BÀN VỀ LẬP HIẾN

PGS,TS. Thái Vĩnh Thắng

       Chủ nhiệm Khoa Hành chính - Nhà nước, Đại học Luật Hà Nội

 1. Những vướng mắc và lực cản của quá trình cải cách, đổi mới theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền đối với các thiết chế thuộc hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay

1.1 Về tổ chức và hoạt động của Quốc hội

Quốc hội ở Việt Nam cũng như Nghị viện của các nước trên thế giới là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, do nhân dân cả nước bầu ra. Ở các nhà nước tư sản, quyền lập pháp tối cao thuộc về Nghị viện, ngoài ra, trong các mô hình chính thể ở châu Âu, Nghị viện còn có quyền giám sát Chính phủ và có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ, buộc Chính phủ phải giải tán. Để thực hiện quyền giám sát, Nghị viện có hai thiết chế quan trọng là Thanh tra Quốc hội và Kiểm toán Quốc hội. Khi công dân hoặc tổ chức có đơn tố cáo hoặc khiếu kiện lên Thanh tra Quốc hội về vấn đề tham nhũng hoặc sự thiếu minh bạch của Chính phủ hoặc một cơ quan, quan chức hành chính nhà nước nào đó, với sự giúp đỡ của Kiểm toán Quốc hội, Thanh tra Quốc hội sẽ tiến hành điều tra các vụ việc nói trên. Nhờ có Thanh tra Quốc hội và Kiểm toán Quốc hội mà hoạt động chất vấn các thành viên của Chính phủ của Nghị viện có hiệu lực và hiệu quả rất cao.      

Ở Việt Nam, trong các cuộc hội thảo cũng như trong các tài liệu nghiên cứu, các thiết chế này đã được nhắc đến nhiều lần, nhưng cho đến nay, các thiết chế này vẫn chưa được thành lập. Có lẽ đây cũng là một lý do dẫn đến việc thiếu thông tin, nên khi thực hiện quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội, hiệu lực hiệu quả chất vấn không cao.

Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội có quyền bầu cử Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đồng thời phê chuẩn các thành viên của Chính phủ do Thủ tướng đệ trình. Tuy nhiên, do việc bầu cử cũng như phê chuẩn đều chỉ có một ứng cử viên nên bầu cử và phê chuẩn hầu như không khác nhau.

1.2 Về tổ chức và hoạt động của Chính phủ

Theo quy định của Luật Tổ chức Chính phủ nhiều nước trên thế giới, cơ cấu của Chính phủ (nội các) chỉ bao gồm Thủ tướng, Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Còn theo Luật Tổ chức Chính phủ của Việt Nam, cơ cấu của Chính phủ bao gồm Bộ và cơ quan ngang Bộ. Quy định như vậy đã dẫn đến sự nhầm lẫn giữa hoạt động của Bộ và hoạt động của Chính phủ, các Bộ trưởng coi nặng hoạt động ở Bộ mà coi nhẹ hoạt động ở Chính phủ. Các Bộ là các cơ quan chuyên môn, đó là các cơ quan tác nghiệp hành chính, trong khi đó Chính phủ là cơ quan chính trị, tức là cơ quan đề ra các chủ trương, quyết sách và thực hiện chức năng điều hoà phối hợp toàn bộ bộ máy hành chính nhà nước. Nếu quan niệm cơ cấu của Chính phủ bao gồm Bộ và cơ quan ngang Bộ thì các Bộ trưởng chủ yếu hoạt động ở Văn phòng Bộ, trong khi đó yêu cầu của xã hội là các Bộ trưởng phải hoạt động chủ yếu ở trụ sở của Chính phủ. Chính phủ các nước trên thế giới thông thường một tuần họp một lần như ở Pháp, một tuần họp hai lần như ở Nội các Anh[1], còn trong thời kỳ phong kiến thì các phiên thiết triều được thiết lập vào các ngày lẻ hoặc ngày chẵn trong tháng và không ít hơn 4 lần. Thời kỳ nhà Nguyễn ở Việt Nam, các Hội đồng Đình thần do vua Gia Long và Minh Mạng triệu tập (gọi là Công Đồng) họp vào các ngày 1, 8, 15, 23 sau đó đổi lại các ngày 2, 9, 16, 242. Như vậy, bình quân mỗi tuần họp một lần. Dưới thời vua Minh Mạng, những ngày Thường triều là những ngày lẻ: 5, 11, 21, 25.

