Lịch sử Quốc hội Việt Nam Tập 4

II- QUỐC HỘI KHÓA XII TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

1. Bối cảnh hoạt động của Quốc hội khóa XII

Quốc hội khóa XII hoạt động trong bối cảnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có nhiều thuận lợi, cơ hội lớn; đồng thời cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.

Trên bình diện thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi, phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Cùng với đó, cạnh tranh kinh tế, thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ giữa các nước ngày càng gay gắt. Khoa học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn chưa từng có.

Bên cạnh xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp. Các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn diễn ra gay gắt. Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế phải phối hợp giải quyết; khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn; sự gia tăng dân số cùng với các luồng dân di cư; tình trạng khan hiến nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị hủy hoại; khí hậu diễn biến phức tạp, kèm theo những thiên tai, dịch bệnh lớn; các tội phạm xuyên quốc gia ngày càng gia tăng.

Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đang có chiều hướng tích cực, nhưng luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, điển hình như việc tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước; sự bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ở một số nước đang đe dọa đến hòa bình và an ninh của khu vực.

Ở trong nước, công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử cả về lý luận và thực tiễn. Đặc biệt, trong những năm 2006-2010, nền kinh tế đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng nhanh. Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001-2005. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt tỷ trọng cao. Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD; GDP bình quân đầu người đạt 1.168USD. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển. Cùng với đó, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.

Cùng với kinh tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã hội có tiến bộ, bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Hơn nữa, công tác giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách với người có công, chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, thể dục, thể thao ngày càng mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” từng bước đi vào chiều sâu.

Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược, xung yếu, phức tạp. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai rộng rãi. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được củng cố, xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm tốt vai trò tham mưu, góp phần chủ động phòng ngừa, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, hoạt động gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các hoạt động cơ hội chính trị, các loại tội phạm hình sự, nhất là tội phạm nguy hiểm, có tổ chức, tội phạm ma túy, tội phạm có yếu tố nước ngoài...

Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo thế và lực mới của đất nước. Việt Nam đã đẩy mạnh phát triển quan hệ với các nước láng giềng; thiết lập và nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng; tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và quốc tế; đảm nhiệm tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; đóng góp quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng Liên nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA). Đồng thời, Việt Nam đã thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế; đối thoại cởi mở, thẳng thắn về tự do, dân chủ, nhân quyền. Giai đoạn này, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); đồng thời, ký kết Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng; mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác; góp phần quan trọng vào việc tạo dựng và mở rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư của Việt Nam, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tranh thủ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các nguồn tài trợ quốc tế khác.

Ngoài những thành tựu quan trọng trên, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tiếp tục có sự tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thu được nhiều kết quả trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đặc biệt, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phíLuật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ đạo tích cực, đạt một số kết quả. Trong đó, Quốc hội có bước đổi mới quan trọng, từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, tăng cường đại biểu chuyên trách; thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; ngày càng dân chủ hơn; tranh luận, thảo luận một cách thẳng thắn, thiết thực; mở rộng chất vấn; tăng cường lắng nghe và tiếp xúc cử tri. Nhờ vậy, hiệu quả và hiệu lực được nâng lên, được nhân dân quan tâm nhiều hơn, hoan nghênh và đánh giá cao.

Nhìn chung, những kết quả đạt được đã đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để đất nước tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn cách mạng mới.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, Việt Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập. Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước; một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch đề ra. Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, môi trường có nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước. Sự phân hóa giàu - nghèo ngày càng tăng; thiên tai, dịch bệnh xảy ra thường xuyên ở nhiều nơi.

Thực tế đó, đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng được một môi trường hòa bình, ổn định, một nền kinh tế phát triển, quốc phòng, an ninh vững mạnh, một chiến lược, định hướng đúng đắn để tận dụng thời cơ và thuận lợi, vượt qua khó khăn thách thức, huy động tốt mọi nguồn lực đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là yêu cầu và trách nhiệm nặng nề đặt ra đối với Quốc hội trong nhiệm kỳ khóa XII trong điều kiện thời gian hoạt động ngắn hơn do rút ngắn một năm (từ 5 năm còn 4 năm) để phù hợp với nhiệm kỳ đại hội Đảng và nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân các cấp. Thực tế đó đòi hỏi Quốc hội khóa XII phải thống nhất ý chí, thống nhất hành động, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trên các lĩnh vực lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, hoạt động đối ngoại; cải tiến mạnh mẽ phương thức làm việc, tăng cường phối hợp công tác, góp phần xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Nắm bắt thời cơ và thách thức, từ năm 2007 đến năm 2011, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội khóa XII đã kế thừa, phát huy những thành quả, những bài học kinh nghiệm của Quốc hội các khóa trước, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, đạt được nhiều kết quả quan trọng, đóng góp to lớn vào những thành tựu chung của đất nước.

2. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo tiền đề đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4-2006), Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra mục tiêu và phương hướng tổng quát 5 năm 2006-2010: “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại[1]. Nhằm góp phần hoàn thành mục tiêu trên, đối với Quốc hội, Đảng yêu cầu phải: “Tổ chức lại một số ủy ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội”2.

Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có 18 thành viên, gồm Chủ tịch, 4 Phó Chủ tịch và 13 ủy viên. So với nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, cơ cấu, tổ chức của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội khóa XII có sự thay đổi. Từ cuối Quốc hội khóa XI, số lượng các ủy ban đã được tăng lên với việc thành lập mới Ủy ban Tư pháp và Ủy ban Tài chính và Ngân sách trên cơ sở Ủy ban Pháp luật, Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội. Việc tăng thêm ủy ban đã giúp giảm tải công việc và chuyên môn hóa hoạt động của Quốc hội. Các thành viên Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội được bố trí tương đối hợp lý, gồm những đại biểu có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm hoạt động Quốc hội, hoặc được điều chuyển từ các cơ quan, tổ chức hữu quan khác trong hệ thống chính trị. Bộ phận Thường trực Hội đồng Dân tộc, thường trực các ủy ban được củng cố và tăng cường gồm những đại biểu Quốc hội có uy tín, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn.

Điểm mới của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII là số lượng đại biểu chuyên trách được tăng cường với 145 đại biểu, chiếm 29,41% tổng số đại biểu Quốc hội. Việc tăng thêm số đại biểu chuyên trách tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc sắp xếp, bố trí cán bộ, kiện toàn bộ máy của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban và các đoàn đại biểu Quốc hội. Các vị đại biểu Quốc hội chuyên trách ngày càng khẳng định rõ vai trò là lực lượng nòng cốt trong các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đặc biệt là trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để nâng cao năng lực lập pháp của Quốc hội, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh”[2].

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, hoạt động lập pháp được đẩy mạnh, góp phần quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, thực hiện quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân. Nhằm thể chế hóa Cương lĩnh chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, trong nhiệm kỳ XII, Quốc hội đã nỗ lực phấn đấu xây dựng hệ thống pháp luật có nhiều tiến bộ cả về số lượng, chất lượng và quy trình, thủ tục; cơ bản đáp ứng được yêu cầu đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước.

Với quyết tâm đổi mới và nâng cao chất lượng lập pháp một cách toàn diện, Quốc hội khóa XII sớm xác định kế hoạch lập pháp dài hạn, trên cơ sở đó thông qua Nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của cả nhiệm kỳ và hằng năm, tạo thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức hữu quan có điều kiện về thời gian để chủ động chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh theo sự phân công.

Tại phiên họp thứ hai và thứ ba (tháng 9, tháng 10-2007), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận và quyết định dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007-2011) và năm 2008. Và, tại kỳ họp thứ hai, ngày 21-11-2007, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 11/2007/QH12 về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007-2011) và năm 2008[3], gồm 128 dự án luật, pháp lệnh, trong đó có 93 dự án thuộc Chương trình chính thức (83 dự án luật, 10 dự án pháp lệnh) và 35 dự án luật thuộc Chương trình chuẩn bị. Tuy nhiên, để phù hợp với thực tế, trong nhiệm kỳ, Quốc hội tiếp tục bổ sung chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội.

Ngày 15-11-2008, tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 27/2008/QH12 về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 và bổ sung chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007-2011); bổ sung 12 dự án, trong đó có 6 dự án luật và 6 dự án pháp lệnh[4] vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII.

Ngày 17-6-2009, tại kỳ họp thứ năm, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 31/2009/QH12 về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 và bổ sung chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007-2011); bổ sung 2 dự án luật[5] vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII.

Tại kỳ họp thứ bảy, ngày 19-6-2010, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 48/2010/QH12 về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011, điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 và bổ sung chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII; bổ sung 2 dự án luật[6] vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII.

Ngoài ra, vào các năm 2009, 2010, Ủy ban Thường vụ Quốc hội còn thông qua hai nghị quyết, đưa vào chương trình một số dự án luật, pháp lệnh.

Để thực hiện có hiệu quả Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII, Quốc hội đã đề ra các giải pháp lớn:

Một là, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các cơ quan, tổ chức có quyền trình dự án luật, pháp lệnh sớm thành lập hoặc củng cố ban soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh; đổi mới quy trình chuẩn bị, xem xét dự án luật, pháp lệnh, dành thời gian hợp lý để thảo luận về các dự án; giữ mối quan hệ thường xuyên với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội trong công tác xây dựng pháp luật.

Hai là, cơ quan soạn thảo, cơ quan tổ chức trình dự án luật, pháp lệnh có kế hoạch bảo đảm thực hiện đúng quy trình, tiến độ và chất lượng chuẩn bị dự án; nghiêm túc thực hiện các quy định của pháp luật về thời hạn gửi dự án luật, pháp lệnh đến Chính phủ, cơ quan thẩm tra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội.

Ba là, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội chủ động phối hợp chặt chẽ với cơ quan soạn thảo, cơ quan, tổ chức trình dự án luật, pháp lệnh nhằm nâng cao chất lượng thẩm tra; các đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội dành thời gian thỏa đáng để nghiên cứu, tổ chức thảo luận, cho ý kiến hoàn thiện dự án luật, pháp lệnh.

Bốn là, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có biện pháp bảo đảm triển khai thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; tập trung chỉ đạo việc chuẩn bị, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo luật, pháp lệnh; bảo đảm để các dự án trình thông qua được chuẩn bị kỹ cả về nội dung và kỹ thuật văn bản.

Năm là, tiếp tục củng cố bộ máy giúp việc về công tác xây dựng pháp luật của Chính phủ, các bộ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội đủ mạnh để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao; có kế hoạch thu hút các luật gia, chuyên gia, nhà khoa học vào quá trình soạn thảo, thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo luật, pháp lệnh.

Thực hiện tốt các giải pháp nêu trên, trong 4 năm (2007-2011), Quốc hội khóa XII đã thông qua 67 luật,
13 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua 14 pháp lệnh và 11 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật, trong đó phần lớn các văn bản được ban hành mới, hoặc sửa một cách toàn diện. Nội dung được điều chỉnh trong các đạo luật liên quan hầu hết đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tổ chức bộ máy nhà nước, hành chính, dân sự, hình sự, tư pháp. Đặc biệt, một số quan hệ kinh tế quan trọng, phức tạp, nhạy cảm vẫn còn khoảng trống chưa có luật điều chỉnh như: quản lý và sử dụng tài sản nhà nước; quản lý nợ công; trưng mua, trưng dụng tài sản; thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế tài nguyên; thuế thu nhập cá nhân đã được Quốc hội khóa XII dành nhiều thời gian, trí tuệ, công sức xây dựng và ban hành. Đồng thời, Quốc hội cũng quan tâm sửa đổi, bổ sung kịp thời một số chế định pháp luật không còn phù hợp thuộc các lĩnh vực như: ngân hàng; tín dụng; thuế; đầu tư xây dựng cơ bản; phòng, chống tham nhũng; quốc tịch; giao thông đường bộ; xuất bản; sở hữu trí tuệ để đáp ứng nhu cầu hội nhập, phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Trong số các đạo luật được Quốc hội khóa XII ban hành từ năm 2007 đến năm 2011, các luật điều chỉnh lĩnh vực kinh tế chiếm số lượng khá lớn, với 15 luật và 1 nghị quyết. Cụ thể:

Tại kỳ họp thứ ba, ngày 3-6-2008, Quốc hội đã thông qua Luật quản lý và sử dụng tài sản nhà nước, nhằm phát huy cao độ và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, trong đó tài sản nhà nước là nguồn lực to lớn và đầy tiềm năng. Đây là lĩnh vực cần phải có luật điều chỉnh để bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững. Hơn nữa, việc xây dựng và ban hành Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước là một nội dung quan trọng trong việc thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, góp phần triển khai đồng bộ với Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phíLuật phòng, chống tham nhũng.

Tiếp đó, nhằm luật hóa và thống nhất các quy phạm pháp luật hiện hành về nợ công để bảo đảm huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, quản lý nợ an toàn, hiệu quả, tại kỳ họp thứ năm, ngày 17-6-2009, Quốc hội đã thông qua Luật quản lý nợ công. Việc ban hành Luật tạo khung pháp lý để nâng cao hiệu quả quản lý, xác định rõ các nội dung quản lý chủ đạo như phạm vi quản lý nợ công, mục đích vay nợ, trách nhiệm trả nợ, tổ chức quản lý nợ tập trung và thống nhất, nghĩa vụ, quyền hạn của các cơ quan và đưa ra các nguyên tắc chính nhằm chuẩn hóa quy trình vay, trả nợ.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến trưng mua, trưng dụng tài sản. Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành mới chỉ quy định một số nội dung có liên quan đến tài sản thuộc đối tượng trưng mua, trưng dụng; thẩm quyền quyết định trưng mua, trưng dụng và các trường hợp được thực hiện trưng mua, trưng dụng; còn nguyên tắc, hình thức quyết định, trình tự thủ tục thực hiện; cơ chế thanh toán và xử lý vi phạm chưa được quy định cụ thể. Do đó, tại kỳ họp thứ ba, ngày 3- 6-2008, Quốc hội đã thông qua Luật trưng mua, trưng dụng tài sản. Luật quy định về việc trưng mua, trưng dụng tài sản; quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc trưng mua, trưng dụng tài sản; quyền và nghĩa vụ của người có tài sản trưng mua, trưng dụng; quyền và nghĩa vụ của người khác có liên quan đến việc trưng mua, trưng dụng tài sản.

Đối với việc phát triển hệ thống ngân hàng, sau 10 năm thực hiện Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc hình thành cơ sở pháp lý để đổi mới tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, đặc biệt là thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc gia và thanh tra, giám sát có hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, quá trình thực hiện Luật cho thấy một số nội dung quy định của Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đối với việc xây dựng Ngân hàng nhà nước trong điều kiện mới. Do đó, tại kỳ họp thứ bảy, ngày 16-6-2010, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam (sửa đổi)[7]. Việc sửa đổi Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam là một yêu cầu cấp bách, nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật; đồng thời, việc sửa đổi còn nhằm thể chế hóa những chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng, Nhà nước, tạo điều kiện tiếp tục đẩy nhanh cải cách, đổi mới về tổ chức, hoạt động của Ngân hàng nhà nước.

Bên cạnh Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày 12-12-1997, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-1998 và được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 20/2004/QH11, ngày 15-6-2004, quy định tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tổng kết, đánh giá qua hơn 10 năm thực hiện các quy định của Luật các tổ chức tín dụng cho thấy, Luật đã có những đóng góp quan trọng trong việc tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luật các tổ chức tín dụng đã bộc lộ một số hạn chế, cản trở việc tiếp tục đổi mới và phát triển của hệ thống tổ chức tín dụng cũng như yêu cầu nâng cao khả năng quản lý an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Xuất phát từ thực tiễn đó, tại kỳ họp thứ bảy, ngày 16-6-2010, Quốc hội đã thông qua Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Việc sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng là một yêu cầu cấp bách nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật và góp phần nâng cao công tác quản trị, điều hành hệ thống ngân hàng.

Cũng liên quan đến lĩnh vực kinh tế, thuế tài nguyên là một trong những công cụ tài chính, thể hiện vai trò sở hữu nhà nước đối với tài nguyên quốc gia và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên của các tổ chức, cá nhân. Trước đó, thuế tài nguyên được thực hiện theo Pháp lệnh thuế tài nguyên (năm 1998)Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp lệnh thuế tài nguyên (năm 2008). Quá trình thực hiện Pháp lệnh thuế tài nguyên về cơ bản đạt được mục tiêu đặt ra khi ban hành Pháp lệnh là nhằm góp phần bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả, góp phần bảo vệ môi trường và bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, để khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, tại kỳ họp thứ sáu, ngày 25-11-2009, Quốc hội đã thông qua Luật thuế tài nguyên thay thế cho Pháp lệnh thuế tài nguyên, nhằm bảo đảm xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tiễn và các luật có liên quan.

Bên cạnh những luật trên, trong nhiệm kỳ 2007-2011, Quốc hội còn thông qua một số luật thuộc lĩnh vực kinh tế như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dầu khí; Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật nhà ở và Điều 121 của Luật đất đai; Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; Luật thuế thu nhập cá nhân; Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi); Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi); Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản;
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xây dựng; sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đấu thầu; sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo vệ môi trường; sửa đổi Điều 170 của Luật doanh nghiệp; sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai và Luật nhà ở; Luật kiểm toán độc lập.

Đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua dự án luật tại kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XII, ngày 29-3-2011

Đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua dự án luật tại kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XII, ngày 29-3-2011.

Ngoài ra, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã thông qua một số nghị quyết và pháp lệnh về lĩnh vực kinh tế như: Nghị quyết về việc miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp; Nghị quyết về việc sửa đổi Nghị quyết 295/2007/UBTVQH12, ngày 28-9-2007 về việc ban hành biểu thuế xuất khẩu theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất đối với từng nhóm hàng, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và khung thuế suất ưu đãi đối với từng nhóm hàng; Nghị quyết về việc ban hành biểu mức thuế suất thuế tài nguyên; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 6 Pháp lệnh thuế tài nguyên...

Cùng với các luật thuộc lĩnh vực kinh tế, các luật thuộc lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, hành chính, dân sự, hình sự, tư pháp cũng được Quốc hội tập trung thông qua trong nhiệm kỳ khóa XII. Điển hình như, Luật phòng, chống tham nhũng được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ tám thông qua ngày 29-11-2005 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-6-2006. Quá trình triển khai thực hiện Luật tại các cơ quan, tổ chức ở Trung ương và địa phương đã đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, do yêu cầu thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng của đất nước và để tăng cường hơn nữa công tác phòng, chống tham nhũng ở các địa phương; đồng thời, để phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Quốc hội mới được ban hành, một số nội dung của Luật phòng, chống tham nhũng cần phải được sửa đổi, bổ sung. Do đó, tại kỳ họp thứ nhất, ngày 4-8-2007, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng, góp phần đưa công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ngày càng đi vào chiều sâu, mang lại hiệu quả thiết thực.

Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nền hành chính trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với xu thế chuyển đổi sang nền hành chính phục vụ, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, việc ban hành Luật cán bộ, công chức là hết sức cần thiết. Trên tinh thần đó, tại kỳ họp thứ tư, ngày 13-11-2008, Quốc hội thông qua Luật cán bộ, công chức. Luật ra đời tạo cơ sở pháp lý và có giá trị cao, nhằm xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới; phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, công chức và thể hiện được chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài của Đảng và Nhà nước.

