đã trao đổi ở Đoàn về dự kiến nhân sự Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Ngày 25-7-2002, Quốc hội đã tiến hành bỏ phiếu bầu cử. Kết quả:
Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước
Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
|
Trần Đức Lương
Trương Mỹ Hoa
Nguyễn Văn Hiện
Hà Mạnh Trí
|
Ngày 29-7-2002, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An trình Quốc hội danh sách đề cử để Quốc hội bầu Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các ủy viên Hội đồng Dân tộc; bầu Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các ủy viên của các ủy ban của Quốc hội; Trưởng đoàn Thư ký và các thành viên của Đoàn Thư ký kỳ họp. Trên cơ sở trao đổi ý kiến tại các Đoàn đại biểu Quốc hội, ngày 30-7-2002, Quốc hội đã tiến hành bỏ phiếu bầu cử. Kết quả:
1. Hội đồng Dân tộc do ông Tráng A Pao làm Chủ tịch. Phó Chủ tịch gồm các ông, bà: Bùi Thị Bình, Mã Điền Cư, Huỳnh Đảm (Bảy Đảm), Yly Niê Kđăm, Nguyễn Thị Nương và 33 ủy viên.
2. Ủy ban Pháp luật do ông Vũ Đức Khiển làm Chủ nhiệm. Phó Chủ nhiệm gồm các ông, bà: Nguyễn Thị Bắc, Phan Trung Lý, Nguyễn Văn Thuận, Trần Thế Vượng và 29 ủy viên.
3. Ủy ban Kinh tế và Ngân sách do ông Nguyễn Đức Kiên làm Chủ nhiệm. Phó Chủ nhiệm gồm các ông, bà: Dương Thu Hương, Tào Hữu Phùng, Trịnh Huy Quách, Đặng Văn Thanh và 35 ủy viên.
4. Ủy ban Quốc phòng và An ninh do ông Nguyễn Phúc Thanh, Phó Chủ tịch Quốc hội kiêm Chủ nhiệm. Phó Chủ nhiệm gồm các ông Nguyễn Văn Khá, Nguyễn Kim Khanh và 35 ủy viên.
5. Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng do bà Trần Thị Tâm Đan làm Chủ nhiệm. Phó Chủ nhiệm gồm các ông, bà: Nguyễn Viết Chức, Lê Minh Hồng, Nguyễn Đình Hương, Trương Thị Mai và 32 ủy viên.
6. Ủy ban về Các vấn đề xã hội do bà Nguyễn Thị Hoài Thu làm Chủ nhiệm. Phó Chủ nhiệm gồm các ông, bà: Tôn Thất Bách, Trần Thị Minh Chánh, Lương Phan Cừ, Lê Văn Diêu, Đặng Như Lợi và 31 ủy viên.
7. Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường do ông Hồ Đức Việt làm Chủ nhiệm. Phó Chủ nhiệm gồm các ông: Trần Việt Hùng, Vũ Minh Mão, Nguyễn Văn Tri và 33 ủy viên.
8. Ủy ban Đối ngoại do ông Vũ Mão làm Chủ nhiệm. Phó Chủ nhiệm gồm các ông, bà: Ngô Anh Dũng, Tôn Nữ Thị Ninh, Nguyễn Thị Kim Thoa, Nguyễn Ngọc Trân và 29 ủy viên.
9. Đoàn Thư ký kỳ họp do ông Bùi Ngọc Thanh làm Trưởng Đoàn và 10 ủy viên.
Sau khi Quốc hội nhất trí thông qua việc đổi tên và thành lập mới một số bộ và cơ quan ngang bộ[8], ngày 8-8-2002, Quốc hội đã biểu quyết phê chuẩn việc bổ nhiệm các Phó Thủ tướng, các bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
Cùng ngày, Chủ tịch nước Trần Đức Lương trình Quốc hội phê chuẩn danh sách Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Quốc hội đã tiến hành bỏ phiếu. Kết quả:
Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng
Các Phó Thủ tướng
|
Phan Văn Khải
Nguyễn Tấn Dũng
Vũ Khoan
Phạm Gia Khiêm
|
Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Bộ trưởng Bộ Công an
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Bộ trưởng Bộ Tư pháp
Bộ trưởng Bộ Tài chính
Bộ trưởng Bộ Thương mại
Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải
Bộ trưởng Bộ Xây dựng
Bộ trưởng Bộ Thủy sản
Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Bộ trưởng Bộ Công nghiệp
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bộ trưởng Bộ Y tế
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông
Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Tổng Thanh tra Chính phủ
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục, Thể thao
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ
|
Phạm Văn Trà
Lê Hồng Anh
Nguyễn Dy Niên
Uông Chu Lưu
Nguyễn Sinh Hùng
Trương Đình Tuyển
Nguyễn Thị Hằng
Đào Đình Bình
Nguyễn Hồng Quân
Tạ Quang Ngọc
Phạm Quang Nghị
Nguyễn Minh Hiển
Lê Huy Ngọ
Hoàng Trung Hải
Võ Hồng Phúc
Trần Thị Trung Chiến
Hoàng Văn Phong
Mai Ái Trực
Đỗ Trung Tá
Đỗ Quang Trung
Quách Lê Thanh
Lê Đức Thúy
Nguyễn Danh Thái
Ksor Phước
Lê Thị Thu
Đoàn Mạnh Giao
|
Hội đồng Quốc phòng và An ninh
Chủ tịch
Phó Chủ tịch
Các ủy viên
|
Trần Đức Lương
Phan Văn Khải
Nguyễn Văn An
Phạm Văn Trà
Lê Hồng Anh
Nguyễn Dy Niên
|
Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội không chỉ có nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của mình nhằm đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, mà còn phải đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XI có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước trong suốt nhiệm kỳ. Với trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, việc bầu và phê chuẩn nhân sự cấp cao của Nhà nước đã được Quốc hội tiến hành nghiêm túc, dân chủ, đúng pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng về công tác nhân sự.
