a) Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Để phân biệt rõ chức năng của nguyên thủ quốc gia và chức năng là cơ quan thường trực của Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 đã bãi bỏ chế định Hội đồng Nhà nước và tách thành hai chế định là Chủ tịch nước và Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, thay mặt nhà nước về mặt đối nội và đối ngoại; Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.
Thành phần của Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm có Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên. Thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ. Trong Hiến pháp năm 1992 đã có gắn kết giữa hai thiết chế Chủ tịch Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội khi quy định Uỷ ban thường vụ Quốc hội có Chủ tịch Quốc hội và các Phó Chủ tịch Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội và các Phó Chủ tịch Quốc hội, các ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội theo danh sách đề cử chức từng người do Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa trước giới thiệu.
Như vậy, Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959 và Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992 chỉ giống nhau về tên gọi còn thành phần là khác nhau. Trong Hiến pháp năm 1959 không có chức danh Chủ tịch Quốc hội mà Quốc hội bầu Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các ủy viên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Hơn nữa, chức năng của Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959 cũng khác với chức năng của Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992. Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992 đồng thời là Chủ tịch Quốc hội nên có chức năng chủ tọa các phiên họp của Quốc hội. Còn việc chủ tọa các phiên họp Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959 không do Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà do Chủ tịch đoàn thực hiện.
Hiến pháp 1992 quy định Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn rất quan trọng như sau:
1. Công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội;
2. Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc hội;
3. Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
4. Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao;
5. Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó;huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
6. Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân;
7. Chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội;
8. Trong trường hợp Quốc hội không thể họp được, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội;
9. Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
10. Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội;
11. Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội.
Theo Hiến pháp năm 1992, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có vai trò chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Đây là điểm bổ sung quan trọng vì rằng trước đây, nhiệm vụ này chưa được quy định cho cơ quan thường trực của Quốc hội mà thuộc về Chủ tịch Quốc hội theo Hiến pháp năm 1980.
Luật tổ chức Quốc hội 2001 bổ sung thêm quy định về nhiệm vụ của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc chỉ đạo thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thành lập Ban soạn thảo, phân công cơ quan thẩm tra các dự án luật, dự án pháp lệnh và cho ý kiến về các dự án này trước khi trình ra Quốc hội. Đồng thời, cũng có những quy định mới về phương thức hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội như phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên Uỷ ban tham dự.
Bên cạnh đó, về thẩm quyền ban hành các pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội, theo quy định của Hiến pháp năm 1992 có thể thấy rằng, Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể toàn quyền thực hiện quyền hạn này mà Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ “ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao”. Như vậy, quyền ban hành pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992 đã có sự giới hạn nhất định.
b) Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội
Điểm mới khác so với trước đây là Hiến pháp năm 1992 xác định rõ mối quan hệ giữa chế định Chủ tịch Quốc hội với cơ quan thường trực của Quốc hội, theo đó, Chủ tịch Quốc hội đồng thời là Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Hiến pháp năm 1992 quy định “Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội; lãnh đạo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; tổ chức việc thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội.”
Tiếp đó, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Quốc hội như sau:
1. Chủ tọa các phiên họp của Quốc hội, bảo đảm thi hành Quy chế đại biểu Quốc hội, Nội quy kỳ họp Quốc hội, ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc hội;
2. Lãnh đạo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; dự kiến chương trình làm việc, chỉ đạo việc chuẩn bị, triệu tập và chủ tọa các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; ký pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
3. Triệu tập và chủ tọa hội nghị Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm ủy ban của Quốc hội bàn chương trình hoạt động của Quốc hội, của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội; tham dự phiên họp của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội khi xét thấy cần thiết;
4. Giữ mối quan hệ với các đại biểu Quốc hội;
5. Chỉ đạo việc thực hiện kinh phí hoạt động của Quốc hội;
6. Chỉ đạo và tổ chức việc thực hiện công tác đối ngoại của Quốc hội; thay mặt Quốc hội trong quan hệ đối ngoại của Quốc hội; lãnh đạo hoạt động của Đoàn Quốc hội Việt Nam trong các tổ chức liên nghị viện thế giới và khu vực.