Đối với các vấn đề thuộc văn bản quy phạm pháp luật, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2002 đã trực tiếp góp phần xác lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động lập pháp, lập quy, đưa công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ngày càng đi vào nề nếp. Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn một số tồn tại, hạn chế về việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; về soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật; về quy trình thảo luận, xem xét, thông qua dự thảo văn bản của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; về vấn đề áp dụng văn bản quy phạm pháp luật. Trước tình hình đó, tại kỳ họp thứ ba, ngày 3-6-2008, Quốc hội đã thông qua Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Luật ra đời khắc phục được những hạn chế và vướng mắc phát sinh, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị và một số cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Đồng thời, với việc thông qua Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, một số khâu trong quy trình lập pháp của Quốc hội có sự thay đổi, bảo đảm khoa học, dân chủ và chặt chẽ hơn.

Trong lĩnh vực hình sự, Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ sáu thông qua ngày 21-12-1999 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2000, đã góp phần quan trọng vào việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đấu tranh phòng, chống tội phạm; đồng thời góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, qua 8 năm thi hành, Bộ luật hình sự đã bộc lộ nhiều bất cập, đòi hỏi phải được khắc phục. Theo đó, tại kỳ họp thứ năm, ngày 19-6-2009, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong áp dụng luật và để thực hiện cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành thống nhất các quy định của Bộ luật hình sự.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác thi hành án, năm 2004 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thi hành án dân sự. Kết quả, sau hơn 3 năm thực hiện Pháp lệnh cho thấy, nhiều quy định về thủ tục thi hành án đã thể hiện được quan điểm cải cách tư pháp, cải cách hành chính, phù hợp với sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, tháo gỡ kịp thời một số vướng mắc trong công tác thi hành án dân sự, góp phần từng bước nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, tại kỳ họp thứ tư, ngày 14-11-2008, Quốc hội đã thông qua Luật thi hành án dân sự thay thế Pháp lệnh thi hành án dân sự. Luật ra đời góp phần tạo chuyển biến cơ bản trong công tác thi hành án dân sự, khắc phục tình trạng tồn đọng án kéo dài; nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án, kỷ cương phép nước và tính nghiêm minh của pháp luật; bảo vệ tốt hơn quyền của người được thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của trọng tài thương mại.

Từ thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra và thực tiễn thi hành cho thấy, pháp luật trong lĩnh vực này còn nhiều bất cập, chưa đầy đủ và đồng bộ, thiếu cụ thể và thiếu tính khả thi. Do đó, tại kỳ họp thứ năm, ngày 18-6-2009, Quốc hội đã thông qua Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước, tạo cơ sở pháp lý mới, đồng bộ, hiệu quả để người bị thiệt hại thực hiện tốt hơn quyền được bồi thường của mình đối với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra và Nhà nước thực hiện tốt hơn trách nhiệm của mình trước công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Sau 25 năm đổi mới, đến năm 2010, Việt Nam vẫn chưa có Luật tố tụng hành chính mà chỉ có Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Pháp lệnh này được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa IX thông qua ngày 21-5-1996, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-1996; được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất ngày 25-12-1998 và sửa đổi, bổ sung lần thứ hai ngày 5-4-2006. Mặc dù đã hai lần sửa đổi, bổ sung, nhưng thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính cho thấy các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã bộc lộ những hạn chế làm giảm hiệu quả giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án nhân dân, gây trở ngại cho người dân khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Từ thực tiễn đó, tại kỳ họp thứ tám, ngày 24-11-2010, Quốc hội thông qua Luật tố tụng hành chính. Việc ban hành Luật có ý nghĩa quan trọng, góp phần tích cực vào việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

Ngoài những luật trên, trong nhiệm kỳ khóa XII, Quốc hội còn thông qua một số luật và nghị quyết liên quan đến các lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, hành chính, dân sự, hình sự và tư pháp như: Luật quốc tịch Việt Nam (sửa đổi); Luật lý lịch tư pháp; Luật nuôi con nuôi; Luật thi hành án hình sự; Luật đặc xá; Luật trọng tài thương mại; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự;...

Theo sự phát triển chung của đất nước trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội, khoa học, công nghệ, môi trường tiếp tục có những bước phát triển, đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Đáp ứng yêu cầu đó, trong nhiệm kỳ khóa XII, Quốc hội thông qua 25 luật, 1 nghị quyết thuộc các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội, khoa học, công nghệ, môi trường. Đây là các lĩnh vực chiếm số lượng luật lớn nhất được Quốc hội khóa XII thông qua tại 9 kỳ họp.

Về lĩnh vực văn hóa, Luật xuất bản được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 3 -12-2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2004. Sau gần 3 năm thi hành, luật tháo gỡ được nhiều vấn đề vướng mắc trong hoạt động xuất bản, tạo bước ngoặt mới cho sự phát triển của ngành. Tuy nhiên, với việc Việt Nam gia nhập công ước Berne và trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), một số quy định của Luật xuất bản không còn phù hợp với những cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực này. Đặc biệt, việc chuyển đổi chức năng quản lý nhà nước đối với một số bộ theo cơ cấu tổ chức mới của Chính phủ cũng đặt ra yêu cầu thay đổi tên gọi của cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực xuất bản. Trước yêu cầu đó, tại kỳ họp thứ ba, ngày 3-6-2008, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xuất bản; đáp ứng ngày càng tốt hơn công tác xuất bản trong bối cảnh đất nước hội nhập và phát triển.

Cùng với lĩnh vực xuất bản, Luật di sản văn hóa được Quốc hội khóa X thông qua ngày 29-6-2001, có hiệu lực từ ngày 1-1-2002, đã tạo cơ sở pháp lý để đẩy mạnh sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của Việt Nam. Trong 7 năm thi hành, Luật di sản văn hóa đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến các hoạt động văn hóa, xã hội trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phù hợp với yêu cầu bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Bên cạnh những kết quả đạt được, Luật di sản văn hóa còn bộc lộ một số hạn chế, ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trong tình hình mới. Xuất phát từ thực tế đó, tại kỳ họp thứ năm, ngày 18-6-2009, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước; bảo đảm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong lĩnh vực giáo dục, Luật giáo dục được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 14-6-2005 (thay thế Luật giáo dục năm 1998), tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt động giáo dục. Qua 3 năm thực hiện, Luật giáo dục góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục, nâng cao trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, một số điểm quy định trong luật chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tiễn, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung cho rõ ràng hơn. Vì vậy, tại kỳ họp thứ sáu, ngày 25-11-2009, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục. Việc sửa đổi, bổ sung kịp thời một số quy định của Luật giáo dục đã tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn; đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục.

Đối với những vấn đề xã hội, bảo hiểm y tế là loại hình bảo hiểm mang ý nghĩa nhân đạo, có tính chia sẻ cộng đồng sâu sắc, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu công bằng xã hội trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Với mục đích nâng cao chất lượng trong việc thực hiện chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước, tại kỳ họp thứ tư, ngày 14-11-2008, Quốc hội thông qua Luật bảo hiểm y tế, trong đó quy định rõ một số chế độ, chính sách bảo hiểm y tế, bao gồm đối tượng, mức đóng, trách nhiệm và phương thức đóng bảo hiểm y tế.

Một vấn đề xã hội được đông đảo nhân dân quan tâm đó là tệ nạn ma túy ngày càng phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống xã hội và sự phát triển chung của đất nước. Trên thực tế, Luật phòng, chống ma túy được Quốc hội khóa X thông qua ngày 9-12-2000, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-6-2001. Các quy định của Luật phòng, chống ma túy đã thể hiện sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh với tệ nạn ma túy nhằm ngăn chặn, hạn chế, khắc phục tình trạng nghiện các chất ma túy, tội phạm về ma túy đi đến loại trừ ma túy ra khỏi đời sống xã hội. Qua gần 7 năm thực hiện Luật phòng, chống ma túy năm 2000, công tác phòng, chống ma túy đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo được chuyển biến tích cực từ công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về phòng, chống ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy; đấu tranh có hiệu quả hơn với tội phạm về ma túy; tổ chức cai nghiện cho người nghiện ma túy... Tuy nhiên, tệ nạn ma túy ở Việt Nam còn diễn biến phức tạp và nghiêm trọng. Hiệu quả các hoạt động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn để giảm cung, giảm cầu và giảm tác hại trong phòng, chống ma túy còn hạn chế. Trước tình hình đó, tại kỳ họp thứ ba, ngày 3-6-2008, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy; tạo cơ sở pháp lý cụ thể hơn để xác định và nâng cao nhận thức trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống ma túy; huy động sức mạnh tổng hợp, tạo sự đồng thuận của toàn xã hội; sử dụng các biện pháp đồng bộ, kiểm soát, ngăn chặn có hiệu quả nguồn ma túy nhập lậu vào Việt Nam; đặc biệt là việc tổ chức cai nghiện cho tất cả người nghiện ma túy.

Ngoài những yếu tố trên, một vấn đề khác được cả xã hội quan tâm đó là chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người cao tuổi. Bởi trên thực tế, hoạt động của người cao tuổi trong tiến trình xây dựng đất nước đã phát triển sâu rộng, góp phần ổn định xã hội, đề cao các giá trị nhân văn truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, việc chăm sóc và phát huy vai trò của người cao tuổi phải trên cơ sở pháp lý cơ bản, toàn diện, vừa đáp ứng được nhu cầu trước mắt, đồng thời có giá trị cho sự phát huy lâu dài. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, tại kỳ họp thứ sáu, ngày 23-11-2009, Quốc hội thông qua Luật người cao tuổi. Việc xây dựng và ban hành Luật người cao tuổi là cần thiết, nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về hoạt động chăm sóc và phát huy vai trò của người cao tuổi, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về người cao tuổi, khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc thực thi Chương trình hành động Mađrít mà Việt Nam là thành viên tham gia.

Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là những năm gần đây, khoa học, kỹ thuật hạt nhân được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, góp phần vào sự phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Nhưng trên thực tế, thực trạng yếu kém và thiếu thốn về hạ tầng kỹ thuật, tài chính, nguồn nhân lực và đặc biệt là cơ sở pháp lý chưa đầy đủ đã khiến cho việc nghiên cứu và ứng dụng năng lượng nguyên tử chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Mặc dù Việt Nam đã có lộ trình chiến lược và kế hoạch tổng thể ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020, nhưng để đạt được các mục tiêu đã đề ra của chiến lược, để có thể xây dựng và vận hành an toàn nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam trong thập kỷ tiếp theo, đưa ngành năng lượng nguyên tử thực sự trở thành ngành kinh tế, kỹ thuật mũi nhọn phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển đất nước và hội nhập, việc xây dựng và ban hành Luật năng lượng nguyên tử như một đạo luật chuyên ngành thống nhất điều chỉnh toàn diện các vấn đề liên quan trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử là hết sức cần thiết. Do vậy, tại kỳ họp thứ ba, ngày 3-6-2008, Quốc hội thông qua Luật năng lượng nguyên tử, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng và Nhà nước về ứng dụng và phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng năng lượng nguyên tử đóng góp hiệu quả trực tiếp cho phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường, cải thiện chất lượng cuộc sống nhân dân.

Đối với lĩnh vực công nghệ, hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này còn tản mạn, chưa thống nhất và đồng bộ. Để góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, sau một thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng, ngày 13-11-2008, tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội thông qua Luật công nghệ cao, vừa bảo đảm việc điều chỉnh thống nhất và toàn diện các hoạt động liên quan tới công nghệ ở Việt Nam, vừa thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về ứng dụng và phát triển công nghệ cao, góp phần quyết định nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, thúc đẩy tốc độ và chất lượng tăng trưởng bền vững nền kinh tế đất nước.

Về lĩnh vực sinh học, Việt Nam chưa có hệ thống pháp luật chuyên biệt. Các quy phạm pháp luật về đa dạng sinh học nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý khác nhau và mỗi văn bản lại chỉ đề cập đến một hoặc vài khía cạnh của đa dạng sinh học. Điều này đã hạn chế đến hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng luật trên thực tế. Bên cạnh đó, nhiều nội dung quan trọng của đa dạng sinh học vẫn chưa được pháp luật điều chỉnh hoặc chỉ được quy định tại các văn bản dưới luật như bảo tồn và phát triển các hệ sinh thái đất ngập nước, các hệ sinh thái tự nhiên trên vùng núi đá vôi, gò, đồi thuộc vùng đất chưa sử dụng; tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích; kiểm soát sinh vật ngoại lai xâm hại môi trường... Để luật hóa các nội dung nêu trên, tại kỳ họp thứ tư, ngày 13-11-2008, Quốc hội thông qua Luật đa dạng sinh học. Luật ra đời bảo đảm thống nhất quản lý nhà nước về bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học trên cơ sở phân công, phân cấp rõ ràng, hợp lý giữa các cơ quan Trung ương, giữa Trung ương và địa phương; đồng thời, bảo đảm lợi ích của các bên liên quan trong bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học trên cơ sở công bằng và bình đẳng trước pháp luật. Bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học theo hướng thúc đẩy và hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo.

Ngoài những luật trên, về các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội, khoa học, công nghệ và môi trường, Quốc hội khóa XII còn thông qua các luật như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật điện ảnh; Luật phòng, chống bạo lực gia đình; Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm; Luật khám, chữa bệnh; Luật hoạt động chữ thập đỏ; Luật quy hoạch đô thị; Luật an toàn thực phẩm; Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật người khuyết tật; Luật hóa chất; Luật viễn thông; Luật bưu chính; Luật tần số vô tuyến điện; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ; Luật giao thông đường bộ (sửa đổi)Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả...

Để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật toàn diện, bao gồm các lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với việc sửa đổi, ban hành mới các đạo luật về kinh tế, xã hội, Quốc hội khóa XII đã tập trung ban hành, sửa đổi nhiều luật,
nghị quyết và pháp lệnh liên quan đến lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và đối ngoại.

Đối với quốc phòng, Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam được Quốc hội khóa X thông qua ngày 21-12-1999, có hiệu lực từ ngày 1-4-2000. Trong quá trình triển khai thực hiện, Chính phủ và Bộ Quốc phòng đã ban hành hệ thống văn bản cụ thể hóa các nội dung của Luật, có bước đi sát với thực tiễn và cơ bản đáp ứng được yêu cầu xây dựng đội ngũ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn bộc lộ một số vấn đề chưa phù hợp cần sửa đổi, bổ sung. Trên tinh thần đó, tại kỳ họp thứ ba, ngày 3-6-2008, Quốc hội khóa XII thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, nhằm thể chế hóa kịp thời những nội dung cơ bản trong Nghị quyết số 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam; bảo đảm tính hợp pháp và nhất quán với các văn bản luật hiện hành, đồng thời thể hiện rõ tính đặc thù trong tổ chức xây dựng và thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.

Xác định rõ vị trí lực lượng dân quân tự vệ là một thành phần cơ bản của lực lượng vũ trang trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới, ngay từ năm 1996, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về dân quân tự vệ. Sau 12 năm thực hiện, Pháp lệnh dân quân tự vệ đã thực sự đi vào cuộc sống,
tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức xây dựng, huấn luyện, hoạt động và bảo đảm chế độ, chính sách cho lực lượng dân quân tự vệ; giúp các bộ, ngành Trung ương và địa phương thực hiện quản lý nhà nước về dân quân tự vệ được thuận lợi. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Pháp lệnh dân quân tự vệ còn bộc lộ những bất cập. Do đó, tại kỳ họp thứ sáu, ngày 23-11-2009, Quốc hội đã thông qua Luật dân quân tự vệ. Luật được ban hành đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về dân quân tự vệ; thực hiện phương châm xây dựng lực lượng dân quân tự vệ “vững mạnh rộng khắp”, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở cơ sở; bảo đảm chế độ, chính sách cho từng lực lượng theo tính chất và địa bàn hoạt động.

Để tạo điều kiện cho các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài hoạt động, ngày 13-11-1990, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh lãnh sự, quy định về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài. Tiếp đó, ngày 2-12-1993, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Cơ quan đại diện ngoại giao và Phái đoàn đại diện thường trực của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế liên chính phủ (gọi là Pháp lệnh Cơ quan đại diện). Hai pháp lệnh được ban hành ở các thời điểm khác nhau, nhưng đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất để thành lập, tổ chức, quản lý cơ quan đại diện cũng như tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan đại diện thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ trong quan hệ ngoại giao, góp phần quan trọng vào thành công chung trong thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, qua thực tiễn hoạt động của cơ quan đại diện ở nước ngoài đã bộc lộ một số bất cập về pháp lý cũng như về thực tiễn. Do đó, tại kỳ họp thứ năm, ngày 18-6-2009, Quốc hội đã thông qua Luật cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài trên cơ sở hợp nhất Pháp lệnh cơ quan đại diệnPháp lệnh lãnh sự. Luật quy định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài và tạo điều kiện thuận lợi đối với hoạt động quản lý nhà nước đối với các cơ quan đại diện ở nước ngoài. Điều đó cho thấy, việc Quốc hội khóa XII quyết định ban hành Luật cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài là một quyết định đúng đắn và cần thiết.

Trong sự phát triển chung của đất nước, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, hoạt động mua bán người, điển hình là mua bán phụ nữ và trẻ em trở thành vấn nạn, gây bức xúc trong toàn xã hội. Trước thực trạng đó, tại kỳ họp thứ chín, ngày 23-9-2011, Quốc hội đã thông qua Luật phòng, chống mua bán người. Việc ban hành một văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành, có hiệu lực quản lý cao, trong đó quy định một cách tập trung, thống nhất những vấn đề có tính nguyên tắc, định hướng cho công tác phòng, chống mua bán người là một đòi hỏi khách quan, nhằm góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế, đáp ứng yêu cầu bức xúc của thực tiễn đặt ra và bảo đảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người đang diễn ra ở khắp mọi miền của Tổ quốc.

Với hệ thống các văn bản pháp luật đã được ban hành nêu trên có thể khẳng định, công tác lập pháp của Quốc hội khóa XII đã có nhiều đổi mới tích cực cả về nội dung và chất lượng. Các dự án luật được Quốc hội khóa XII ban hành cơ bản đã bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Nội dung của các dự án luật đã xử lý tốt một số vấn đề nhạy cảm phát sinh trong đời sống xã hội; bám sát và phản ánh đầy đủ hơn thực tiễn phát triển của nền kinh tế, xã hội đất nước. Nhiều văn bản sau khi ban hành có thể triển khai thực hiện ngay, ít phải chờ hướng dẫn thi hành, sớm đi vào cuộc sống, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý và điều hành kinh tế, xã hội.