Chính phủ của chúng ta hiện nay chỉ họp một tháng một lần. Như vậy không thể đảm bảo tính liên tục của hoạt động hành chính. Hoạt động điều hoà, phối hợp của Chính phủ vì thế cũng không đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Có thể đưa ra một số minh chứng để khẳng định điều này. Chẳng hạn việc các đường phố lớn ở Thủ đô Hà Nội như Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh và một số đường phố khác bị đào lên đào xuống nhiều lần thể hiện sự thiếu phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc quản lý đô thị.  Gần đây, việc xây dựng các khu đô thị cao tầng rất đẹp, rất hoành tráng ở Mỹ Đình nhưng không hề xây các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông nào dẫn đến việc quá tải của các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông ở Thủ đô Hà Nội là một ví dụ điển hình cho sự thiếu điều hoà, phối hợp giữa các bộ, ngành. Hiện tượng giấy hồng, giấy đỏ, giấy xanh cho nhà đất và hộ khẩu cũng là một ví dụ điển hình. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi bộ máy hành chính không được tuỳ tiện đưa ra bất kỳ quy định nào trái với luật trong quá trình áp dụng chính sách, tuy nhiên ở Việt Nam, hiện tượng văn bản của cơ quan hành chính cấp dưới trái với văn bản của cơ quan hành chính cấp trên là một chuyện khá phổ biến. Cơ quan và cán bộ hành chính phải in ấn, công bố rộng rãi các hướng dẫn thủ tục, công khai các thông tin cần thiết cho người dân, nhưng ở Việt Nam chưa có Luật Tiếp cận thông tin nên các cơ quan hành chính nhà nước chưa coi đó là nghĩa vụ bắt buộc của mình. Theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, các quan chức và cơ quan hành chính nhà nước từ thấp đến cao kể cả Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đều có thể bị kiện ra toà. Ở Nhật Bản, một công ty luật đã kiện Chính phủ Nhật về việc gửi các công dân Nhật tham chiến cuộc chiến tranh ở Irắc là vi phạm quyền được sống trong hoà bình của công dân, một quyền hiến định của Nhật; Toà án đã xử cho công ty luật thắng kiện và buộc Chính phủ phải rút quân khỏi Irắc. Vấn đề công vụ và công chức ở Việt Nam hiện nay cũng còn quá nhiều vấn đề cần phải xem xét lại. Công chức Việt Nam thường đi làm chính trị và các nhà chính trị lại làm việc của các công chức, không có sự phân biệt rạch ròi giữa chính trị và hành chính, cán bộ hành chính cần kiến thức chuyên môn và công nghệ hành chính nhưng công chức cấp cao Việt Nam lại phải có bằng chính trị cao cấp, còn kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ lại không được đề cao.

1.3 Tổ chức và hoạt động của cơ quan Toà án

 Cuộc cải cách tư pháp đã và đang được tiến hành, tuy nhiên cho đến nay hệ thống cơ quan Toà án nước ta vẫn đang được tổ chức theo các đơn vị hành chính lãnh thổ, không phân biệt giữa đô thị và nông thôn, vì thế một thẩm phán Toà án quận ở các thành phố lớn có thể có khối lượng công việc nhiều gấp 20, 30 lần so với thẩm phán cấp huyện ở nông thôn. Toà án nhân dân tối cao vẫn phải xử phúc thẩm cho các bản án bị kháng nghị, kháng cáo của 63 tỉnh, thành và tỷ lệ án tồn đọng vẫn khá cao. Tính độc lập của các thẩm phán vẫn chưa được đảm bảo do nhiệm kỳ bổ nhiệm của thẩm phán chỉ có 5 năm và hết nhiệm kỳ đó thẩm phán phải được Chánh án Toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm lại theo đề nghị của Hội đồng, trong đó có đại diện của Hội đồng nhân dân, Hội Luật gia, Sở Nội vụ và Chánh án Toà án nhân dân tỉnh. Khi xét xử các vụ việc liên quan đến những người trong Hội đồng này, thẩm phán có thể bị tác động. Hơn thế nữa, theo quy chế bổ nhiệm thẩm phán, các thẩm phán đều phải là đảng viên. Thông thường, các quan chức hành chính đều là cán bộ các cấp uỷ đảng, vì thế thông qua tổ chức đảng, các cán bộ hành chính có thể tác động đến các thẩm phán và thẩm phán không thể đảm bảo tính độc lập của mình trong hoạt động xét xử. Toà án hành chính ở Việt Nam một mặt vì nằm trong hệ thống Toà án nhân dân, mặt khác do thẩm quyền tố tụng hạn chế, nên hoạt động không có hiệu quả, các Toà án hành chính ở địa phương xét xử được rất ít các vụ việc và uy tín của Toà hành chính không cao.