Giúp việc cho Chủ tịch Quốc hội có các Phó Chủ tịch Quốc hội, được phân công đảm nhiệm các phần việc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Số Phó Chủ tịch Quốc hội và số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Trên thực tế, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX có 3 Phó Chủ tịch Quốc hội; trong nhiệm kỳ khóa X có 5 Phó Chủ tịch Quốc hội, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI có 3 Phó Chủ tịch Quốc hội và trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, XIII có 4 Phó Chủ tịch Quốc hội.
c) Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội
Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội là những cơ quan hiến định được quy định tại các Điều 94 và Điều 95 Hiến pháp năm 1992. Trong giai đoạn từ 1992 đến 2007 Quốc hội đã thành lập Hội đồng dân tộc và bảy Uỷ ban của Quốc hội, bao gồm: (i) Uỷ ban pháp luật; (ii) Uỷ ban kinh tế và ngân sách; (iii) Uỷ ban quốc phòng và an ninh; (iv) Uỷ ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; (v) Uỷ ban về các vấn đề xã hội; (vi) Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường và (vii) Uỷ ban đối ngoại. Đến nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII, trên cơ sở Ủy ban pháp luật, Quốc hội đã quyết định thành lập hai ủy ban là Ủy ban pháp luật và Ủy ban tư pháp; Ủy ban kinh tế và ngân sách cũng được tách ra thành hai ủy ban là Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính, Ngân sách. Cơ cấu này tiếp tục được giữ đến hiện nay.
Về Hội đồng dân tộc, kế thừa và tiếp tục khẳng định vị trí quan trọng của Hội đồng dân tộc trong hoạt động của Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 quy định Hội đồng dân tộc có các nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng nhưthẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và dự án khác liên quan đến vấn đề dân tộc; giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực dân tộc; giám sát hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số; tham gia ý kiến về dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội có liên quan đến vấn đề dân tộc và giám sát việc thực hiện các văn bản đó; và kiến nghị với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội các vấn đề về chính sách dân tộc của Nhà nước; các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan; kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác của Nhà nước ở trung ương và địa phương về những vấn đề có liên quan đến dân tộc thiểu số.
So với các ủy ban thường trực, lĩnh vực hoạt động của Hội đồng dân tộc có tầm bao quát rộng hơn và địa vị pháp lý của Hội đồng dân tộc do Hiến pháp quy định, trong khi đó, Hiến pháp chỉ có điều khoản chung về thẩm quyền của các ủy ban. Điều này có nghĩa là việc thay đổi tên gọi, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở sửa đổi những quy định của Hiến pháp.
Điểm khác biệt nữa giữa Hội đồng dân tộc so với các ủy ban của Quốc hội là Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, các phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện các chính sách dân tộc (Điều 24 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001). Như vậy, Hội đồng dân tộc không những chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của Quốc hội như các ủy ban thường trực mà còn được tham gia vào các hoạt động của Chính phủ, khi Chính phủ quyết định các vấn đề liên quan đến chính sách dân tộc.
Về các ủy ban của Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 quy định các Uỷ ban của Quốc hội nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Uỷ ban.
Điểm mới trong Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 là đề cao ý nghĩa và vai trò của việc tăng cường mối quan hệ công tác giữa các cơ quan của Quốc hội nhất là trong việc xem xét các vấn đề chung như tài chính, ngân sách và tổ chức, nhân sự. Đó là quy định về trách nhiệm của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội tham gia với Uỷ ban kinh tế thẩm tra Báo cáo của Chính phủ về kinh tế- xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, tham gia với Ủy ban tài chính – ngân sách phương án phân bổ ngân sách trung ương, tổng quyết toán ngân sách nhà nước; tham gia với Uỷ ban pháp luật thẩm tra đề án về thành lập, bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập mới, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực Hội đồng dân tộc, Uỷ ban phụ trách.
Đồng thời, Luật tổ chức Quốc hội 2001 bổ sung quy định mới là Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số; nhiệm kỳ của các cơ quan này theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì báo cáo trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Về tổ chức của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, một điểm mới quan trọng trong Luật tổ chức Quốc hội 1992 và Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 là quy định về việc Quốc hội bầu Phó Chủ nhiệm Uỷ ban; quyết định số Phó Chủ nhiệm, uỷ viên làm việc theo chế độ chuyên trách của mỗi uỷ ban.
Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội có có trách nhiệm tiếp công dân, tiếp nhận và nghiên cứu, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc lĩnh vực Hội đồng dân tộc, Uỷ ban phụ trách. Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu các thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và những viên chức nhà nước hữu quan cung cấp tài liệu hoặc đến trình bày những vấn đề mà Hội đồng hoặc ủy ban xem xét, thẩm tra. Khi cần thiết, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội cử các thành viên của mình đến cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét, xác minh về vấn đề mà Hội đồng hoặc Uỷ ban quan tâm.
Về Uỷ ban lâm thời, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 còn quy định khi xét thấy cần thiết, Quốc hội thành lập ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 11/2002/QH11 ngày 16 tháng 12 năm 2002 về việc thành lập Uỷ ban lâm thời để thẩm tra dự án Luật hoạt động giám sát của Quốc hội. Uỷ ban lâm thời này có 25 thành viên là đại biểu Quốc hội từ22 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do đồng chí Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội làm Chủ nhiệm và hai Phó Chủ nhiệm để thẩm tra dự án Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội.
d) Các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Điểm mới của Quốc hội trong giai đoạn này so với các khóa Quốc hội trước đây là Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thành lập các cơ quan chuyên môn trực thuộc giúp việc cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội là Ban công tác đại biểu, Ban công tác lập pháp, Ban dân nguyện và sau này là Viện nghiên cứu lập pháp.
Ban công tác đại biểu được thành lập theo nghị quyết số 368/2003/NQ-UBTVQH ngày 17/3/2003 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội để phục vụ Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về công tác đại biểu và giám sát, hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.
Ban công tác lập pháp được thành lập theo nghị quyết số 369/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 để phục vụ Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về công tác xây dựng pháp luật theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, sau khi kết thúc nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, để tránh sự chồng chéo, trùng lặp giữa nhiệm vụ, quyền hạn của Ban công tác lập pháp với Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, Ban công tác lập pháp được giải thể. Các nhiệm vụ, quyền hạn do ban thực hiện được chuyển về Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội một cách tương ứng.
Ban dân nguyện được thành lập theo Nghị quyết số 370/2003/NQ-UBTVQH11 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội để phục vụ Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về công tác dân nguyện theo quy định của pháp luật.
Viện nghiên cứu lập pháp được thành lập theo Nghị quyết số 614/2008/UBTVQH12 ngày 29 tháng 4 năm 2008 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, có chức năng nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Quốc hội; tổ chức thông tin khoa học để hỗ trợ việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
đ) Văn phòng Quốc hội
Sau khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành với việc lập lại chế định Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì từ đó đến nay, cơ quan giúp việc của Quốc hội được gọi là Văn phòng Quốc hội. Ngày 17 tháng 10 năm 1992, Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị quyết số 02 về tổ chức, nhiệm vụ của Văn phòng Quốc hội là cơ quan nghiên cứu, tham mưu tổng hợp và tổ chức phục vụ mọi hoạt động của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.Theo Nghị quyết 02, Văn phòng Quốc hội có 19 đơn vị, trong đó có 17 đơn vị cấp vụ và hai đơn vị cấp phòng.
Trong nhiệm kỳ khóa XI, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 417/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 01 tháng 10 năm 2003 thay thế cho Nghị quyết số 02 ngày 17 tháng 10 năm 1992 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội hội. Theo Nghị quyết số 417/2003/NQ-UBTVQH11 thì “Văn phòng Quốc hội là cơ quan giúp việc của Quốc hội, có chức năng nghiên cứu, tham mưu tổng hợp và tổ chức phục vụ các hoạt động của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội; các hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Ban của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.