Điểm đáng lưu ý, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, quy trình lập pháp tiếp tục được đổi mới, cải tiến theo hướng nâng cao chất lượng, tăng tính chủ động, dân chủ, tính cụ thể trong văn bản pháp luật. Với việc thông qua Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, một số khâu trong quy trình lập pháp đã có sự thay đổi, bảo đảm khoa học, dân chủ và chặt chẽ hơn. Đặc biệt, việc điều chỉnh thời gian Quốc hội thông qua chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm vào kỳ họp đầu năm của năm trước thay vì kỳ họp cuối năm đã tạo điều kiện để cơ quan soạn thảo, cơ quan trình dự án có thêm thời gian, chủ động trong việc chuẩn bị, xây dựng văn bản. Quá trình sửa đổi, bổ sung chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được thực hiện linh hoạt hơn, theo đó Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thể xem xét thay đổi chương trình và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Bên cạnh đó, việc quy định vấn đề lồng ghép giới trong quy trình lập pháp là một bước tiến bộ, phù hợp với xu hướng của thế giới. Thực tiễn đã chứng minh, những điều chỉnh này là phù hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật. Việc giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan chủ trì chỉ đạo tiếp thu, hoàn thiện dự án luật trình Quốc hội thông qua đã phần nào tăng thêm chủ động từ phía các cơ quan của Quốc hội, góp phần nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện dự án luật trước khi Quốc hội xem xét, thông qua.

Ngoài ra, công tác soạn thảo, thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XII được tiến hành tích cực, có sự phân công rõ ràng giữa cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp. Quá trình chuẩn bị luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan với tinh thần cộng đồng trách nhiệm. Các cơ quan của Quốc hội đã chủ động nghiên cứu, khảo sát thực tế, tham khảo, lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, các chuyên gia, nhà khoa học, ý kiến của cử tri... Do đó, các báo cáo thẩm tra đã bảo đảm chất lượng, thể hiện rõ chính kiến, có tính phản biện cao, có cơ sở khoa học và tính thực tiễn. Hơn nữa, công tác chỉnh lý, hoàn thiện văn bản trước khi trình Quốc hội thông qua được Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc và thận trọng.

Trong nhiệm kỳ khóa XII, các đoàn đại biểu Quốc hội đã có nhiều đổi mới trong việc duy trì hình thức thảo luận, tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức hữu quan và cá nhân ở địa phương vào các dự án luật. Các vị đại biểu Quốc hội đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động nghiên cứu, tích cực đóng góp ý kiến để nâng cao chất lượng văn bản luật trước khi ban hành.

Việc công khai dự thảo văn bản luật trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên các trang thông tin điện tử đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp kịp thời nắm bắt được dự kiến những thay đổi về chính sách, pháp luật để đóng góp ý kiến xây dựng văn bản và chuẩn bị các điều kiện cho việc thực hiện sau này.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác lập pháp của Quốc hội khóa XII vẫn còn một số hạn chế như: Hệ thống pháp luật vẫn chưa đồng bộ, một số văn bản còn thiếu thống nhất, tính khả thi chưa cao, trong đó có cả chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cả nhiệm kỳ và hằng năm. Nhiều vấn đề quan trọng, bức xúc trong đời sống xã hội cần được điều chỉnh bằng văn bản pháp luật hoặc cần thiết sửa đổi, bổ sung nhưng chưa được kịp thời chuẩn bị, trình Quốc hội xem xét, ban hành như: về đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước; sửa đổi Luật đất đai...

Tuy vẫn còn một số hạn chế, nhưng nhìn chung, công tác lập pháp của Quốc hội khóa XII tiếp tục có sự cải tiến, ngày càng đi vào chiều sâu với chất lượng cao hơn, qua đó góp phần phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

3. Tăng cường hoạt động giám sát đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới

Nhằm tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu rõ: Phải thực hiện tốt hơn chức năng giám sát tối cao. Trên tinh thần đó, cùng với hoạt động lập pháp, hoạt động giám sát được Quốc hội khóa XII tích cực tăng cường, kịp thời phát hiện và có các kiến nghị nhằm điều chỉnh, giảm thiểu những hệ lụy nảy sinh từ chính sách; chấn chỉnh kịp thời các sai sót, khuyết điểm, thúc đẩy thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị. Nội dung giám sát tập trung vào nhiều vấn đề bức xúc của cuộc sống, bao quát hầu hết các lĩnh vực từ kinh tế, xã hội, ngân sách nhà nước, đến văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hoạt động của các cơ quan tư pháp... Ngoài giám sát tối cao thông qua việc xem xét báo cáo của các cơ quan, bộ, ngành theo quy định, Quốc hội khóa XII đã tiến hành giám sát theo chuyên đề, như: việc chấp hành pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; việc thực hiện chính sách pháp luật về công tác xã hội hóa chăm sóc sức khỏe nhân dân; tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm; việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; việc thực hiện chính sách pháp luật về thành lập trường, đầu tư và bảo đảm chất lượng đào tạo đối với giáo dục đại học; việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực liên quan trực tiếp đến công dân và doanh nghiệp theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Trong đó, Quốc hội đã tiến hành tái giám sát đối với nội dung về đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước ở các bộ, ngành, địa phương để có cơ sở đánh giá đúng sự chuyển biến trên thực tế sau lần giám sát trước về vấn đề này. Sau mỗi chuyên đề giám sát, Quốc hội đều ra nghị quyết nêu rõ yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể mà Chính phủ, các cơ quan liên quan phải tập trung thực hiện.

Điểm nhấn về hoạt động giám sát được Quốc hội khóa XII tập trung cải tiến mạnh mẽ theo hướng thực chất hơn, đó là hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn - một hình thức giám sát trực tiếp và quan trọng của Quốc hội. Nội dung chất vấn và trả lời chất vấn tập trung vào các vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc, phản ánh sát thực tâm tư, nguyện vọng của cử tri và nhân dân, làm rõ thêm tình hình, sâu sắc thêm nguyên nhân, chỉ ra trách nhiệm và giải pháp nhằm thúc đẩy việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, các nghị quyết của Quốc hội.

Cách thức tiến hành, điều hành phiên chất vấn được cải tiến theo hướng chất vấn và trả lời chất vấn theo nhóm vấn đề với sự tham gia của nhiều bộ trưởng, trưởng ngành; hạn chế đến mức thấp nhất thời gian trả lời bằng văn bản; đề nghị Thủ tướng Chính phủ hoặc Phó Thủ tướng Chính phủ trả lời trực tiếp chất vấn của đại biểu Quốc hội; tăng thời gian đối thoại giữa đại biểu Quốc hội với người trả lời chất vấn để tạo không khí cởi mở, thẳng thắn. Một điểm đổi mới trong nhiệm kỳ khóa XII là Quốc hội đã ra nghị quyết về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp cuối năm và triển khai tổ chức có hiệu quả hoạt động chất vấn tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, được dư luận hoan nghênh và đánh giá cao.

Sau chất vấn, các cá nhân và cơ quan có liên quan đã nghiêm túc xem xét có trách nhiệm những vấn đề mà đại biểu nêu lên, như việc rà soát quy hoạch, quản lý cấp phép các sân golf; điều hành thu mua xuất khẩu gạo; đẩy nhanh tiến độ xây dựng một số công trình cơ bản; quản lý quy hoạch và cấp phép xây dựng một số công trình thủy điện vừa và nhỏ; quản lý thị trường ngoại hối, thị trường vàng; các chính sách liên quan đến chăm sóc sức khỏe người dân, chính sách đối với người có công... Việc tổng hợp chất vấn, theo dõi việc thực hiện lời hứa của người trả lời chất vấn, thông báo các nội dung có liên quan sau chất vấn được thực hiện thường xuyên, bảo đảm chất lượng theo yêu cầu, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động chất vấn.

Thực tế cho thấy, hoạt động giám sát chuyên đề và chất vấn trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII đã góp phần tích cực giải quyết những vấn đề thực tiễn cuộc sống đang đặt ra. Kết quả hoạt động giám sát có tác động thiết thực, giúp chủ thể chịu sự giám sát và chủ thể giám sát đều thấy rõ trách nhiệm của mình, thúc đẩy các cơ quan nhà nước khắc phục những thiếu sót, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động.

Cùng với hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội cũng được tiến hành chủ động, có nhiều chuyển biến tích cực và đem lại hiệu quả thiết thực. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội đã tiến hành giám sát khá toàn diện các lĩnh vực được phân công phụ trách; quan tâm đổi mới nội dung và hình thức giám sát, kết hợp giữa giám sát chuyên đề và giám sát thường xuyên. Hoạt động thẩm tra các báo cáo hằng năm, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo ngày càng được nâng cao về chất lượng và hiệu quả. Việc tổ chức chất vấn tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội và tổ chức hoạt động giải trình tại Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội là điểm mới trong phương thức tổ chức hoạt động của các cơ quan của Quốc hội trong nhiệm kỳ khóa XII và bước đầu đạt được những kết quả nhất định. Công tác phối hợp với các cơ quan hữu quan trong hoạt động giám sát được tăng cường hơn. Các nhận định, đánh giá trong báo cáo giám sát đã phản ánh sát thực và khách quan tình hình thực tiễn, nêu rõ những kết quả đạt được, kịp thời phát hiện những hạn chế, vướng mắc trong cơ chế, chính sách, pháp luật, những yếu kém trong quản lý, điều hành. Các đề xuất, kiến nghị trong báo cáo giám sát cụ thể, có tính
khả thi và tạo được sự đồng thuận cao đã có tác dụng tích cực cho các hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp cũng như trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật thuộc lĩnh vực của Hội đồng Dân tộc và ủy ban phụ trách.

Ý thức được tầm quan trọng của hoạt động giám sát trong việc thực hiện các chức năng của Quốc hội, trong nhiệm kỳ khóa XII, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo sát sao từ việc dự kiến chương trình, triển khai thực hiện, tổng hợp báo cáo cho đến việc điều hòa, phối hợp, theo dõi thực hiện kiến nghị sau giám sát, đưa hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày càng thực chất, vừa rộng mở về bình diện, vừa sâu sắc về nội dung. Trong quá trình hoạt động, tại các phiên họp hoặc khi chỉ đạo giám sát ở địa phương cơ sở, Ủy ban Thường vụ Quốc hội rất quan tâm xem xét, đánh giá việc thực thi các đạo luật, những hạn chế của các chính sách luật đã và đang áp dụng trong thực tế để định hướng điều chỉnh bổ sung cho phù hợp, nhất là trong quá trình giám sát những chuyên đề lớn.

Thực hiện chương trình công tác hằng năm và định kỳ 6 tháng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiến hành xem xét báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội, ngân sách nhà nước; báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về vi phạm pháp luật, công tác điều tra, truy tố, xét xử và công tác thi hành án trước khi trình Quốc hội; tổ chức làm việc với Chính phủ, các bộ, ngành để bàn biện pháp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hoặc giải quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh trong quá trình giám sát.

Việc giám sát thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân có sự chuyển biến tích cực. Xác định đây là công việc phức tạp, nhất là trong điều kiện các chính sách và hệ thống pháp luật của Việt Nam chưa thật đồng bộ và thống nhất, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thường xuyên chỉ đạo Ban Dân nguyện trong việc xử lý kiến nghị của cử tri theo quy định tại Nghị quyết số 695/NQ-UBTVQH12, ngày 15-10-2008 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Thực hiện quy định của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, từ phiên họp thứ bảy đến cuối nhiệm kỳ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tổ chức được 5 phiên chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội. Đây là việc làm mới được triển khai trong nhiệm kỳ khóa XII, nhưng đã được đại biểu Quốc hội và dư luận cử tri đánh giá cao. Có thể nói, chất vấn tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được đánh giá là hình thức giám sát hiệu quả, giúp cho hoạt động giám sát được kịp thời hơn đối với những vấn đề mới phát sinh trong cuộc sống, góp phần giảm tải nội dung chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội.

Trong nhiệm kỳ khóa XII, Hội đồng Dân tộc đã chủ trì phối hợp với các cơ quan khác của Quốc hội và các cơ quan hữu quan tổ chức giám sát một số nội dung liên quan đến việc thực hiện chính sách đối với miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đó là: giám sát việc thực hiện di dân, tái định cư công trình thủy điện Sơn La và việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo theo Chương trình 135 giai đoạn II (2006-2010); việc quản lý, lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án có liên quan trực tiếp đến xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn.

Sau khi trực tiếp nghe đại diện của Chính phủ, đại diện lãnh đạo các bộ, ngành liên quan báo cáo, Đoàn giám sát việc thực hiện di dân, tái định cư thủy điện Sơn La đã tiến hành khảo sát thực tế tại 8 huyện, 10 xã và 11 điểm tái định cư thuộc 3 tỉnh Sơn La, Điện Biên và Lai Châu. Đoàn giám sát thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II cũng thành lập 8 tổ đi giám sát trực tiếp ở 22 tỉnh, 44 huyện và 50 xã đại diện cho các vùng, miền của cả nước. Tổng cộng, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, Hội đồng Dân tộc đã thành lập 33 đoàn giám sát đến 62 tỉnh, 129 huyện, 150 xã và rất nhiều thôn, bản ở miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số để trực tiếp giám sát việc thực hiện 8 chương trình, chính sách, dự án quan trọng quốc gia.

Kế thừa kinh nghiệm hoạt động giám sát của các nhiệm kỳ trước và nhờ có sự phối hợp chặt chẽ với các ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các tỉnh miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, nên hoạt động giám sát của Hội đồng Dân tộc đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Thông qua hoạt động giám sát, Hội đồng Dân tộc đã có nhiều kiến nghị được Quốc hội đưa vào nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành và các địa phương có liên quan tiếp thu và xử lý đối với những vấn đề bức xúc do thực tiễn cuộc sống của nhân dân miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số đặt ra[8].

Căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Luật tổ chức Quốc hội và các văn bản pháp luật có liên quan; kế thừa và phát huy những kinh nghiệm trong hoạt động của các khóa trước, trong nhiệm kỳ khóa XII, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đã tổ chức giám sát việc chấp hành pháp luật về thực hiện các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa người vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (2007); giám sát về việc thực hiện Pháp lệnh cán bộ, công chức để phục vụ trực tiếp cho việc thẩm tra và chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật cán bộ, công chức (2008); thẩm tra Báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hằng năm của Chính phủ; giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 55/2005/NQ-QH11 của Quốc hội về kết quả giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2009); giám sát chuyên đề “Việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực liên quan trực tiếp đến công dân và doanh nghiệp theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010” (2010).

Ngoài ra, Ủy ban Pháp luật còn cử các thành viên tham gia Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đi giám sát việc di dân tái định cư xây dựng thủy điện Sơn La; giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm; giám sát việc thực hiện quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng... Với tinh thần trách nhiệm, thẳng thắn và nghiêm túc các đoàn giám sát của Ủy ban đã xây dựng các báo cáo về kết quả giám sát, trong đó đánh giá, nêu rõ những việc đã làm được và chưa làm được của Chính phủ, bộ, ngành và địa phương; phân tích rõ trách nhiệm của từng cơ quan, cũng như những tồn tại, hạn chế, thiếu sót; chỉ ra những nguyên nhân để từ đó kiến nghị những giải pháp khắc phục.

Ý thức được vai trò của Ủy ban trong việc tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác giám sát hoạt động tư pháp và phòng, chống tham nhũng, Ủy ban Tư pháp luôn xác định công tác giám sát là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung lực lượng, thời gian và tâm huyết để tổ chức thực hiện. Do đó, hoạt động giám sát của Ủy ban đã được tiến hành toàn diện trên tất cả các mặt công tác như: thẩm tra báo cáo, tổ chức các đoàn giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương và địa phương; tiến hành giám sát chuyên đề, giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo... Trong nhiệm kỳ khóa XII, Ủy ban đã tổ chức giám sát được 3 chuyên đề về thực hiện Nghị quyết của Quốc hội tăng thẩm quyền xét xử cho các Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại khoản 1
Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác thi hành án hình sự; việc chấp hành pháp luật trong công tác thi hành án dân sự. Đặc biệt, Ủy ban đã chủ trì giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát chuyên đề về việc tổ chức thực hiện công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng của các cơ quan có thẩm quyền trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Trên cơ sở thực hiện công tác giám sát, Ủy ban đã nêu nhiều kiến nghị với các cơ quan tư pháp ở Trung ương và địa phương, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp, các cơ quan có thẩm quyền về phòng, chống tham nhũng. Hầu hết các kiến nghị của Ủy ban đã được các cơ quan nghiêm túc tiếp thu, chấn chỉnh và lãnh đạo để tăng cường trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức trong việc thực thi nhiệm vụ, bảo đảm cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, phòng, chống tham nhũng được tiến hành nghiêm minh, khách quan, công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; hạn chế, khắc phục vi phạm pháp luật để xảy ra oan sai; góp phần tích cực vào tiến trình cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, nghiêm minh.

Ủy ban Kinh tế được thành lập trong khi hoạt động của Quốc hội đang tiếp tục có nhiều đổi mới về nội dung, phương thức và quy trình hoạt động; kế thừa được kết quả, kinh nghiệm hoạt động cũng như những bài học kinh nghiệm của Ủy ban Kinh tế và Ngân sách khóa XI, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, hoạt động giám sát của Ủy ban Kinh tế đã có nhiều điểm mới. Các nội dung giám sát được Ủy ban lựa chọn dựa trên những vấn đề nổi lên từ thực tế theo dõi tình hình và trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ. Do đó, Ủy ban đã tổ chức được nhiều đoàn công tác làm việc với các bộ, ngành ở Trung ương và chọn một số địa phương trọng điểm ở các vùng để giám sát chung về tình hình kinh tế - xã hội gắn với công tác thẩm tra, thu thập được nhiều thông tin thực tiễn, xác đáng phục vụ Quốc hội xem xét, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Ủy ban cũng đã chủ trì giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức, triển khai nhiều cuộc giám sát chuyên đề như: Việc chấp hành pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Quốc hội giám sát tối cao tại kỳ họp thứ hai); Việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước ở các bộ, ngành, địa phương từ năm 2005 đến năm 2007 (Quốc hội giám sát tối cao tại kỳ họp thứ tư) và Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước (Quốc hội giám sát tối cao tại kỳ họp thứ sáu). Với tư cách là cơ quan được giao chủ trì thực hiện các cuộc giám sát, Ủy ban đã rất nỗ lực tổ chức thu thập thông tin, giám sát thực tiễn, phân tích các chính sách hiện hành, xây dựng báo cáo giám sát phản ánh đúng thực chất tình hình và đưa ra các kiến nghị, đề xuất các chính sách quan trọng.

Đối với một số nội dung được cử tri quan tâm, Ủy ban đã tổ chức giám sát, khảo sát như: giám sát việc chấp hành cơ chế, chính sách về đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn từ năm 2002 đến năm 2007; về việc thực hiện chiến lược và quy hoạch phát triển ngành điện đến năm 2015; khảo sát kết quả thực hiện cơ chế, chính sách phát triển các khu kinh tế, khu kinh tế mở, khu kinh tế cửa khẩu ở nước ta; về hoạt động của hệ thống ngân hàng sau hơn hai năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); đánh giá việc thực hiện cam kết WTO trong lĩnh vực dịch vụ phân phối; giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 42/2009/QH12 của Quốc hội về nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước... Kết quả giám sát, khảo sát của Ủy ban được đánh giá tốt về nội dung; những kiến nghị, đề xuất có căn cứ thực tiễn làm cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, hoàn thiện về mặt chính sách; nhiều đề xuất của Ủy ban đã được Quốc hội chấp thuận thể hiện trong Nghị quyết của Quốc hội.