Chủ tịch nước
Trần Đức Lương
|
Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Văn An
|
Thủ tướng Chính phủ
Phan Văn Khải
|
Việc Quốc hội khóa XI bầu những đại biểu có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực và trí tuệ xứng đáng vào các chức danh lãnh đạo cấp cao của Nhà nước, phản ánh sinh động khối đại đoàn kết toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, góp phần quan trọng, đặt nền móng và tạo đà cho việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của Quốc hội trong nhiệm kỳ khóa XI - một nhiệm kỳ có nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Ngày 23-7-2002, sau khi được bầu lại làm Chủ tịch Quốc hội khóa XI, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã thay mặt các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội phát biểu bày tỏ niềm xúc động và chân thành cảm ơn sự tín nhiệm của các vị đại biểu Quốc hội và nhấn mạnh: “...với trách nhiệm là cơ quan thường trực của Quốc hội, tại kỳ họp đầu tiên của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI có nhiều ý nghĩa này, thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội và với cương vị Chủ tịch Quốc hội, chúng tôi xin nguyện cùng với các vị đại biểu Quốc hội trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kiên trì phấn đấu, đem hết khả năng và nghị lực, đề cao tinh thần trách nhiệm, đóng góp tích cực vào việc tiếp tục nâng cao chất lượng công tác lập pháp, hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát tối cao và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, để Quốc hội ngày càng xứng đáng với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân”[9].
Được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong bài phát biểu nhậm chức, Chủ tịch nước Trần Đức Lương bày tỏ lòng biết ơn về sự tin cậy, giao phó trách nhiệm của Quốc hội và nhân dân. Trên cương vị công tác của mình, Chủ tịch nước đã hứa trước Quốc hội: “nguyện phấn đấu hết sức mình phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm tròn nhiệm vụ của Chủ tịch nước theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”[10].
Nhận thức rõ vinh dự to lớn gắn liền với trách nhiệm nặng nề khi đảm nhận cương vị người đứng đầu Chính phủ, trong lời phát biểu nhậm chức, Thủ tướng Phan Văn Khải hứa trước Quốc hội: “tận trung với nước, tận hiếu với dân, mang hết tâm sức gánh vác trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó”2; đồng thời khẳng định quyết tâm sẽ cùng Chính phủ “tiếp tục đổi mới phương thức làm việc, đề cao trách nhiệm của tập thể và của từng người để tăng cường hiệu lực chỉ đạo, điều hành” và “dốc lòng đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”3.
Ngày 12-8-2002, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XI đã thành công tốt đẹp. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước mới do Quốc hội khóa XI bầu ra có ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình tiếp tục sự nghiệp đổi mới; tạo nền tảng vững chắc và động lực mới để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Để Quốc hội thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, cùng với việc kiện toàn tổ chức của Quốc hội, cần phải có chương trình kế hoạch đổi mới hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và của đại biểu Quốc hội, nhất là các hoạt động khảo sát thực tiễn, tiếp xúc với cử tri, thu thập và phân tích thông tin để có cơ sở quyết định chính xác những vấn đề quan trọng. Do đó, phát biểu tại phiên bế mạc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã nhấn mạnh về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong việc tích cực thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu nhân dân, góp phần cùng cơ quan nhà nước các cấp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong năm 2002, tạo tiền đề cho Quốc hội khóa XI hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Chủ tịch Quốc hội cũng kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài nêu cao truyền thống đoàn kết, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, lao động cần cù, thông minh và sáng tạo, phát huy mọi nguồn lực trong nước và hiệu quả hợp tác quốc tế, phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.18.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Sđd, tr.132.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.126.
[4]. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Kỷ yếu của Quốc hội khóa XI - Kỳ họp thứ nhất, tập I, (từ ngày 17-7 đến ngày
12-8-2002), Văn phòng Quốc hội, tr.45.
[5]. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Kỷ yếu của Quốc hội khóa XI - Kỳ họp thứ nhất, tập I, Tlđd, tr.45.
[6]. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Kỷ yếu của Quốc hội khóa XI - Kỳ họp thứ nhất, tập I, Tlđd, tr.47.
[7]. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Kỷ yếu của Quốc hội khóa XI - Kỳ họp thứ nhất, tập I, Tlđd, tr.53.
[8]. Ngày 5-8-2002, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XI đã nhất trí biểu quyết đổi tên Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thành Bộ Khoa học và Công nghệ; đổi tên Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ thành Bộ Nội vụ; đổi tên Ủy ban Dân tộc miền núi thành Ủy ban Dân tộc; thành lập mới Bộ Tài nguyên và Môi trường; thành lập mới Bộ Bưu chính, Viễn thông; thành lập mới Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em.
[9]. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Kỷ yếu của Quốc hội khóa XI - Kỳ họp thứ nhất, tập I, Tlđd, tr.73.
[10], 2, 3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Kỷ yếu của Quốc hội khóa XI - Kỳ họp thứ nhất, tập I, Tlđd, tr.69, 75, 76.