Đến nhiệm kỳ khóa XIII, để tiếp tục cải tiến, đổi mới nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Văn phòng Quốc hội nhằm phục vụ tốt hơn hoạt động của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, hoạt động của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, các ban thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 618/2013/UBTVQH13 ngày 10 tháng 7 năm 2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 417/2003/NQ-UBTVQH11. Theo đó, hiện nay Văn phòng Quốc hội có các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể như sau:
1. Phục vụ Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong công tác xây dựng pháp luật; phối hợp phục vụ Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
2. Phục vụ Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản và ban hành những nghị quyết, quyết định về kinh tế-xã hội, ngân sách nhà nước, công trình quan trọng quốc gia, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, về tổ chức và nhân sự nhà nước thuộc thẩm quyền của Quốc hội;
3. Phục vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; phục vụ Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phục vụ hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội;
4. Phối hợp phục vụ Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp;
5. Phục vụ Uỷ ban thường vụ Quốc hội công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội; công bố việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp;
6. Phục vụ công tác đối ngoại của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và các Ban của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
7. Phối hợp thực hiện việc tiếp dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và đề đạt nguyện vọng của công dân; phục vụ Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến Quốc hội;
8. Nghiên cứu, phục vụ Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; giúp chủ tịch Quốc hội giữ mối liên hệ với các đại biểu Quốc hội; bảo đảm điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội; tạo điều kiện kinh phí và các điều kiện vật chất cần thiết cho đại biểu Quốc hội trong việc trình dự án luật, pháp lệnh và kiến nghị về luật, pháp lệnh;
9. Phục vụ hoạt động của Chủ tịch Quốc hội và các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Phục vụ Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc điều hành công việc chung của Quốc hội, bảo đảm việc thực hiện Nội quy kỳ họp Quốc hội, các Quy chế hoạt động của các cơ quan của Quốc hội, của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội;
10. Đề xuất cải tiến chế độ làm việc của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Ban của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và của đại biểu Quốc hội chuyên trách theo sự chỉ đạo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
11. Phối hợp phục vụ Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định biên chế và quy định chính sách, chế độ đối với Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Văn phòng Quốc hội;
12. Xây dựng dự kiến chương trình và tổ chức phục vụ các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội, các cuộc làm việc khác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, các cuộc họp của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Ban của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các cuộc làm việc của đại biểu Quốc hội chuyên trách; dự kiến và giúp tổ chức thực hiện chương trình công tác của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội và các Ban của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
13. Chuẩn bị các dự án, đề án, báo cáo do Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội và các Phó Chủ tịch Quốc hội giao; chuẩn bị các báo cáo công tác của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và các Ban của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
14. Đôn đốc việc chuẩn bị và bảo đảm thủ tục trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội các dự án, đề án, báo cáo, tờ trình của các cơ quan và tổ chức hữu quan;
15. Tổ chức và quản lý công tác thông tin, báo chí, xuất bản, thư viện, bảo tàng, ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Ban thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội và đại biểu Quốc hội;
16. Giúp Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc giữ mối quan hệ với Chủ tịch nước, Chính phủ, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức hữu quan;
17. Phục vụ Chủ tịch Quốc hội chỉ đạo và tổ chức thực hiện kinh phí hoạt động của Quốc hội. Tổ chức và quản lý công tác đảm bảo cơ sở vật chất-kỹ thuật của Quốc hội, quản lý tài sản của Quốc hội; tổ chức công tác hành chính, văn thư, in ấn, lưu trữ, bảo vệ và lễ tân của cơ quan;
18. Ban hành văn bản thuộc thẩm quyền; hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển và các quy phạm pháp luật theo quy định của pháp luật; tư vấn, hỗ trợ đại biểu Quốc hội trong việc lập, hoàn thiện hồ sơ theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội xem xét đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh theo yêu cầu của đại biểu Quốc hội;
19. Thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của Văn phòng Quốc hội; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo quy định của pháp luật; hợp tác quốc tế;
20. Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật hoặc do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội giao.
Theo Nghị quyết 618/2013/UBTVQH13 thì Văn phòng Quốc hội có 28 vụ và đơn vị tương đương và được chia làm bốn loại: (i) các vụ trực tiếp giúp việc Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội; (ii) các vụ, đơn vị tương đương cấp vụ trực tiếp giúp việc các Ban thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội(iii) Các vụ, đơn vị tương đương cấp vụ phục vụ chung; (iv) các đơn vị sự nghiệp công lập.
Về công tác chỉ đạo, điều hành và chế độ trách nhiệm, Điều 5 Nghị quyết 417/2003/NQ-UBTV11 đã quy định rõ ràng hơn trách nhiệm phối hợp giữa Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội và Thường trực Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, theo đó: “Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội là người đứng đầu Văn phòng Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội về công tác của Văn phòng Quốc hội. Thường trực Hội đồng dân tộc, Thường trực các Uỷ ban của Quốc hội và Trưởng các Ban của Uỷ ban thường vụ Quốc hội chịu trách nhiệm trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội về công tác của Văn phòng Quốc hội đối với những vấn đề có liên quan.