Theo quy định của pháp luật, Ủy ban Tài chính - Ngân sách thực hiện chức năng giám sát với nhiều hình thức khác nhau, bao gồm: giám sát chung việc thực hiện ngân sách nhà nước tạo cơ sở đánh giá công tác điều hành, quản lý tài chính của Chính phủ; giám sát chuyên đề nhằm góp phần giải quyết các vấn đề bức xúc trong lĩnh vực tài chính - ngân sách được xã hội, cử tri cả nước quan tâm; giám sát việc ban hành văn bản dưới luật để đánh giá việc thực thi pháp luật, tạo căn cứ thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tài chính, ngân sách; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; tham gia các đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan khác của Quốc hội... Để bảo đảm điều kiện về thời gian, kinh phí, Ủy ban đã đổi mới phương thức tiến hành giám sát theo hướng tổ chức kết hợp nhiều nội dung giám sát trong một đoàn tại một địa phương, bộ, ngành. Việc giám sát không chỉ dừng ở khâu nghe báo cáo mà tiếp cận trực tiếp đối tượng giám sát ở cơ sở. Do đó, chất lượng báo cáo giám sát, khảo sát luôn thể hiện tính khách quan, trung thực trong đánh giá, đề xuất kiến nghị, cung cấp được nhiều thông tin hữu ích cho công tác thẩm tra, quyết định các vấn đề về ngân sách nhà nước và công tác xây dựng pháp luật. Đặc biệt, thông qua giám sát việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, Ủy ban Tài chính - Ngân sách đã phát hiện những bất cập trong tổ chức thực hiện pháp luật, đề xuất nhiều giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính.

Đoàn Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội giám sát công tác quốc phòng và an ninh ở huyện đảo Lý Sơn,

tỉnh Quảng Ngãi, ngày 2-8-2010.

Thực hiện chức năng giám sát, Ủy ban Quốc phòng và An ninh đã tổ chức các phiên họp toàn thể của Ủy ban để xem xét báo cáo định kỳ của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an về kết quả thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, kết quả thực hiện ngân sách quốc phòng, an ninh; tổ chức đoàn giám sát và xem xét báo cáo của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, các bộ, ngành hữu quan, báo cáo của các đoàn giám sát tại phiên họp Ủy ban về các nội dung: Việc thi hành pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; Việc thi hành pháp luật về bảo đảm an ninh, trật tự,
an toàn xã hội ở khu vực nông thôn; Việc thi hành pháp luật về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; Việc thi hành pháp luật về kết hợp phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên một số địa bàn trọng điểm;
tổ chức tiếp nhận, nghiên cứu, xem xét các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh; xem xét báo cáo và đánh giá kết quả ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật quốc phòng, Luật công an nhân dân, Luật giao thông đường bộ, Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước, Pháp lệnh công an xã, Pháp lệnh công nghiệp quốc phòng, Pháp lệnh lực lượng cảnh sát biển Việt Nam...

Nhìn chung, các hoạt động giám sát của Ủy ban trong nhiệm kỳ khóa XII được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội. Chất lượng các hoạt động giám sát từng bước được nâng lên, báo cáo giám sát thẳng thắn nêu rõ những yếu kém, khuyết điểm và nguyên nhân, giải pháp khắc phục, đưa ra những kiến nghị sát thực, góp phần quan trọng trong việc kiến nghị sửa đổi, bổ sung pháp luật, cơ chế, chính sách, thúc đẩy nâng cao chất lượng quản lý nhà nước và hoạt động chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương.

Căn cứ Nghị quyết về chương trình giám sát hằng năm của Quốc hội khóa XII, theo sự phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã tổ chức tốt các hoạt động giám sát thường xuyên đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và môi trường, tập trung vào việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ; việc phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách cho khoa học, công nghệ và quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; giám sát tình hình thực hiện nghị quyết của Quốc hội về các dự án công trình quan trọng quốc gia. Đồng thời, Ủy ban còn tổ chức thực hiện giám sát chuyên đề về những nội dung mà Ủy ban, đại biểu Quốc hội, cử tri cả nước quan tâm, như: việc thực hiện chính sách pháp luật về xử lý môi trường ở các khu đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế; công tác di dời cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; tổ chức và hoạt động của các cơ sở khoa học, công nghệ công lập; hiệu quả đầu tư các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, các khu công nghệ cao; chất lượng xây dựng nhà ở cao tầng ở đô thị[9]...

Có thể nói, hoạt động giám sát của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường trong nhiệm kỳ khóa XII có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Tuy Ủy ban chưa có điều kiện giám sát tất cả các bộ, ngành, địa phương về lĩnh vực có liên quan, nhưng kết quả giám sát đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các vị đại biểu Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhiều vấn đề đã được cụ thể hóa bằng các quy định trong các văn bản pháp luật. Một số vấn đề bức xúc được dư luận xã hội và cử tri quan tâm như tình hình khai thác khoáng sản tràn lan dẫn đến ô nhiễm môi trường, thất thoát tài nguyên quốc gia, việc quy hoạch, khai thác bôxít ở Tây Nguyên; việc quản lý nhà nước thiếu chặt chẽ trong đầu tư xây dựng; việc đầu tư, ứng dụng kém hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia; về vệ sinh an toàn thực phẩm và nhiều vấn đề khác đã được Ủy ban thực hiện nghiêm túc với trách nhiệm cao, góp phần tích cực cùng Quốc hội chỉ ra những yếu kém, tồn tại, cùng Quốc hội và Chính phủ đề ra những giải pháp khắc phục phù hợp.

Trong nhiệm kỳ khóa XII, Ủy ban về Các vấn đề xã hội đã tổ chức 29 đoàn giám sát, 54 đoàn khảo sát tại 57 tỉnh, thành phố; đồng thời, tổ chức 48 cuộc họp nghe 21 cơ quan, tổ chức liên quan báo cáo tình hình thực hiện chính sách, pháp luật, đặc biệt là những vấn đề đã được pháp luật quy định, như: quản lý và sử dụng Quỹ bảo hiểm xã hội (Luật bảo hiểm xã hội); thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới (Luật bình đẳng giới); việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế,
xã hội và ngân sách nhà nước hằng năm thuộc lĩnh vực Ủy ban được phân công; tình hình thực hiện Luật dược, Luật bảo hiểm y tế, các chính sách về dân số và chăm sóc sức khỏe, bà mẹ trẻ em, người có công, an sinh xã hội...

Đối với nội dung giám sát hằng năm, Ủy ban ưu tiên tập trung giám sát đối với những lĩnh vực quản lý nhà nước có nhiều vướng mắc nổi cộm trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật, được dư luận cử tri cả nước quan tâm[10] và thúc đẩy các bộ, ngành sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh đối với những vấn đề này. Ủy ban đã thường xuyên quan tâm giám sát, đôn đốc việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh mà Ủy ban được giao nhiệm vụ chủ trì thẩm tra sau khi được ban hành.

Ngoài các hoạt động giám sát, khảo sát theo chức năng, theo phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban cũng đã chủ trì tổ chức phục vụ giám sát tối cao của Quốc hội đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật về
xã hội hóa công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân
(2008); giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội việc tổ chức, thực hiện chính sách, pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (2010) và cử thành viên tham gia các đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Nhìn chung, việc tổ chức hoạt động giám sát của Ủy ban được tiến hành bằng nhiều hình thức, lồng ghép các nội dung, tiết kiệm nguồn lực hợp lý, phát huy được sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, các Đoàn đại biểu Quốc hội, của Thường trực Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố và các chuyên gia để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát. Các hoạt động giám sát chuyên đề được tổ chức theo đúng chương trình, kế hoạch, thực hiện đối với cả cơ quan Trung ương, địa phương và cơ sở. Kết quả giám sát được thể hiện qua các báo cáo tại các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Các Nghị quyết sau giám sát do Ủy ban kiến nghị đã phát huy hiệu quả trong cuộc sống như: Nghị quyết số 18/2008/QH12 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật xã hội hóa để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân; Nghị quyết số 976/2010/NQ-UBTVQH12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, v.v.. Những kết quả giám sát, khảo sát đã góp phần quan trọng để Ủy ban có căn cứ thực tiễn tổng hợp, phân tích, đề xuất chính sách khi tham gia chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, đặc biệt là xây dựng nghị quyết của Quốc hội về các lĩnh vực xã hội.

Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội và theo sự điều hòa của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong nhiệm kỳ khóa XII, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng đã tổ chức 12 đoàn giám sát chung tại nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước và tổ chức giám sát, khảo sát chuyên đề tại 360 cơ sở. Trong quá trình giám sát, Ủy ban đã tổ chức các cuộc làm việc với đại diện lãnh đạo các bộ, ngành có liên quan và chính quyền các cấp; coi trọng nghiên cứu thực tiễn ở cơ sở và thông qua tiếp xúc cử tri. Việc xử lý kết quả giám sát được tổ chức theo hướng góp ý với các địa phương về những vấn đề thuộc thẩm quyền giải quyết của địa phương; kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành hữu quan giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện.

Để tăng cường hiệu quả giám sát, Ủy ban đã mời chuyên gia đầu ngành, đại diện cơ quan quản lý nhà nước, Hội đồng nhân dân và đoàn đại biểu Quốc hội địa phương tham gia thành phần đoàn hoặc đề nghị Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh tổ chức giám sát trên địa bàn địa phương và gửi báo cáo tổng hợp kết quả giám sát về Thường trực Ủy ban. Cách làm mới đã nâng cao hiệu quả giám sát của Ủy ban. Một số đoàn giám sát đã có sáng kiến chia thành những tổ nhỏ để có thể tìm hiểu, nghiên cứu sâu từng vấn đề với nhiều cơ sở. Trong nhiệm kỳ khóa XII, Ủy ban đã tổ chức thí điểm phiên giải trình (điều trần) của Chính phủ về vấn đề đầu tư xây dựng, quản lý, sử dụng các cơ sở văn hóa, vui chơi giải trí cho trẻ em. Hình thức giám sát này đã tạo điều kiện cho các đại biểu Quốc hội có thể chất vấn trực tiếp đại diện Chính phủ và các bộ, ngành để làm rõ nội dung vấn đề và trao đổi đề ra giải pháp nhằm tháo gỡ bất cập liên quan đến các vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của Ủy ban phụ trách.

Có thể nói, hoạt động giám sát của Ủy ban đã được tiến hành chủ động, tích cực, tuân thủ các quy định của Hiến pháp và Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, có bước đổi mới cả về nội dung, hình thức và đạt được những kết quả đáng ghi nhận.

Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, Ủy ban tập trung giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về giáo dục mầm non; việc thực hiện Nghị quyết số 41/2000/QH10, ngày 9-12-2000 của Quốc hội về thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở; việc thực hiện chế độ, chính sách đối với giáo viên phổ thông; việc thực hiện chính sách, pháp luật về đào tạo đại học, cao đẳng nghề. Đặc biệt, Ủy ban được Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao chủ trì phục vụ giám sát tối cao của Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và bảo đảm chất lượng đào tạo đối với giáo dục đại học.

Đối với lĩnh vực văn hóa, thông tin và thể thao, Ủy ban tổ chức giám sát theo các chuyên đề: Việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa cơ sở; tình hình thi hành Luật xuất bản; tình hình thi hành Luật báo chí; tình hình thi hành Luật di sản văn hóa; tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về nghệ thuật biểu diễn và tình hình thực hiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực thể thao thành tích cao.

Đối với lĩnh vực thanh niên và trẻ em, Ủy ban tổ chức giám sát các chuyên đề về việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ em; về dạy nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên; về việc thực hiện chính sách, pháp luật trong đầu tư xây dựng, quản lý và sử dụng các cơ sở văn hóa, vui chơi, giải trí cho trẻ em. Ủy ban cũng đã tổ chức thành công phiên giải trình của Chính phủ để phân tích, làm rõ nguyên nhân, hạn chế, bất cập và đề ra giải pháp, nhằm thực hiện chính sách, pháp luật trong đầu tư xây dựng, quản lý và sử dụng các cơ sở văn hóa, vui chơi, giải trí cho trẻ em; đưa nội dung phát triển các cơ sở văn hóa, vui chơi giải trí cho trẻ em vào các chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, giáo dục - đào tạo và xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2020.

Triển khai kế hoạch giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ngay từ đầu nhiệm kỳ khóa XII, Ủy ban Đối ngoại đã có kế hoạch giám sát chuyên đề Việc thực hiện các hiệp định, hiệp ước về biên giới giữa Việt Nam với các nước láng giềng. Trên cơ sở xem xét báo cáo của các bộ, ngành liên quan và các tỉnh có biên giới với Trung Quốc về việc thực hiện Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc; đồng thời, làm việc với các cơ quan liên quan và một số tỉnh có biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia về kết quả công tác phân giới cắm mốc. Qua đó, Ủy ban đã có những đề xuất, giải pháp cụ thể, góp phần cùng các tỉnh, địa phương và các ngành chức năng thực hiện kế hoạch công tác phân giới cắm mốc trên bộ bảo đảm tiến độ và yêu cầu đề ra.

Ủy ban cũng đã tiến hành giám sát việc thực hiện Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá Việt Nam - Trung Quốc và tình hình biển đảo thông qua các cuộc làm việc với các bộ, ngành và khảo sát tại một số địa phương có liên quan nhằm trao đổi, tìm hiểu tình hình thực tế tập trung vào 3 nhóm vấn đề:
1- Biển đảo phục vụ công tác đối ngoại; 2- Tình hình thực hiện hai hiệp định trên; 3- Quan hệ hợp tác, đầu tư, phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Qua các đợt công tác, Ủy ban thu thập được các thông tin cần thiết về tình hình thực tế trong hợp tác quốc tế, phát triển kinh tế biển, bảo vệ an ninh, chủ quyền biển đảo và nắm được kiến nghị của các bộ, ngành, địa phương để phục vụ cho hoạt động của Ủy ban liên quan đến vấn đề này.

Nhằm góp phần củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào và tiếp nối chuyên đề giám sát việc thực hiện các điều ước song phương Việt Nam - Lào (giai đoạn 1990-2003), trong năm 2009, Ủy ban đã tiến hành giám sát chuyên đề về Việc thực hiện các điều ước và thỏa thuận trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa - giáo dục và khoa học - kỹ thuật giữa Việt Nam và Lào giai đoạn 2000-2008. Triển khai chuyên đề giám sát, Ủy ban đã chủ động làm việc với các bộ, ngành liên quan và tổ chức đoàn giám sát tại một số địa phương của Việt Nam và dự án theo khuôn khổ hợp tác tại Lào. Ủy ban cũng đã tổ chức các tọa đàm thường niên với Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Lào, kết hợp giám sát tại một số dự án hợp tác, đầu tư của Việt Nam tại Lào để tập trung phân tích, đánh giá các nguyên nhân chủ quan dẫn tới hạn chế trong hoạt động hợp tác và thống nhất các biện pháp phối hợp, nhằm góp phần thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước, hai Quốc hội. Cũng từ chuyên đề giám sát này, lần đầu tiên, Ủy ban Đối ngoại đã tổ chức phiên điều trần về các dự án hợp tác bằng vốn viện trợ của Việt Nam cho Lào, trong đó có công trình Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia Lào (2009) nhằm rút kinh nghiệm và khắc phục ngay những khiếm khuyết của các công trình, kịp thời đưa các công trình vào sử dụng, nhất là công trình Trung tâm huấn luyện phục vụ Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 25 (SEAGAMES 25) tổ chức tại Lào vào tháng 12-2009.

Trong năm 2010, Ủy ban tiếp tục giám sát chuyên đề: Việc thực hiện các điều ước và thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục và khoa học - kỹ thuật giữa Việt Nam và Campuchia giai đoạn 1999-2009, nhằm tập trung nghiên cứu, khảo sát việc thực hiện các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế giữa hai nước, nhất là hiệu quả đầu tư các dự án hợp tác của Việt Nam tại Campuchia. Qua đó, làm rõ những khó khăn, tồn tại và đề xuất các kiến nghị về cơ chế, chính sách góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia trong giai đoạn mới.

Nhìn chung, việc tổ chức đoàn giám sát của Ủy ban được chuẩn bị chu đáo về nội dung, phối hợp chặt chẽ với địa phương và các bộ, ngành liên quan, tuân thủ đúng quy trình giám sát, từ đó tạo được sự chủ động cho địa phương cũng như các cơ quan khi đoàn đến giám sát. Các kiến nghị của Ủy ban qua mỗi đợt giám sát bước đầu đã mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại của Nhà nước.

Như vậy, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội đã triển khai hoạt động giám sát khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Nội dung và hình thức giám sát đã được quan tâm đổi mới, có sự kết hợp giữa giám sát chuyên đề và giám sát thường xuyên, qua đó nâng cao về chất lượng và hiệu quả giám sát của Quốc hội. Việc tổ chức chất vấn tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội và tổ chức hoạt động giải trình tại Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội tuy là hoạt động mới, nhưng đã đạt được những kết quả nhất định. Công tác phối hợp với các cơ quan hữu quan trong hoạt động giám sát ngày càng được tăng cường. Các nhận định, đánh giá trong báo cáo giám sát đã phản ánh sát thực và khách quan tình hình, nêu rõ những kết quả đạt được, kịp thời phát hiện những hạn chế, vướng mắc trong cơ chế, chính sách, pháp luật, những yếu kém trong quản lý, điều hành. Các đề xuất, kiến nghị trong báo cáo giám sát cụ thể, có tính khả thi và tạo được sự đồng thuận cao đã có tác dụng tích cực cho các hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp cũng như trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật thuộc lĩnh vực Hội đồng Dân tộc và ủy ban của Quốc hội phụ trách.

Cùng với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, trong nhiệm kỳ khóa XII, các đoàn đại biểu Quốc hội đã có nhiều cố gắng trong hoạt động giám sát tại địa phương. Qua giám sát, nhiều kiến nghị của Đoàn đại biểu có chất lượng được các bộ, ngành hữu quan ở Trung ương và địa phương xem xét giải quyết. Các đoàn đại biểu Quốc hội đã phối hợp tốt trong việc giám sát chuyên đề theo chương trình giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội. Nhiều vị đại biểu Quốc hội đã tích cực tham gia hoạt động của các đoàn giám sát của các cơ quan của Quốc hội, của Đoàn đại biểu Quốc hội và qua hoạt động tiếp xúc cử tri, từ đó có điều kiện thực hiện tốt hơn quyền chất vấn và giám sát tối cao tại các kỳ họp Quốc hội.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động giám sát của Quốc hội trong nhiệm kỳ khóa XII còn một số hạn chế như: chưa xem xét một cách toàn diện, sâu sắc đối với một số báo cáo công tác của các cơ quan nhà nước; nhiều kiến nghị giám sát chưa cụ thể; chưa xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể liên quan sau giám sát; việc theo dõi, đôn đốc thực hiện nghị quyết, kết luận, kiến nghị sau hoạt động giám sát chưa được quan tâm thường xuyên nên hiệu lực và hiệu quả giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội chưa đạt được kết quả như mong muốn.

Mặc dù vẫn còn một số tồn tại, nhưng nhìn chung hoạt động giám sát của Quốc hội khóa XII đã có nhiều đổi mới thực sự đem lại hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và mở rộng quan hệ đối ngoại trong tình hình mới.

4. Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

Song song với việc tập trung thực hiện tốt công tác lập pháp và giám sát, Quốc hội khóa XII luôn đề cao vai trò, trách nhiệm và nâng cao chất lượng xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, như: quyết định các vấn đề về kinh tế, xã hội, về ngân sách nhà nước, về tổ chức bộ máy nhà nước và nhân sự cấp cao của bộ máy nhà nước..., nhằm bảo đảm lợi ích chung của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân; qua đó, làm tròn chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Trước những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới và trong nước, Quốc hội khóa XII đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của cử tri; thảo luận, tranh luận thẳng thắn để có những quyết sách, những giải pháp phù hợp, đúng đắn, góp phần làm chuyển biến tình hình, bảo đảm ổn định và sự phát triển đi lên của đất nước.

Trên cơ sở xem xét đề nghị của Chính phủ, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội đã thảo luận và thông qua Nghị quyết số 20/2008/QH12 vmột số vấn đề kinh tế, xã hội năm 2008 trong tình hình mới. Quốc hội nhận thấy, sau 5 tháng triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2008, cùng với một số kết quả đạt được, tình hình kinh tế, xã hội của đất nước đã xuất hiện những mặt
yếu kém và khó khăn lớn như tốc độ tăng trưởng kinh tế có biểu hiện chậm lại; lạm phát tiếp tục tăng cao, vượt xa mức dự báo; thị trường tài chính, tiền tệ có nhiều biến động; xuất hiện những yếu tố bất lợi, gây khó khăn cho sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân, nhất là người nghèo, người làm công hưởng lương có thu nhập thấp. Tình hình trên tác động nhất định đến tư tưởng và tâm lý xã hội, tâm lý nhà đầu tư và các doanh nghiệp về sự ổn định kinh tế vĩ mô của đất nước. Trước yêu cầu của tình hình mới, Quốc hội quyết định điều chỉnh một số nội dung trong mục tiêu tổng quát và chỉ tiêu chủ yếu. Cụ thể:

Về mục tiêu tổng quát: phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu hàng đầu.

Về chỉ tiêu chủ yếu: tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 tăng 7%; kiềm chế lạm phát và tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng trong những tháng còn lại của năm 2008.

Để thực hiện tốt những mục tiêu trên, Quốc hội đề ra một số nhiệm vụ chính, trong đó nhấn mạnh: Chính phủ cần chủ động, linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành để thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Quốc hội khóa XII, tại kỳ họp thứ hai, về kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội và ngân sách nhà nước năm 2008 và những nội dung đã được điều chỉnh trong Nghị quyết này. Quốc hội yêu cầu Chính phủ tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm như: tiếp tục cụ thể hóa, kịp thời điều chỉnh hợp lý và tổ chức thực hiện đồng bộ các giải pháp, cơ chế, chính sách để vừa kiềm chế lạm phát, giảm tốc độ tăng giá tiêu dùng, vừa bảo đảm an sinh xã hội, không gây ách tắc sản xuất, kinh doanh; rà soát để cắt giảm, đình hoãn những công trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn ngân sách nhà nước, vốn có nguồn gốc ngân sách nhà nước (kể cả từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ) xét thấy chưa thật bức thiết; điều chuyển, tập trung vốn cho những công trình, dự án có hiệu quả, có khả năng hoàn thành, đưa vào sử dụng trong năm 2008 và 2009, nhằm bảo đảm giữ được tăng trưởng kinh tế ở mức phù hợp...; triển khai đồng bộ các biện pháp bảo đảm việc làm và giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng, chống bão lũ, dịch bệnh; có chính sách cụ thể bảo đảm ổn định đời sống cho người nghèo, người làm công hưởng lương, người có thu nhập thấp, đồng bào dân tộc miền núi và các vùng khó khăn, bị ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh...

Tiếp đó, tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 23/2008/QH12 về kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 2009 với mục tiêu tổng quát: tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, bền vững, chủ động ngăn ngừa suy giảm, bảo đảm an sinh xã hội; đẩy mạnh hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và hiệu quả; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội; tạo điều kiện thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 5 năm (2006-2010).

Bằng việc ra các nghị quyết về ưu tiên kiềm chế lạm pháp, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội,
đồng thời phấn đấu duy trì tăng trưởng hợp lý, Quốc hội đã góp phần quan trọng cùng Chính phủ, các cấp, các ngành và nhân dân cả nước khắc phục những khó khăn, thách thức to lớn do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới cùng với những diễn biến bất thường của thời tiết, khí hậu, thiên tai và dịch bệnh.

Trước tình hình khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến nhanh và phức tạp tác động trực tiếp đến nền kinh tế Việt Nam, tại kỳ họp thứ năm (giữa năm 2009), theo đề nghị của Chính phủ, Quốc hội đã thảo luận, phân tích sâu sắc tình hình thực tế, dự báo các tình huống, tính toán các phương án cụ thể và quyết định ban hành Nghị quyết số 32/2009/QH12, ngày 19-6-2009 điều chỉnh mục tiêu tổng quát, một số chỉ tiêu kinh tế, ngân sách nhà nước, phát hành bổ sung trái phiếu Chính phủ năm 2009 và miễn, giảm, thuế thu nhập cá nhân. Quốc hội cơ bản thống nhất với đánh giá tình hình kinh tế, xã hội năm 2008 và 4 tháng đầu năm 2009 của Chính phủ và cho rằng: những tháng đầu năm 2009, do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, đầu tư, giải quyết việc làm, thu ngân sách... của nước ta gặp nhiều khó khăn, hầu hết các chỉ tiêu đều đạt thấp so với kế hoạch và so với cùng kỳ nhiều năm trước. Nhưng, dưới sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực, quyết tâm cao của các cấp, các ngành, của toàn dân và cộng đồng doanh nghiệp, nền kinh tế đất nước đã đạt được kết quả tích cực bước đầu, thể hiện rõ nét trong một số ngành, lĩnh vực. Những khó khăn về sản xuất, việc làm, đời sống của nhân dân đang dần dần được tháo gỡ, tình hình chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững.

Tuy nhiên, những khó khăn, thách thức còn lớn. Từ nhận định về diễn biến tình hình kinh tế, xã hội 4 tháng đầu năm 2009 và những tháng tiếp theo, Quốc hội nhất trí điều chỉnh mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 2009, trong đó: “Tập trung cao độ mọi nỗ lực ngăn chặn suy giảm kinh tế, phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, giữ ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động phòng ngừa lạm phát cao trở lại, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, trong đó mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế”[11].

Cùng với mục tiêu tổng quát, Quốc hội quyết định điều chỉnh một số chỉ tiêu chủ yếu như: điều chỉnh chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm 2009 khoảng 5%; chỉ số giá tiêu dùng dưới 10%; chỉ tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu 3%; mức bội chi ngân sách nhà nước không quá 7% GDP. Đồng thời, Quốc hội cũng quyết định phát hành bổ sung 20.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ để đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án, công trình giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục theo mục tiêu đã được Quốc hội quyết định. Bổ sung mục tiêu đầu tư xây dựng ký túc xá cho sinh viên và các dự án cấp bách, nhất là ở các địa phương nghèo, kinh tế chậm phát triển; tạo điều kiện hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua khó khăn, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội.

Tại kỳ họp thứ sáu (cuối năm 2009), trên cơ sở phân tích, đánh giá khách quan, sâu sắc những kết quả đạt được, những khó khăn, hạn chế cần phải khắc phục và dự báo tình hình sắp tới, Quốc hội đã thảo luận và thông qua Nghị quyết số 36/2009/QH12 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010, với mục tiêu tổng quát là nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 5 năm (2006-2010).

Thực tế đã chứng minh, những điều chỉnh trên của Quốc hội khóa XII là cần thiết, đúng đắn và kịp thời. Qua đó, định hướng việc điều hành phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong bối cảnh thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, thể hiện bước tiến mới về năng lực lãnh đạo, trình độ dự báo, khả năng phản ứng chính sách và bản lĩnh vững vàng của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Trong những thành công chung đó có phần đóng góp quan trọng của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội khóa XII.

Cùng với việc quyết định các vấn đề về kinh tế, xã hội, Quốc hội khóa XII đã ban hành các nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước hằng năm. Nhìn chung, những nội dung Quốc hội quyết định trong lĩnh vực tài chính, ngân sách ngày càng được nâng cao về chất lượng và đi vào thực chất hơn theo hướng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng cao hợp lý; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết tốt hơn các vấn đề an sinh xã hội; xóa đói, giảm nghèo; bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại; duy trì và giữ vững các cân đối vĩ mô, cân đối ngân sách nhà nước một cách tích cực; bảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ quốc gia ở mức có thể kiểm soát được; bảo đảm trả nợ theo cam kết; đẩy mạnh sự phân công, phân cấp, tạo sự chuyển biến quan trọng, chủ động trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước; đồng thời bảo đảm những điều kiện vật chất để xử lý kịp thời các vấn đề cấp bách phát sinh; đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, nhất là trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước.

Về việc quyết định các công trình trọng điểm quốc gia, tại kỳ họp thứ sáu, sau khi xem xét Tờ trình số 124/TTr-CP, ngày 13-8-2009 của Chính phủ về báo cáo đầu tư xây dựng công trình thủy điện Lai Châu; Báo cáo thẩm tra số 740/BC-UBKHCNMT12, ngày 20-10-2009 của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội; Tờ trình số 180/TTr-CP, ngày 23-10-2009 của Chính phủ trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư Dự án thủy điện Lai Châu và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, ngày 25-11-2009, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 40/2009/QH12, về chủ trương đầu tư Dự án thủy điện Lai Châu để cung cấp điện cho hệ thống điện quốc gia; góp phần cùng với các nhà máy thủy điện trên sông Đà phục vụ chống lũ về mùa mưa, cấp nước về mùa khô cho đồng bằng Bắc Bộ; phục vụ phát triển kinh tế, xã hội ở các tỉnh Lai Châu, Điện Biên và cả vùng Tây Bắc.

Theo nghị quyết của Quốc hội, địa điểm xây dựng đập và Nhà máy thủy điện Lai Châu được đặt tại xã Nậm Hàng, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Thời gian và lộ trình thực hiện dự án được xác định: công trình xây dựng nhà máy được khởi công vào cuối năm 2010, phát điện tổ máy số 1 vào năm 2016, hoàn thành công trình vào năm 2017. Để nhà máy khởi công và hoàn thành theo đúng lộ trình, Quốc hội giao Chính phủ quyết định đầu tư và triển khai Dự án thủy điện Lai Châu với các yêu cầu, nhiệm vụ cơ bản sau:

Một là, tổ chức triển khai kịp thời các bước tiếp theo của dự án: hoàn thiện hồ sơ, thiết kế kỹ thuật; xây dựng, ban hành quy trình, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong thiết kế, thi công, giám sát xây dựng công trình, nhằm bảo đảm tiến độ, an toàn tuyệt đối, hiệu quả kinh tế tổng hợp; quản lý chặt chẽ các khâu theo quy định của pháp luật về đầu tư;

Hai là, xây dựng quy hoạch, phương án cụ thể và tổ chức thực hiện tốt công tác di dân tái định cư theo nguyên tắc công khai, dân chủ, đúng đối tượng, đúng chính sách và pháp luật; tổ chức lại sản xuất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phương thức canh tác để phát triển sản xuất, ổn định và nâng cao đời sống của người dân tái định cư một cách căn bản, bền vững, lâu dài;

Ba là, thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án; bảo vệ nghiêm ngặt khu bảo tồn thiên nhiên Mường Tè - Mường Nhé; đẩy mạnh công tác bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh, trồng mới rừng đầu nguồn, tăng nhanh độ che phủ rừng trên toàn lưu vực sông Đà thuộc lãnh thổ Việt Nam; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc thiểu số; bảo đảm quốc phòng, an ninh khu vực biên giới.

Cùng với Dự án thủy điện Lai Châu, cũng tại kỳ họp thứ 6, ngày 25-11-2009, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 41/2009/QH12 về chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Theo đó, Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, gồm hai nhà máy, mỗi nhà máy có hai tổ máy để cung cấp điện cho hệ thống điện quốc gia, góp phần phát triển kinh tế, xã hội đất nước và tỉnh Ninh Thuận. Địa điểm xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 đặt tại xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam; Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 đặt tại xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải. Về thời gian và lộ trình thực hiện: khởi công xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 vào năm 2014, đưa tổ máy đầu tiên vận hành vào năm 2020. Căn cứ vào tình hình chuẩn bị, Chính phủ báo cáo Quốc hội quyết định thời điểm khởi công xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2.

Quốc hội giao Chính phủ quyết định đầu tư và triển khai Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận với các yêu cầu, nhiệm vụ cơ bản sau:

Một là, khẩn trương hoàn thiện, phê duyệt các quy hoạch và ban hành đầy đủ, đồng bộ văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về xây dựng, quản lý, vận hành và khai thác nhà máy điện hạt nhân;

Hai là, tính toán thiết kế công trình theo tiêu chuẩn cấp đặc biệt, bảo đảm an ninh, an toàn cao nhất. Nghiên cứu, đánh giá đầy đủ về các tác động của các đứt gãy kiến tạo địa chất, các hiện tượng biến đổi khí hậu, nước biển dâng ở khu vực triển khai dự án; lập và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án theo quy định;

Ba là, xây dựng phương án cụ thể và tổ chức thực hiện tốt công tác di dân tái định cư, đầu tư xây dựng hạ tầng phục vụ dự án, mặt bằng và các hạng mục phụ trợ phục vụ xây dựng nhà máy;

Bốn là, có chính sách ưu tiên đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, phúc lợi xã hội ở khu vực có nhà máy theo quy định tại Điều 5 của Luật năng lượng nguyên tử;

Năm là, lựa chọn nhà đầu tư có kinh nghiệm lâu năm trong việc thiết kế, chế tạo, xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, thuộc quốc gia có tiềm lực cao về khoa học và công nghệ trong lĩnh vực này, đã thực hiện nhiều dự án nhà máy điện hạt nhân, có khả năng thu xếp tài chính và suất đầu tư hợp lý. Có kế hoạch từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong xây dựng và chế tạo thiết bị;

Sáu là, khẩn trương triển khai kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử và điện hạt nhân để tham gia xây dựng bảo đảm chất lượng và vận hành nhà máy, kiểm tra, giám sát và đánh giá về an toàn trong quá trình xây dựng, vận hành và khai thác nhà máy điện hạt nhân;

Bảy là, nghiên cứu, đánh giá tài nguyên, trữ lượng, khả năng khai thác, chế biến và nhu cầu sử dụng lâu dài urani trong nước;

Tám là, có quy hoạch, kế hoạch tổng thể sử dụng đất để đáp ứng yêu cầu xây dựng khu vực xử lý chất thải hạt nhân bảo đảm an toàn;

Chín là, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thông qua nhiều hình thức cụ thể, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.

Quốc hội giao cho Chính phủ nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách đặc biệt cho phép chủ đầu tư tích lũy nguồn vốn, cung cấp tín dụng của các ngân hàng; bồi thường, hỗ trợ tái định cư; xây dựng hạ tầng kinh tế, xã hội, tổ chức sản xuất, ổn định đời sống nhân dân vùng chịu ảnh hưởng của việc xây dựng nhà máy trình Quốc hội xem xét, quyết định vào thời điểm thích hợp.

Sau khi thông qua hai nghị quyết nêu trên, để đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn cuộc sống đặt ra; đồng thời nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm của Quốc hội và các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quyết định chủ trương đầu tư, quản lý và sử dụng có hiệu quả các công trình, dự án có quy mô lớn đầu tư tại Việt Nam và nước ngoài, Quốc hội đã quyết định sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 66/2006/QH11, ngày 29-6-2006 về dự án công trình quan trọng quốc gia trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Trên cơ sở khung pháp lý của Nghị quyết, Quốc hội khóa XII đã xem xét, điều chỉnh và quyết định chủ trương đầu tư một số dự án như: điều chỉnh dự án Khí - Điện - Đạm Phú Mỹ tại Bà Rịa - Vũng Tàu (Nghị quyết số 78/2007/ QH11, ngày 2-4-2007); điều chỉnh chỉ tiêu, nhiệm vụ của Dự án trồng mới 5 triệu hécta rừng trong giai đoạn 2006-2010 (Nghị quyết số 73/2006/QH11 ngày 29-11-2006). Đặc biệt, Quốc hội đã thông qua chủ trương đầu tư Dự án Nhà máy thủy điện Lai Châu và dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận tại kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XII.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, một số nội dung của Nghị quyết số 66 không còn phù hợp với tình hình phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Do đó, sau khi xem xét Tờ trình số 61/TTr-CP, ngày 14-5-2010 của Chính phủ; Báo cáo thẩm tra số 1544/BC-UBKT12, ngày 27-5-2010 của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, ngày 19-6-2010, tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 49/2010/QH12 về dự án, công trình trọng điểm quốc gia trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Theo đó, Nghị quyết xác định các dự án, công trình quan trọng quốc gia đầu tư tại Việt Nam trình Quốc hội quyết định chủ đầu tư sẽ bao gồm các tiêu chí sau:

1. Tổng vốn đầu tư từ ba mươi lăm nghìn tỷ đồng trở lên, trong đó vốn nhà nước từ mười một nghìn tỷ đồng trở lên;

2. Dự án, công trình có ảnh hưởng lớn đến môi trường hoặc tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, bao gồm: nhà máy điện hạt nhân; dự án, công trình sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học từ 50 ha trở lên; rừng phòng hộ đầu nguồn từ 50 ha trở lên; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay, chắn sóng lấn biển, bảo vệ môi trường từ 500 ha trở lên; rừng sản xuất từ 1.000ha trở lên;

3. Dự án, công trình sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên với quy mô từ 500 ha trở lên;

4. Dự án, công trình phải di dân tái định cư từ hai mươi nghìn người trở lên ở miền núi, từ năm mươi nghìn người trở lên ở các vùng khác;

5. Dự án, công trình đầu tư tại địa bàn có di tích quốc gia có giá trị đặc biệt quan trọng về lịch sử, văn hóa; danh lam thắng cảnh được xếp hạng cấp quốc gia;

6. Dự án, công trình đầu tư tại địa bàn đặc biệt quan trọng đối với quốc gia về quốc phòng, an ninh. Chính phủ quy định tiêu chí địa bàn đặc biệt quan trọng đối với quốc gia về quốc phòng, an ninh sau khi xin ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

7. Dự án, công trình đòi hỏi phải áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội quyết định.

Đối với các dự án, công trình đầu tư ra nước ngoài trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư sẽ phải đáp ứng một trong các tiêu chí sau đây:

1. Tổng vốn đầu tư ra nước ngoài từ hai mươi nghìn tỷ đồng trở lên, trong đó vốn Nhà nước đầu tư ra nước ngoài từ bảy nghìn tỷ đồng trở lên;

2. Dự án, công trình đòi hỏi phải áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được Quốc hội quyết định.

Để giám sát đối với việc thực hiện các dự án, công trình quan trọng quốc gia, Quốc hội yêu cầu Chính phủ hằng năm phải báo cáo Quốc hội về tình hình thực hiện các dự án, công trình quan trọng quốc gia; Quốc hội cũng đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội chủ động xây dựng kế hoạch giám sát quá trình triển khai thực hiện các dự án, công trình quan trọng quốc gia và báo cáo Quốc hội theo phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn.

Không chỉ quyết định các nội dung quan trọng liên quan đến sự phát triển đi lên của đất nước, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã xem xét, quyết định việc rút ngắn nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII cho phù hợp thời điểm tiến hành đại hội của Đảng. Tại phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã phát biểu và nêu rõ: “xuất phát từ lợi ích chung của đất nước, các vị đại biểu Quốc hội xem xét việc rút ngắn nhiệm kỳ của Quốc hội khóa XII nhằm thể chế hóa Nghị quyết của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về việc điều chỉnh thời gian tổ chức đại hội Đảng toàn quốc, bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Đây là việc làm nhằm khắc phục những hạn chế và khó khăn do sự chênh lệch về thời điểm bắt đầu và kết thúc của nhiệm kỳ đại hội Đảng, nhiệm kỳ Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp”[12].

Trên cơ sở đó, căn cứ Điều 85 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10, ngày 25-12-2001 của Quốc hội khóa X; sau khi xem xét Tờ trình số 05/TTr-UBTVQH12, ngày 30-7-2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc rút ngắn nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, ngày 4-8-2007, Quốc hội khóa XII thông qua Nghị quyết số 05/2007/QH12 về việc rút ngắn một năm nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII; đồng thời giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII theo luật định.

Cùng với việc xem xét thông qua Nghị quyết về rút ngắn nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII, Quốc hội đã xem xét kéo dài nhiệm kỳ hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp. Bởi theo quy định của Điều 6 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ban hành năm 2003, nhiệm kỳ 2004-2009 của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp hiện hành sẽ
kết thúc vào năm 2009. Tuy nhiên, để thống nhất bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp vào cùng một thời điểm, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã thông qua chủ trương kéo dài nhiệm kỳ hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp đến năm 2011.

Thực hiện chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng thời thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X về thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân ở cấp huyện, quận, phường và nhân dân sẽ bầu trực tiếp chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Tại kỳ họp thứ tư, ngày 14-11-2008, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 25/2008/QH12 về việc kéo dài nhiệm kỳ hoạt động 2004-2009 của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp. Nghị quyết nêu rõ: “Kéo dài nhiệm kỳ hoạt động 2004-2009 của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp cho đến kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân các cấp khóa sau vào năm 2011. Ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp khóa sau do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ấn định và công bố”[13].

Cũng tại kỳ họp thứ tư, ngày 15-11-2008, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 26/2008/QH12 về thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường; danh sách cụ thể do Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định. Thời gian thực hiện thí điểm bắt đầu từ ngày 25-4-2009 cho đến khi Quốc hội quyết định chấm dứt việc thực hiện thí điểm. Tại những nơi thực hiện thí điểm, Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường kết thúc nhiệm kỳ 2004-2009 vào ngày 25-4-2009, Ủy ban nhân dân huyện, quận, phường nhiệm kỳ 2004-2009 tiếp tục hoạt động cho đến khi Ủy ban nhân dân mới được thành lập.

Trong nhiệm kỳ khóa XII, một nội dung quan trọng đã được Quốc hội dành nhiều thời gian xem xét, đó là quyết định điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước để phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng trong giai đoạn mới. Tại kỳ họp thứ ba, sau khi xem xét Tờ trình số 59/TTr-CP, ngày 29-4-2008 của Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính giữa tỉnh Hà Tây và tỉnh Phú Thọ, giữa tỉnh Bình Phước và tỉnh Đồng Nai; căn cứ Báo cáo thẩm tra số 333/UBPL12, ngày 12-5-2008 của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, ngày 29-5-2008, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 14/2008/NQ-QH12 về việc điều chỉnh địa giới hành chính giữa tỉnh Hà Tây và tỉnh Phú Thọ, giữa tỉnh Bình Phước và tỉnh Đồng Nai. Theo đó, chuyển toàn bộ diện tích tự nhiên 454,08ha và dân số hiện tại 2.721 người của xã
Đức Tân thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây về thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; chuyển toàn bộ diện tích tự nhiên 128,48 ha và dân số hiện tại 830 người của ấp C10 thuộc xã Đăng Hà, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước về xã Đắk Lua, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

Như vậy, sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, tỉnh Hà Tây có diện tích tự nhiên là 219.341,11 ha và dân số 2.568.007 người; tỉnh Phú Thọ có diện tích tự nhiên là 353.294,93 ha và dân số 1.345.498 người; tỉnh Bình Phước có diện tích tự nhiên là 688.215,67 ha và dân số 832.334 người; tỉnh Đồng Nai có diện tích tự nhiên là 590.522,87 ha và dân số 2.326.490 người.

Đại biểu Quốc hội thảo luận tại hội trường về Đề án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XII, ngày 15-6-2010

Đại biểu Quốc hội thảo luận tại hội trường về Đề án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030

tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XII, ngày 15-6-2010

Tiếp đó, Quốc hội đã xem xét điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan. Đây là vấn đề thu hút sự quan tâm lớn của cử tri và nhân dân cả nước, bởi nó quyết định sự phát triển đi lên của Thủ đô Hà Nội trong thế kỷ XXI[14].

Trong quá trình xây dựng và phát triển, thành phố Hà Nội đã có nhiều lần thay đổi về địa giới hành chính. Từ sau ngày giải phóng miền Nam đến năm 2008, thành phố Hà Nội có hai lần điều chỉnh địa giới hành chính quan trọng. Cụ thể:

Sau giải phóng miền Nam, nước nhà thống nhất, Đảng và Nhà nước có chủ trương xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung để có nguồn lực phát triển. Trong giai đoạn 1975-1978, có nhiều tỉnh được sáp nhập lại (trong đó có thành phố Hà Nội, Quốc hội quyết định: sáp nhập một số huyện, thị xã, xã của tỉnh Hà Sơn Bình và một số huyện, xã, thị trấn của tỉnh Vĩnh Phú vào thành phố Hà Nội). Khi đó, thành phố Hà Nội có 213.600 ha diện tích tự nhiên, dân số 2,462 triệu người.

Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước có chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có nhiều thành phần kinh tế. Để phù hợp với tình hình mới, ngày 12-8-1991 một số tỉnh đã được Quốc hội cho phép điều chỉnh lại có quy mô phù hợp để quản lý (trong đó có thành phố Hà Nội, Quốc hội quyết định: chuyển huyện Mê Linh thuộc thành phố Hà Nội về tỉnh Vĩnh Phú; chuyển thị xã Sơn Tây và 5 huyện của thành phố Hà Nội về tỉnh Hà Tây). Khi đó, thành phố Hà Nội có 92.097,00 ha diện tích tự nhiên, dân số 2,128 triệu người .

Theo đó, tính đến năm 2008, thành phố Hà Nội có 92.180.46 ha diện tích tự nhiên (lấy theo kết quả Tổng kiểm tra đất đai năm 2005, Quyết định số 272/QĐ-TTg, ngày 27-02-2007 của Thủ tướng Chính phủ), dân số 3.457.424 người có đăng ký hộ khẩu và khoảng 2 triệu người thường xuyên lưu trú; có 14 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 9 quận: Ba Đình, Tây Hồ, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Đống Đa, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai và 5 huyện: Sóc Sơn, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm, Đông Anh.

Trong quá trình đó, Thủ đô Hà Nội được tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tốc độ tăng trưởng GDP năm sau cao hơn năm trước. Đến 2008, tổng sản phẩm của Thủ đô Hà Nội chiếm 9,3% GDP cả nước; thu ngân sách chiếm trên 14,7%; giá trị sản xuất công nghiệp chiếm gần 15%; xuất khẩu chiếm gần 9%. Chất lượng cuộc sống của người dân Thủ đô ngày được nâng cao.

Về phát triển đô thị, đi đôi với việc cải tạo, nâng cấp các công trình, các khu phố cũ, Thủ đô tập trung xây dựng nhiều công trình lớn mang tầm cỡ quốc gia, quốc tế như: Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Khu Liên hợp thể thao Quốc gia Mỹ Đình, hàng loạt các khu đô thị mới, khách sạn, thương mại, văn phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế... Nhưng về tổng thể, vẫn còn nhiều bất cập và mất cân đối trong quá trình phát triển như: sự bùng phát các khu công nghiệp tập trung tại các tuyến quốc lộ quanh Hà Nội cùng các khu đô thị mới đang dần hình thành trong và ngoài vành đai xanh một cách manh mún; trong nội đô thiếu nguồn đất đai xây dựng những dự án lớn mang tầm cỡ quốc gia và khu vực...

Về giao thông, Thủ đô Hà Nội đứng trước sự quá tải, mất cân đối lớn giữa hệ thống đường sá chật hẹp trong khi số lượng các phương tiện tăng lên nhanh chóng; mặt khác, không có phân cấp rõ ràng giữa đường cao tốc, quốc lộ cũng như đường cấp địa phương. Nhiều loại hình giao thông đều sử dụng chung mặt đường. Hệ thống đường cao tốc đang trong quá trình xây dựng lại chưa liên kết được thành mạng lưới, dẫn đến tình trạng quá tải, ùn tắc thường xuyên tại các nút giao thông cũng như các tuyến đường vành đai, đường xuyên tâm dẫn vào thành phố. Nhiều cơ quan Trung ương, trường học, bệnh viện của Trung ương và của thành phố, các công trình công cộng, các trung tâm văn hóa chủ yếu đều bố trí ở các quận nội thành cũ, tần suất giao dịch, đi lại của người dân đến các địa điểm này rất lớn, làm tăng thêm sự quá tải trên các tuyến giao thông cả trong nội thành và ngoại thành; tình trạng ùn tắc, tai nạn giao thông gia tăng, vệ sinh môi trường đô thị không được bảo đảm. Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa diễn ra nhanh làm cho cơ sở hạ tầng, dịch vụ đô thị và nhà ở quá tải, không đáp ứng nhu cầu của nhân dân cũng như các hoạt động kinh tế, xã hội khác trên địa bàn Thủ đô. Một số công trình công cộng thiết yếu của Thủ đô như khu công nghệ cao, cấp nước, nghĩa trang, khu xử lý chất thải, đầu mối giao thông lớn, đường vành đai vùng,... đã và đang phải triển khai trên đất các tỉnh khu vực xung quanh.

Hơn nữa, Đồ án quy hoạch xây dựng Vùng Hà Nội đã chỉ ra những hạn chế bất cập trong bối cảnh phát triển của Hà Nội do không gian hiện hữu không đáp ứng được tốc độ đô thị hóa của Hà Nội. Các dự án đầu tư tại các tỉnh xung quanh Hà Nội, chủ yếu các dự án đã tính toán phục vụ nhu cầu sử dụng từ thành phố Hà Nội như các dự án xây dựng đô thị ở thành phố Hà Đông, khu đô thị mới An Khánh, khu du lịch tại Ba Vì, Quốc Oai thuộc tỉnh Hà Tây, các khu nhà ở mới tại khu vực giáp ranh giữa Hà Nội với tỉnh Bắc Ninh, khu đô thị mới ở Văn Giang, tỉnh Hưng Yên hay các đại siêu thị Mê Linh Plaza và các khu nhà biệt thự tại huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc,...

Chính vì vậy, Đồ án quy hoạch xây dựng Vùng Hà Nội đã kiến nghị sự cần thiết phải nghiên cứu một Đề án mở rộng ranh giới thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, tiến hành quy hoạch xây dựng Thủ đô Hà Nội hướng tới những mục tiêu phát triển không gian, là Thủ đô - biểu trưng của quốc gia, trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, một trung tâm lớn của quốc gia về văn hóa - khoa học - đào tạo - kinh tế, trung tâm du lịch và giao dịch quốc tế, một đô thị hiện đại, năng động và hiệu quả có tầm khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Xuất phát từ thực tiễn trên, sau khi xem xét Tờ trình số 60/TTr-CP, ngày 29-4-2008 của Chính phủ về việc mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội; Báo cáo thẩm tra số 333/UBPL12, ngày 12-5-2008 của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, tại kỳ họp thứ ba, ngày 29-5-2008, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 15/2008/QH12 về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan. Theo đó, hợp nhất toàn bộ diện tích tự nhiên 219.341,11 ha và dân số 2.568.007 người[15] của tỉnh Hà Tây vào thành phố Hà Nội; chuyển toàn bộ huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc về thành phố Hà Nội, bao gồm diện tích tự nhiên 14.164,53 ha và dân số 187.255 người; chuyển toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình về thành phố Hà Nội, bao gồm 1.720.36 ha diện tích tự nhiên và dân số 4.495 người của xã Đông Xuân, 3.457.74 ha diện tích tự nhiên và dân số 6.606 người của xã Tiến Xuân, 2.073.06 ha diện tích tự nhiên và dân số 5.875 người của xã Yên Bình, 1.532.76 ha diện tích tự nhiên và dân số 3.278 người của xã Yên Trung.

Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thành phố Hà Nội có diện tích tự nhiên 334.470.02 ha và dân số 6.232.940 người, bao gồm diện tích tự nhiên và dân số của các quận Hoàn Kiếm, Đống Đa, Ba Đình, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Cầu Giấy, Hoàng Mai, Long Biên, Thanh Xuân, các huyện Đông Anh, Từ Liêm, Sóc Sơn, Gia Lâm, Thanh Trì, Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa, Mê Linh, các thành phố Hà Đông, Sơn Tây và các xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình và Yên Trung.

Thành phố Hà Nội phía bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Vĩnh Phúc; phía nam giáp tỉnh Hà Nam và tỉnh Hòa Bình; phía đông giáp các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên; phía tây giáp tỉnh Hòa Bình và tỉnh Phú Thọ.

Tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích tự nhiên 123.176,43 ha và dân số 1.059.063 người, bao gồm diện tích tự nhiên và dân số hiện tại của thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên, các huyện Bình Xuyên, Lập Thạch, Tam Dương, Tam Đảo, Vĩnh Tường và Yên Lạc.

Tỉnh Hòa Bình có diện tích tự nhiên 459.635,15 ha và dân số 832.543 người. Huyện Lương Sơn có diện tích tự nhiên 28.684,68 ha và dân số 67.288 người.

Việc Quốc hội khóa XII quyết định điều chỉnh địa giới hành chính của một số tỉnh, thành phố nêu trên thể hiện tầm nhìn chiến lược, đáp ứng được yêu cầu phát triển chung của các tỉnh, thành phố trong hiện tại và tương lai.

Một trong những điểm nhấn nổi bật thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Quốc hội trong việc thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, đó là: sau khi nghiên cứu các báo cáo và tờ trình của Chính phủ, lắng nghe ý kiến của cử tri và nhân dân, tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XII đã thảo luận dân chủ, xem xét, cân nhắc toàn diện các mặt một cách nghiêm túc, kỹ lưỡng và quyết định chưa thông qua chủ trương đầu tư xây dựng dự án đường sắt cao tốc Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh. Quốc hội đã giao trách nhiệm cho Chính phủ tiếp tục rà soát, hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể về giao thông trong cả nước cũng như từng vùng và hệ thống giao thông Bắc - Nam, trên cơ sở đó trình Quốc hội xem xét, quyết định cụ thể vào thời gian thích hợp.

Việc xem xét, quyết định cơ cấu, tổ chức bộ máy và nhân sự cấp cao của các cơ quan nhà nước được Quốc hội khóa XII tiến hành thận trọng. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã bầu những người đứng đầu các cơ quan nhà nước và phê chuẩn việc bổ nhiệm các thành viên của Chính phủ; quyết định về cơ cấu tổ chức của Chính phủ. Tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội cũng đã tiến hành phê chuẩn việc miễn nhiệm, bổ nhiệm một số chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Cụ thể:

Ngày 17-6-2010, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 45/2010/QH12 phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với ông Nguyễn Thiện Nhân để tập trung làm nhiệm vụ Phó Thủ tướng Chính phủ, thông qua Nghị quyết số 46/2010/QH12 miễn nhiệm chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội khóa XII đối với ông Nguyễn Hoàng Anh để tập trung làm nhiệm vụ mới và bầu ông Mai Xuân Hùng giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Cùng ngày, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 47/2010/QH12 phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với ông Phạm Vũ Luận.

Nhìn chung, trong nhiệm kỳ khóa XII, các vấn đề quan trọng của đất nước đều được Quốc hội xem xét kỹ lưỡng, thận trọng, bảo đảm quy trình chặt chẽ, dân chủ, công khai, gắn với việc thực hiện chức năng giám sát, nhất là quy trình thông qua các vấn đề kinh tế, xã hội và ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng mới, việc thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng vẫn còn những hạn chế. Đó là, Quốc hội chưa dành nhiều thời gian, công sức để xem xét, quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, mặc dù đây là nội dung thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Việc đề ra một số chỉ tiêu, nhiệm vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước hằng năm chưa có tính khả thi cao, quan tâm đến số lượng, nhưng chưa phản ánh nhiều về chất lượng của sự phát triển. Việc xem xét, thông qua một số nghị quyết chưa bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ, có năm thông qua dự toán và phân bổ ngân sách trước kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của Quốc hội nói chung, mà còn chưa giải quyết kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh và mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước trong thời kỳ mới.

5. Củng cố và mở rộng hoạt động đối ngoại, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng, làm thay đổi bộ mặt đất nước, nâng tầm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo tiền đề và động lực cho Việt Nam tiến bước nhanh hơn, vững chắc hơn trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Quán triệt đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa và chủ động hội nhập quốc tế, hoạt động ngoại giao Việt Nam đã trở thành mặt trận quan trọng, góp phần giữ vững và củng cố môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới.

Phát huy thành tựu đó, từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng diễn ra tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đánh dấu 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Trên cơ sở phân tích sâu sắc những thuận lợi và khó khăn của tình hình trong nước và thế giới, Đại hội khẳng định, phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn nữa, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn, nhằm sớm đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội đã nêu chủ trương lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, với các nội dung chủ yếu như sau:

“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.

Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

...

Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.

...

Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương... Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)”[16].

Như vậy, đường lối đối ngoại của Nhà nước được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, so với Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã có sự điều chỉnh, bổ sung một số nội dung quan trọng, như: thứ nhất, Đại hội lần thứ X đã khẳng định việc Việt Nam thực hiện đường lối độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển (bổ sung cụm từ hòa bình, hợp tác và phát triển); thứ hai, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế (coi đa phương hóa, đa dạng hóa là đặc trưng của chính sách đối ngoại rộng mở); thứ ba, nhấn mạnh yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ với tinh thần chủ động mà còn phải tích cực, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Với phương châm Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực; thứ tư, Đại hội lần thứ X vừa tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, vừa thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.

Có thể khẳng định, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng là dấu mốc quan trọng trong việc định hướng chính sách đối ngoại của Việt Nam trong bối cảnh quốc tế và khu vực hết sức phức tạp. Sau 20 năm đổi mới (1986-2006), nhiệm vụ trọng tâm và là điểm mới trong chính sách đối ngoại của Việt Nam theo Đại hội lần thứ X của Đảng phải “đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững”.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, cùng với hoạt động ngoại giao nhà nước, ngoại giao nhân dân, hoạt động đối ngoại của Quốc hội khóa XII tiếp tục được đẩy mạnh, củng cố và mở rộng với yêu cầu mới cao hơn, nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với tinh thần ấy, ngay sau khi Quốc hội khóa XII được kiện toàn, các hoạt động đối ngoại song phương tiếp tục được triển khai theo hướng ưu tiên đẩy mạnh quan hệ với các nước láng giềng, các nước Đông Nam Á, các đối tác quan trọng, đồng thời mở rộng đến các khu vực, các nước chưa có quan hệ nghị viện trực tiếp với Quốc hội Việt Nam.

Đối với Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, năm 2007 đánh dấu 45 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao (từ ngày 5-9-1962 đến ngày 5-9-2007) và 30 năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào (từ ngày 18-7-1977 đến ngày 18-7-2007), quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Quốc hội hai nước đã được đẩy mạnh trên nhiều mặt. Tháng 10- 2007, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam Nguyễn Văn Son sang thăm và làm việc tại Lào, nhằm triển khai thỏa thuận cấp cao giữa Quốc hội Việt Nam với Quốc hội Lào, thể hiện rõ quan hệ gắn bó truyền thống giữa Quốc hội hai nước trong thời kỳ mới. Tiếp đó, đầu năm 2008, Phó Chủ tịch Quốc hội Lào Xayxổmphon Phômvihản sang thăm và làm việc tại Việt Nam, đưa mối quan hệ hữu nghị giữa hai Quốc hội ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ giữa các cơ quan tương ứng của Quốc hội hai nước tiếp tục được tăng cường qua các chuyến thăm Lào của Đoàn Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Quốc hội Việt Nam vào tháng 3-2008 để trao đổi kinh nghiệm về công tác lập pháp trên lĩnh vực dân tộc. Năm 2009, Quốc hội Việt Nam và Quốc hội Lào diễn ra nhiều hoạt động như trao đổi các đoàn nghiên cứu; tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo giữa Ủy ban Quốc phòng và An ninh và Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội hai nước; tiếp tục phối hợp tại các diễn đàn Nghị viện khu vực và quốc tế.

Song song mối quan hệ mật thiết với Quốc hội Lào, với Quốc hội Vương quốc Campupuchia, từ ngày 15 đến ngày 20-1-2009, Đoàn Chủ tịch Quốc hội Vương quốc Campuchia do ngài Xămđéc Hiêng Xomrin dẫn đầu đã sang thăm hữu nghị chính thức Việt Nam. Sau chuyến thăm của Chủ tịch Quốc hội Vương quốc Campuchia, từ ngày 4 đến ngày 11-4-2010, Đoàn đại biểu Thượng viện Campuhia sang thăm Việt Nam với sự tham gia của một số chủ nhiệm các ủy ban của Thượng viện Quốc hội Campuchia để nghiên cứu, tìm hiểu về việc phân cấp quản lý, giao quyền tự chủ cho chính quyền địa phương tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh An Giang.

Điểm nổi bật trong quan hệ giữa Quốc hội Việt Nam với Quốc hội Campuchia cũng như Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong nhiệm kỳ khóa XII, đó là: từ ngày 6 đến ngày 9-7-2010, Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam đã phối hợp cùng Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Lào và Quốc hội Campuchia tổ chức thành công Hội nghị Ủy ban Đối ngoại Quốc hội 3 nước lần thứ hai với chủ đề Vai trò của Quốc hội đối với tam giác phát triển khu vực biên giới ba nước Campuchia - Lào - Việt Nam tại Kratie (Campuchia), với mục đích thúc đẩy và tăng cường củng cố mối quan hệ hữu nghị và hợp tác, ủng hộ cho 3 chính phủ đối với sự phát triển chung khu vực biên giới giữa ba nước Campuchia - Lào - Việt Nam.

Nằm trong hoạt động đối ngoại song phương, bên cạnh Lào và Campuchia, trong nhiệm kỳ khóa XII, hoạt động đối ngoại của Quốc hội Việt Nam với Quốc hội Trung Quốc tiếp tục được tăng cường, thể hiện ở sự kiện Đoàn Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam do Chủ nhiệm Ủy ban Nguyễn Văn Son làm Trưởng đoàn đã sang thăm và làm việc tại Trung Quốc vào tháng 4-2008. Đây là chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh ngay sau khi Trung Quốc kiện toàn Ban lãnh đạo Quốc hội khóa mới. Cũng trong năm 2008, Quốc hội Việt Nam tổ chức đón tiếp Đoàn đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, do Phó Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân Trung Quốc Trần Chí Lập làm Trưởng đoàn sang thăm hữu nghị Việt Nam từ ngày 5 đến ngày 10-12-2008. Quốc hội Việt Nam cũng tổ chức đón Đoàn Phó Chủ tịch Quốc hội Nghiêm Tuấn Kỳ thăm Việt Nam (từ ngày 20 đến ngày 24-3-2010); Đoàn Phó Chủ tịch Quốc hội Hàn Khởi Đức, kiêm Chủ tịch Hiệp hội nhân dân Trung Quốc vì hòa bình và giải trừ quân bị thăm Việt Nam (từ ngày 2 đến ngày 5-2-2010).

Ngoài những mối quan hệ song phương kể trên, quan hệ giữa Quốc hội Việt Nam với Quốc hội các nước khu vực Nam Thái Bình Dương được tăng cường mạnh mẽ, đánh dấu bằng chuyến thăm Việt Nam của Chủ tịch Quốc hội Nhà nước Liên bang Micronesia vào tháng 1- 2008. Đây là chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của người đứng đầu cơ quan lập pháp Micronesia, một quốc đảo tuy không lớn, quan hệ về chính trị, kinh tế, và thương mại với Việt Nam còn hạn chế, nhưng có ý nghĩa quan trọng về chính trị. Chuyến thăm mở ra những triển vọng hợp tác mới, thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư giữa hai nước, mở rộng quan hệ của Việt Nam với các nước tại khu vực Nam Thái Bình Dương.

Trên cơ sở đó, sau chuyến thăm của Chủ tịch Quốc hội Nhà nước Liên bang Micronesia, Đoàn đại biểu Quốc hội Ôxtrâylia do ngài Hari Gienkin, Chủ tịch Hạ viện dẫn đầu (từ ngày 5 – 11-1-2009) và Đoàn đại biểu Quốc hội Niu Dilân do ngài Loócút Xơmít, Chủ tịch Quốc hội dẫn đầu (từ ngày 15 – 19-4-2009) đã sang thăm và làm việc tại Việt Nam. Lãnh đạo Quốc hội Việt Nam và các nước bạn thỏa thuận tăng cường hợp tác, tham vấn và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương, coi đó là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường quan hệ giữa các quốc gia. Trong không khí thắm tình hữu nghị, Chủ tịch Quốc hội Niu Dilân, ngài Loócút Xơmít cam kết sẽ hỗ trợ Quốc hội Việt Nam trong việc bồi dưỡng kỹ năng chuyên môn cho các đại biểu Quốc hội Việt Nam và mong muốn Việt Nam sẽ ủng hộ Niu Dilân trở thành ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2015.

Với Nghị viện các nước châu Âu: tháng 9-2007, Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam tổ chức đón tiếp Đoàn Chủ tịch Hội đồng liên bang Đức do ngài Harald Ringstoff làm Trưởng đoàn đến thăm Việt Nam. Ngoài ra, Ủy ban Đối ngoại còn phối hợp với các cơ quan của Quốc hội đón tiếp và tiến hành đối thoại cởi mở với Đoàn Nhóm nghị sĩ IPU của Nghị viện Anh và Đoàn nghị sĩ Nghị viện châu Âu về một số vấn đề hai bên cùng quan tâm, trong đó có vấn đề dân chủ, nhân quyền.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Hội đồng Liên bang Nga Xécgây Mirônốp ký văn kiện hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam và Hội đồng Liên bang Nga, ngày 23-4-2009

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Hội đồng Liên bang Nga Xécgây Mirônốp ký văn kiện hợp tác giữa

Quốc hội Việt Nam và Hội đồng Liên bang Nga, ngày 23-4-2009

Sang năm 2008, các chuyến thăm Việt Nam của Đoàn Phó Chủ tịch Quốc hội Hunggari, Đoàn nghị sĩ hữu nghị Italia - ASEAN, đoàn Ủy ban Tư pháp Quốc hội Nauy, Đoàn Ủy ban Tài chính Quốc hội Đức, Đoàn Phó Chủ tịch Thượng viện Liên bang Nga, Đoàn Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Bungari, Đoàn Ủy ban Môi trường Hạ viện Cộng hòa Séc. Trong các cuộc tiếp xúc, trao đổi với Quốc hội Việt Nam, nghị sĩ các nước đề cao các hoạt động đối với ngoại giao nghị viện trong việc hỗ trợ, thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư song phương, nhấn mạnh sự cần thiết tăng cường giao lưu, trao đổi kinh nghiệm trong công tác lập pháp và giám sát giữa các nghị sĩ hai bên.

Trên cơ sở kết quả đạt được của năm 2008, tháng 4-2009, Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức Liên bang Nga, Cộng hòa Séc và Cộng hòa Bêlarút; Đoàn của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu thăm Vương quốc Anh tháng 7-2009 và Đoàn của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên thăm Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha tháng 9-2009. Qua các chuyến thăm, quan hệ giữa Quốc hội Việt Nam với Nghị viện các nước châu Âu được tăng cường, mở ra nhiều cơ hội học hỏi và hợp tác lẫn nhau.

Đối với Quốc hội các nước châu Phi: năm 2008, mở đầu quan hệ với khu vực châu Phi bằng chuyến thăm của Đoàn Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Marốc tới Việt Nam và Quốc hội Việt Nam cử một đoàn đi Nam Phi trong khuôn khổ diễn đàn nghị viện đa phương. Tiếp đó, một số đoàn của Quốc hội Việt Nam sang thăm và làm việc tại khu vực châu Phi như: Đoàn Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu thăm Vương quốc Marốc (7-2009); Đoàn Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng thăm Ai Cập (4-2009), Đoàn Ủy ban Pháp luật thăm và làm việc tại Nam Phi (9-2009).

Hoạt động đối ngoại song phương nổi bật của Quốc hội Việt Nam trong nhiệm kỳ khóa XII là thúc đẩy quan hệ mạnh mẽ với Hoa Kỳ thông qua việc trao đổi đoàn giữa hai bên. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các nghị sĩ Mỹ quan tâm nhiều tới vấn đề hợp tác kinh tế thương mại, thúc đẩy hợp tác văn hóa, giáo dục, chương trình tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh (POW/MIA), vấn đề hợp tác trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng.

Với phương châm tăng cường quan hệ hợp tác, sự hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, đồng thời chủ động đấu tranh, đối thoại xây dựng để giải quyết những vấn đề còn tồn tại, Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam đã chủ trì đón Đoàn Nghị viện Hoa Kỳ gồm các nghị sĩ thuộc Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ do lãnh tụ phe đa số Steny Hoyer và phó lãnh tụ phe thiểu số Roy Blunt đồng trưởng đoàn thăm Việt Nam (1-2008). Đây là đoàn nghị sĩ lớn nhất từ trước đến thời điểm này của Hạ viện Hoa Kỳ bao gồm các chính khách có ảnh hưởng lớn trong đời sống chính trị Hoa Kỳ thăm Việt Nam. Chuyến thăm giúp các nghị sĩ Hoa Kỳ hiểu biết thêm và có quan điểm khách quan hơn về các vấn đề liên quan đến Việt Nam. Tiếp đó, cuối năm 2008, đầu năm 2009, Quốc hội Việt Nam đón nhiều đoàn của Thượng viện và Hạ viện Hoa Kỳ sang thăm và làm việc tại Việt Nam, như đoàn của Thượng nghị sĩ Mác Bôcớt, thành viên lãnh đạo Đảng Dân chủ tại Quốc hội Hoa Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Tài chính Thượng viện; Đoàn của Thượng nghị sĩ Giôn Máckên. Qua chuyến thăm, hai bên tập trung trao đổi về quan hệ hai nước, hợp tác trên nhiều lĩnh vực và một số vấn đề cả hai phía cùng quan tâm.

Các hoạt động đối ngoại song phương được triển khai thành công, đạt hiệu quả cao trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII đã đóng góp thiết thực vào các mục tiêu: củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác ổn định lâu dài, toàn diện với các nước láng giềng có chung đường biên giới, các nước trong khu vực; thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ với các đối tác quan trọng, các nước có quan hệ truyền thống; tiếp tục khai thông và phát triển quan hệ với nghị viện các nước thuộc khu vực Trung Á, Trung Đông, châu Phi và Mỹ Latinh; trao đổi kinh nghiệm và tăng cường hợp tác nghị viện, nhất là trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, giám sát, phối hợp trên các diễn đàn quốc tế.

Trong nhiệm kỳ khóa XII, các hoạt động đối ngoại song phương của Quốc hội ngày càng đi vào chiều sâu với các thỏa thuận hợp tác và cam kết cụ thể. Quốc hội Việt Nam đã ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác với Hạ viện Séc, Quốc hội Bêlarút, Quốc hội Nga, Hạ viện Inđônêxia..., đặt nền móng quan trọng cho việc củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác nghị viện giữa Quốc hội Việt Nam với Quốc hội các nước.

Cùng với hoạt động đối ngoại song phương, Quốc hội Việt Nam tiếp tục tăng cường hoạt động đối ngoại đa phương trên các diễn đàn khu vực và thế giới, như: Đại hội đồng Liên Nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA), Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF), Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU), Liên minh Nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ (APF) và Hội nghị đối tác Nghị viện Á - Âu (ASEP). Quốc hội Việt Nam tham gia đóng góp tích cực vào hoạt động chung của các diễn đàn, chủ động đề xuất các sáng kiến, đưa ra những khuyến nghị mang tính xây dựng, nhằm thúc đẩy sự hợp tác có hiệu quả của các tổ chức này.

Với Liên Nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA), Quốc hội Việt Nam luôn có những hoạt động nổi bật. Tháng 8-2007, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng dẫn đầu Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam tham dự Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPA) lần thứ 28 tại Cuala Lămpơ, Malaixia. Đại hội đồng AIPA năm 2007 diễn ra vào thời điểm khu vực Đông Nam Á có những mốc kỷ niệm lớn như: 40 năm thành lập ASEAN và 30 năm thành lập AIPO/AIPA. ASEAN quyết tâm đẩy nhanh việc hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. AIPA cũng có những bước tiến mới trong hợp tác liên nghị viện khu vực, nhằm biến AIPA thành một tổ chức liên kết chặt chẽ và hiệu quả hơn, biểu hiện rõ nhất ở việc đổi tên từ Tổ chức Liên Nghị viện các quốc gia Đông Nam Á thành Liên minh Nghị viện các quốc gia Đông Nam Á (AIPA) cùng với việc sửa đổi Điều lệ AIPA. Đoàn Việt Nam tham dự Đại hội đồng đã chủ động đóng góp trong quá trình soạn thảo nghị quyết và các văn kiện, góp phần tạo nên thành công chung của Đại hội đồng AIPA năm 2007. Năm 2008, Đại hội đồng AIPA tập trung vào những vấn đề khu vực, phê chuẩn và thực hiện Hiến chương ASEAN, xây dựng cộng đồng ASEAN, đối phó với những thách thức kinh tế, xã hội đang đặt ra. Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đã có nhiều đóng góp cho thành công của Đại hội đồng năm 2008, trong đó có 6/21 nghị quyết được thông qua theo sáng kiến của Việt Nam.

Hoạt động trọng tâm trong đối ngoại đa phương năm 2010 của Quốc hội Việt Nam là việc giữ chức Chủ tịch AIPA nhiệm kỳ 2009-2010 và tổ chức Đại hội đồng AIPA 31 tại Việt Nam từ ngày 20 đến ngày 24-9-2010. Tại diễn đàn, các nghị sĩ nhấn mạnh những diễn biến nhanh chóng của tình hình thế giới và khu vực, cũng như tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, đòi hỏi các nước trong khu vực cần tăng cường hợp tác, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức để tiếp tục phát triển bền vững. Ngoài ra, các nghị sĩ cũng tập trung thảo luận về tình hình chính trị, an ninh khu vực và thế giới, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường hơn nữa quan hệ giữa AIPA - ASEAN và đề nghị thể chế hóa cuộc gặp chính thức giữa lãnh đạo AIPA và lãnh đạo ASEAN thành hoạt động mang tính thường niên. Đặc biệt, nhằm hướng tới xây dựng cộng đồng ASEAN vào năm 2015, Đại hội đồng nhất trí rằng, AIPA cần tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động để đóng góp xứng đáng cho sự phát triển của cộng đồng ASEAN; cần tiếp tục nghiên cứu để có những sửa đổi, bổ sung cần thiết vào Điều lệ AIPA, nghiên cứu đổi mới hoạt động của nhóm tư vấn AIPA, mở rộng việc hài hòa hóa pháp luật, cũng như nghiên cứu cải tiến cơ chế giám sát, nhằm tăng cường tính khả thi của các nghị quyết được AIPA thông qua, đưa các nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đọc diễn văn khai mạc Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA) lần thứ 31 tổ chức tại Hà Nội, ngày 10-9-2010.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đọc diễn văn khai mạc
Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA) lần thứ 31 tổ chức tại Hà Nội, ngày 10-9-2010.

Việc Quốc hội Việt Nam giữ chức Chủ tịch AIPA và đăng cai tổ chức thành công Đại hội đồng AIPA lần thứ 31 vào đúng dịp Việt Nam diễn ra nhiều hoạt động chào mừng Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội là một vinh dự của Quốc hội Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.

Tại diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF), từ ngày 20 đến ngày 24-1-2008, Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng dẫn đầu Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam tham dự kỳ họp thường niên lần thứ 16 của Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF) tại Niu Dilân. Gần 200 nghị sĩ đến từ 21 nước thành viên tham dự kỳ họp đã thảo luận và ra nghị quyết về nhiều vấn đề mang tính thời sự của khu vực và thế giới. Kết thúc APPF 16, các đại biểu nhất trí thông qua Thông cáo chung và 23 nghị quyết, trong đó có 2 nghị quyết do Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đề xuất, đó là: Nghị quyết về xóa đói, giảm nghèo và nâng cao vai trò của phụ nữ trong các hoạt động chính trị và kinh tế.

Cũng nằm trong hoạt động đa phương, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã dẫn đầu Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đi dự Hội nghị thường niên lần thứ 17 Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF) tại Lào (từ ngày 11 đến ngày 15-1-2009). Hội nghị đề cập tới nhiều vấn đề có tầm ảnh hưởng toàn cầu như cuộc khủng hoảng tài chính, vấn đề an ninh năng lượng, an ninh lương thực, vấn đề Trung Đông, biến đổi khí hậu và tiếp tục đề cao khuôn khổ hợp tác rộng mở, mềm dẻo tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động trên một nền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đa sắc tộc và đa tôn giáo.

Với Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU), tại kỳ họp IPU lần thứ 117, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội kiêm Phó Chủ tịch đoàn Việt Nam trong IPU Ngô Anh Dũng đã được bầu vào Ban Chấp hành Liên minh Nghị viện Thế giới nhiệm kỳ 2008-2011. Việc lần đầu tiên đại diện Quốc hội Việt Nam được Đại hội đồng bầu vào Ban Chấp hành với sự tín nhiệm cao cho thấy sự ghi nhận của Nghị viện các nước về những đóng góp tích cực và chủ động của Quốc hội Việt Nam tại diễn đàn liên nghị viện toàn cầu. Cùng với việc Việt Nam được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và sự hiện diện của Quốc hội Việt Nam tại Ban Chấp hành IPU đã tạo điều kiện để Việt Nam có cơ hội đóng góp trực tiếp và thiết thực hơn vào hoạt động của hai cơ chế hợp tác lớn nhất toàn cầu. Nổi bật hơn, tại kỳ họp lần thứ 123 của IPU tại Giơnevơ, Thụy Sĩ năm 2010, Quốc hội Việt Nam đã được bầu làm Phó Chủ tịch IPU nhiệm kỳ 2010-2011. Kết quả này thể hiện sự tín nhiệm và khẳng định rõ vai trò, vị trí ngày càng được nâng cao của Việt Nam cũng như của Quốc hội Việt Nam trên trường quốc tế.

Với Liên minh Nghị viện cộng đồng Pháp ngữ (APF), trên cương vị là Phó Chủ tịch APF, Việt Nam đã tham dự Hội nghị Ban Chấp hành và Đại hội đồng lần thứ 34-APF tại Quêbếch, Canađa tháng 7-2008. Tuy là Diễn đàn Liên minh Nghị viện nhưng hội nghị tập trung đề xuất các biện pháp xử lý những vấn đề như ô nhiễm môi trường, khủng hoảng lương thực. Ngoài ra, trong khuôn khổ APF, Việt Nam đã phối hợp với các đoàn đóng góp hiệu quả, thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa APF với Quốc hội các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Với những kết quả đạt được, Việt Nam đã làm tốt vai trò là Phó Chủ tịch Liên minh Nghị viện cộng đồng Pháp ngữ (APF), đóng góp nhiều sáng kiến cho hoạt động thực tiễn và phương hướng phù hợp với APF trong tình hình thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp, tiếng Pháp đang bị cạnh tranh nhất là tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Đối với Hội nghị đối tác Nghị viện Á - Âu (ASEP), Quốc hội Việt Nam luôn hoạt động tích cực và có nhiều đóng góp quan trọng. Trên tinh thần đó, nhằm bảo đảm góp phần thiết thực cho nội dung Hội nghị Đối tác Nghị viện Á - Âu lần thứ năm (ASEP 5) tại Bắc Kinh, Trung Quốc (6-2008), Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đã phối hợp với Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cùng cử đại diện tham gia. Với tinh thần chủ động, Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đã phối hợp tốt với Đoàn đại biểu Quốc hội Trung Quốc trên cương vị vai trò nước chủ nhà bảo đảm cho những nội dung chính của cơ chế đối thoại Nghị viện Á - Âu được thể hiện trong các văn kiện của ASEP. Đây là diễn đàn đóng góp tích cực cho khuôn khổ hợp tác ASEM và trở thành một cơ chế hợp tác liên nghị viện định kỳ với quy chế làm việc và hình thức đối thoại được hoàn thiện hơn. Điều đáng ghi nhận, kể từ sau kỳ họp tại Việt Nam năm 2005, cơ chế đối thoại ASEP được hoàn thiện hơn về quy chế hoạt động cũng như các phương hướng hoạt động.

Có thể nói, trong nhiệm kỳ khóa XII, Quốc hội Việt Nam đã đẩy mạnh hoạt động đối ngoại đa phương, tham gia đóng góp tích cực vào hoạt động chung của các diễn đàn khu vực và thế giới. Việc Quốc hội Việt Nam đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch và tổ chức thành công Đại hội đồng Liên Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á lần thứ 31 (AIPA 31); được bầu làm Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) nhiệm kỳ 2010-2011; đảm nhận cương vị Chủ tịch Nhóm ASEAN+3 đã đánh dấu sự trưởng thành mạnh mẽ của ngoại giao nghị viện Việt Nam, góp phần thiết thực vào tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực trong những năm đầu thế kỷ XXI.

Cùng với hoạt động đối ngoại song phươngđa phương, hoạt động của các tổ chức nghị sĩ hữu nghị Việt Nam tiếp tục được đẩy mạnh với các sự kiện nổi bật. Ngày 8-11-2007, 17 nhóm nghị sĩ hữu nghị với các nước được thành lập. Các nhóm nghị sĩ hữu nghị luôn có nhiều hình thức hoạt động phong phú, góp phần vào việc tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Quốc hội và nhân dân Việt Nam với Quốc hội và nhân dân các nước. Nhiều nhóm nghị sĩ hữu nghị có những hoạt động tích cực như Nhóm nghị sĩ hữu nghị với Nhật Bản, Nga, Pháp, Mông Cổ, Lào, Campuchia, ASEAN, Hàn Quốc, Mỹ Latinh...

So với các nhiệm kỳ trước, công tác tuyên truyền đối ngoại của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII cũng được đẩy mạnh, góp phần vào việc thông tin, quảng bá hình ảnh của Việt Nam với bạn bè quốc tế, nhằm mục tiêu: giới thiệu về tổ chức và hoạt động của Quốc hội Việt Nam; giới thiệu về đường lối và thành tựu đổi mới của đất nước, trong đó có vai trò ngày càng cao của Quốc hội trong tiến trình phát huy dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Có thể nói, hoạt động đối ngoại của Quốc hội khóa XII đã phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế trên cả bình diện song phương và đa phương; xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế, góp phần tích cực thực hiện các cam kết về lộ trình hội nhập kinh tế khu vực, phát triển các quan hệ kinh tế song phương và nâng cao vai trò, vị trí của Việt Nam nói chung, Quốc hội nói riêng trên trường quốc tế.

 

*

*     *

 

Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII (2007-2011) hoạt động trong bối cảnh vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa có những khó khăn thách thức. Mặc dù quỹ thời gian hoạt động ít hơn so với nhiệm kỳ khóa XI, nhưng những kết quả đạt được của Quốc hội khóa XII là đáng ghi nhận. Điểm đáng lưu ý, hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội ngày càng dân chủ, thiết thực và hiệu quả, có nhiều đổi mới. Những kết quả đó thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, nhưng rõ nét nhất là trong công tác xây dựng pháp luật, giám sát chuyên đề, chất vấn, trả lời chất vấn, quyết định nhiều vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, công trình quan trọng quốc gia và đẩy mạnh hoạt động đối ngoại.

Với quyết tâm đổi mới và nâng cao năng lực lập pháp, công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa XII có những tiến bộ quan trọng, quy trình lập pháp tiếp tục được đổi mới mạnh mẽ, số lượng luật, pháp lệnh được thông qua lớn; chất lượng văn bản ngày càng được nâng cao, tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng- an ninh, đối ngoại; góp phần thể chế hóa kịp thời, đúng đắn đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, xã hội của đất nước thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đi đôi với hoạt động lập pháp, hoạt động giám sát cũng được tăng cường với sự kết hợp của nhiều phương thức tổng hợp và sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan của Quốc hội. Nội dung giám sát tập trung vào những vấn đề bức xúc, Quốc hội đã dành nhiều thời gian, công sức thảo luận, ra nghị quyết, đồng thời tổ chức giám sát thực hiện các nghị quyết đã được thông qua. Việc Quốc hội khóa XII giám sát giải quyết các kiến nghị của cử tri là một điểm mới trong hoạt động giám sát tối cao, bước đầu mang lại hiệu quả thiết thực, được nhân dân tin tưởng và hoan nghênh.

Ngoài các chức năng trên, Quốc hội khóa XII luôn đề cao vai trò, trách nhiệm và nâng cao chất lượng trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, bảo đảm lợi ích chung của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân; đặc biệt, Quốc hội đã coi trọng quyết định các vấn đề về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước và công trình dự án quốc gia với chất lượng ngày càng cao, bám sát và đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn, góp phần đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thách thức, tiếp tục phát triển nhanh và bền vững. Tổ chức bộ máy được củng cố, kiện toàn từng bước ổn định, cơ bản đáp ứng yêu cầu của hoạt động thực tiễn.

Bên cạnh đó, hoạt động đối ngoại của Quốc hội khóa XII đạt nhiều kết quả tích cực cả về chiều rộng và chiều sâu. Quốc hội tăng cường đối ngoại song phương, tạo sự chuyển biến tích cực trong quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực và trên thế giới. Củng cố, phát triển quan hệ với các nước láng giềng, các nước ASEAN và Đông Bắc Á, đẩy mạnh quan hệ với Hoa Kỳ, Nghị viện châu Âu... theo chủ trương chung của Đảng và Nhà nước. Cùng với đó, Quốc hội tiếp tục tăng cường hoạt động đối ngoại đa phương trên các diễn đàn khu vực và thế giới như Đại hội đồng Liên Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPA), Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương (APPF), v.v.. Hoạt động đối ngoại đã góp phần quan trọng nâng cao vị thế của Việt Nam nói chung và Quốc hội nói riêng trên trường quốc tế.

Quốc hội ngày càng đổi mới về tổ chức và hoạt động, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ đã tạo ra nhiều nhân tố mới, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân do Đảng lãnh đạo, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Các kỳ họp của Quốc hội đã thực sự trở thành sự kiện chính trị của đất nước. Những phiên thảo luận về các dự án luật, tình hình kinh tế, xã hội, chất vấn và trả lời chất vấn sôi nổi, tâm huyết tại hội trường đã để lại dấu ấn tốt đẹp và cuốn hút sự quan tâm theo dõi của cử tri và nhân dân cả nước. Có thể khẳng định, hoạt động của Quốc hội khóa XII đã làm sâu sắc hơn nhận thức về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần tăng cường sự gắn bó giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, tạo ra một hình ảnh về sự năng động, dân chủ của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.

Có được những kết quả nêu trên là do Quốc hội khóa XII luôn có ý thức đổi mới, tìm tòi, sáng tạo và áp dụng nhiều cải tiến trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Yêu cầu của cuộc sống, mong muốn và đòi hỏi của nhân dân, trách nhiệm, tâm huyết của đại biểu đã thúc giục Quốc hội khóa XII luôn phải tự đổi mới để làm tròn nhiệm vụ với chất lượng ngày càng được nâng lên. Đó là kết quả tổng thể của đổi mới tư duy lý luận và thực tiễn của Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong đó nội dung quan trọng nhất là phát huy mạnh mẽ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đầy đủ hơn quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh của nhân dân, vì nhân dân. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại biểu Quốc hội là đại diện cho nhân dân cả nước, chịu trách nhiệm trước nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để phản ánh với Quốc hội và đó cũng là cơ sở góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Việc thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24-5-2005, về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị; đồng thời xây dựng, triển khai các đề án về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội đã góp phần quan trọng giúp Quốc hội ngày càng thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành.

Kết quả mà Quốc hội khóa XII đạt được là thành quả của sự nỗ lực, quyết tâm, tinh thần trách nhiệm của các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội; tinh thần cộng tác, phối hợp chặt chẽ của Chủ tịch nước, Chính phủ, các cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan hữu quan và sự đóng góp, ủng hộ của cử tri và nhân dân cả nước; sự kế thừa, phát huy thành quả đạt được và kinh nghiệm của các nhiệm kỳ Quốc hội trước đây. Đó còn là kết quả của quá trình nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của Quốc hội trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, Quốc hội khóa XII cũng còn những hạn chế cả về tổ chức, hoạt động và phương thức, lề lối làm việc, tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:

Về xây dựng pháp luật, quy trình lập pháp tuy có được cải tiến, nhưng chưa đồng bộ, việc phân công trách nhiệm một số chủ thể tham gia quy trình có điểm chưa hợp lý; một số báo cáo đánh giá tác động khi luật, pháp lệnh được trình và ban hành còn đơn giản; chưa phân định rõ trách nhiệm cụ thể của cơ quan tham gia soạn thảo, thẩm tra, chỉnh lý, nhất là trách nhiệm của cơ quan trình dự án; quá trình thảo luận, thông qua dự án luật, pháp lệnh trong một số trường hợp chưa có sự tranh luận đầy đủ, đối thoại đến cùng giữa đại biểu Quốc hội và cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra.

Về hoạt động giám sát, một số quy định của Luật hoạt động giám sát còn thiếu cụ thể hoặc chưa thật phù hợp, nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn kịp thời, nhất là cơ chế tiếp thu những kết luận, giải quyết các kiến nghị sau giám sát; quy định việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn chưa được
thực hiện trong nhiệm kỳ. Công tác bảo đảm cho việc thực hiện các hoạt động giám sát của cá nhân đại biểu Quốc hội cũng còn một số hạn chế; thiếu cơ chế hỗ trợ về mặt chuyên môn và bộ máy giúp việc khi tiến hành giám sát.

Về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thông tin “đầu vào” phục vụ Quốc hội thực hiện thẩm quyền còn chưa đầy đủ và kịp thời, độ chính xác chưa cao; thiếu cơ chế sử dụng các cơ quan chuyên môn độc lập thẩm định các vấn đề khoa học, kỹ thuật, tính chính xác của số liệu trước khi cung cấp cho đại biểu Quốc hội. Quy định pháp luật liên quan đến tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục tiến hành giới thiệu nhân sự, thẩm tra, bầu, phê chuẩn, số lượng ứng cử viên được bầu vào mỗi chức vụ còn chưa cụ thể, rõ ràng.

Về hoạt động đối ngoại, việc điều hòa, phối hợp hoạt động chưa thật tốt; kế hoạch đoàn ra đôi khi vẫn phải điều chỉnh; vẫn còn tình trạng nhiều đoàn cùng nghiên cứu về một nội dung tại cùng một nước; chưa chia sẻ tốt, khai thác có hiệu quả kết quả của các hoạt động đối ngoại; công tác thông tin đối ngoại cung cấp cho các đại biểu Quốc hội chưa đều, nhất là các thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với bạn bè quốc tế còn thiếu tính đồng bộ; công tác nghiên cứu, tham mưu, dự báo về đối ngoại trong một số trường hợp còn bị động...

Ngoài ra, sự phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội và sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan có lúc còn chưa được nhịp nhàng, có thời điểm còn thiếu chặt chẽ; do đó, đã ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ trong việc thực hiện một số nhiệm vụ chung.

Mặc dù còn những hạn chế, bất cập, nhưng trong nhiệm kỳ khóa XII, trên cơ sở kế thừa và không ngừng phát huy thành quả, kinh nghiệm của các khóa trước, Quốc hội đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các chức năng cơ bản. Thành tựu Quốc hội khóa XII đạt được không chỉ đánh dấu sự đổi mới về tổ chức và hoạt động, mà đó còn là cơ sở, tiền đề và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho các nhiệm kỳ Quốc hội tiếp theo.

 

 

[1], 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.76, 126.

[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.126.

[3]. Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2008 gồm 54 dự án luật, pháp lệnh, trong đó có 44 dự án thuộc chương trình chính thức (gồm 36 dự án luật, 8 dự án pháp lệnh) và 10 dự án luật thuộc chương trình chuẩn bị.

[4]. Sáu dự án luật gồm: Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật Nhà ở; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản; Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; Luật viên chức; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục và Luật công đoàn (sửa đổi). Sáu dự án pháp lệnh gồm: Pháp lệnh hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật; Pháp lệnh pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 10 của Pháp lệnh dân số.

[5]. Hai dự án luật gồm: Luật Thủ đôLuật tổ chức Quốc hội (sửa đổi).

[6]. Hai dự án luật gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử Hội đồng nhân dân; Luật Công an nhân dân (sửa đổi).

[7]. Trước đó, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, nhiều luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nhà nước đã được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới như: Luật tổ chức Quốc hội (2001), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Quốc hội (2007), Luật tổ chức Chính phủ (2001), Bộ luật dân sự (2005), Luật doanh nghiệp, Luật thương mại, Luật đầu tư (2005), Luật chứng khoán (2006)...

[8]. Tiếp thu ý kiến của Hội đồng Dân tộc, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chương trình, chính sách để tiếp tục tăng cường đầu tư phát triển cho các địa bàn miền núi, như: rà soát hoàn thiện Chương trình 135 giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 (giai đoạn III); về chương trình công tác dân tộc trong giai đoạn mới; chính sách dành cho 62 huyện nghèo nhất nước; chế độ phụ cấp đối với cán bộ công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số; về một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội đối với các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2010; trợ cấp gạo cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở miền núi trồng rừng thay thế nương rẫy; về chính sách hỗ trợ học sinh hộ nghèo dân tộc thiểu số...

[9]. Trong nhiệm kỳ, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã đề xuất 13 kiến nghị chung, 148 kiến nghị cụ thể đối với Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành liên quan về các dự án công trình quan trọng quốc gia, (trong đó có 33 kiến nghị về dự án thủy điện Sơn La, 29 kiến nghị về dự án Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất, 24 kiến nghị về dự án đường Hồ Chí Minh, 33 kiến nghị về dự án trồng mới 5 triệu hécta rừng, 9 kiến nghị về dự án thủy điện Lai Châu, 20 kiến nghị về dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận), điều đó đã góp phần kịp thời giải quyết, khắc phục những hạn chế, vướng mắc bảo đảm tiến độ, chất lượng thực hiện dự án. Đồng thời có 12 kiến nghị đối với Quốc hội, Chính phủ, Bộ Xây dựng về chất lượng nhà ở cao tầng ở đô thị, 27 kiến nghị về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm.

[10]. Từ năm 2007 đến nay, Ủy ban đã khảo sát, giám sát chuyên đề về một số nội dung lớn: tình hình đình công của người lao động xảy ra ở một số doanh nghiệp (2008); thực hiện chính sách dân số (2006); thực hiện pháp luật về người tàn tật; thực hiện pháp luật về người cao tuổi, tình hình thi hành Luật phòng, chống ma túy, tình hình thực hiện Nghị quyết số 16/2003/QH11 về việc thực hiện thí điểm tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma túy ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố khác trực thuộc Trung ương; thực hiện chỉ tiêu giảm dân số, suy dinh dưỡng...

[11]. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Kỷ yếu của Quốc hội khóa XII- Kỳ họp thứ năm (từ ngày 20-5 đến ngày
19-6-2009)
, tập V, Tlđd, tr.724.

[12]. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Kỷ yếu của Quốc hội khóa XII - Kỳ họp thứ nhất, từ ngày 19-7 đến ngày
4-8-2007
, tập I, Tlđd, tr.61.

[13]. Nghị quyết số 25/2008/QH12, ngày 14-11-2008, Về việc kéo dài hoạt động 2004-2009 của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, Kỷ yếu của Quốc hội khóa XII - Kỳ họp thứ tư (từ ngày 16-10 đến ngày 15-11-2008), Sđd, tr.518.

[14]. Sau khi nghiên cứu, thảo luận Tờ trình của Bộ Chính trị, ngày 28-1-2008, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã có Kết luận số 19-KL/TƯ đồng ý chủ trương về mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội trên cơ sở hợp nhất toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của tỉnh Hà Tây; điều chỉnh toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc; toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 4 xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình vào thành phố Hà Nội. Ngày 4-3-2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 260/CT-TTg về việc tổ chức thực hiện chủ trương mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Kỷ yếu của Quốc hội khóa XII - Kỳ họp thứ ba, từ ngày 6-5 đến ngày 3-6-2008, Tlđd, tr.130.

[15]. Số liệu về diện tích tự nhiên và dân số trong Nghị quyết này được lấy theo kết quả tổng kiểm tra đất đai năm 2005 và thống kê dân số tính đến ngày 31-12-2007 theo số liệu do Chính phủ cung cấp tại Công văn số 80/CP-NC, ngày 26-5-2008 của Chính phủ.

[16]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.112-114.