1.4 Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát

 Sau khi sửa đổi Hiến pháp 1992 vào năm 2001, Viện kiểm sát nhân dân các cấp chỉ còn thẩm quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát bị bãi bỏ, tuy nhiên chưa có cơ quan chuyên môn nào thay thế Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát chung. Trong bộ máy nhà nước phong kiến, Đô sát viện với các Quan ngự sử thực hiện quyền đàn hạch bách quan và Trưởng đô sát viện là quan chức có thế lực cao chỉ dưới Vua và Tể tướng và chỉ trực thuộc Vua. Trước đây Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan chuyên môn vừa thực hiện chức năng công tố, vừa thực hiện chức năng kiểm sát chung cũng là hợp lý vì chức năng công tố và chức năng giám sát có thể tương hỗ lẫn nhau.

 1.5 Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân

 Xu hướng của các nước trên thế giới ngày nay là xây dựng chính quyền địa phương tự quản. Các Hội đồng địa phương do nhân dân địa phương bầu ra có thể ban hành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong địa phương mình, có thể đặt ra thuế địa phương để thực hiện các chức năng công cộng cho địa phương mình. Các Hội đồng địa phương bầu ra cơ quan chấp hành của mình. Các cơ quan nhà nước trung ương có quyền giám sát để bảo vệ tính hợp hiến, hợp pháp của hoạt động của chính quyền địa phương. Ở Việt Nam hiện nay, Hội đồng nhân dân các cấp có vai trò, chức năng, quyền hạn chưa thật rõ ràng, nhất là thiếu tính độc lập tương đối trong hoạt động của mình nên hiệu lực hiệu quả chưa cao và nhiều khi còn mang tính hình thức. Việc sửa đổi Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân hiện nay là vấn đề cấp bách nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của chính quyền địa phương. Người đứng đầu cơ quan hành chính cấp xã trong thời kỳ phong kiến đã có truyền thống do dân bầu, cơ quan nhà nước cấp trên chỉ phê chuẩn. Do vậy, việc bầu cử trực tiếp chức danh Chủ tịch xã, phường vừa phù hợp với truyền thống đã hình thành lâu đời ở Việt Nam, vừa phù hợp với xu hướng dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, tuy nhiên cho đến nay, chế độ bầu cử chủ tịch xã, phường vẫn chưa được khôi phục lại, điều này thể hiện lực cản và sức ỳ của bộ máy hành chính quan liêu vẫn còn rất nặng nề, nếu không có quyết tâm chính trị cao của những người đứng đầu Đảng và Nhà nước thì cuộc cải cách hành chính nhà nước không thể tiến hành một cách triệt để được.

1.6  Các thiết chế dân chủ trực tiếp

 Phương châm xây dựng một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là phương châm được quán triệt trong các Nghị quyết của Đảng và Hiến pháp. Tuy nhiên cho đến nay, các thiết chế dân chủ trực tiếp chưa được xây dựng một cách đồng bộ. Hầu hết các nước xây dựng Nhà nước pháp quyền đều đã ban hành Luật Trưng cầu dân ý để nhân dân quyết định các vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Các nước châu Âu khi quyết định sửa đổi Hiến pháp, gia nhập liên minh châu Âu, bỏ đồng tiền quốc gia để sử dụng đồng Euro đều tiến hành trưng cầu dân ý để nhân dân quyết định. Ở Việt Nam, mặc dù trong Hiến pháp có quy định công dân có quyền thể hiện ý kiến của mình khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý, nhưng cho đến nay, do chúng ta chưa có Luật Trưng cầu dân ý nên quyền này trên thực tế vẫn chưa thực hiện được.

1.7 Quyền bầu cử và ứng cử của công dân

 Mặc dù quyền bầu cử và ứng cử của công dân nước ta đã được xác lập trong Hiến pháp, nhưng Luật Bầu cử của chúng ta còn quá giản đơn, khả năng lựa chọn của người dân không cao. Muốn khả năng lựa chọn của người dân được mở rộng, cần thay đổi hệ thống bầu cử, thay thế chế độ bầu cử một vòng bằng chế độ bầu cử hai vòng, thay thế chế độ bầu cử liên danh bằng chế độ bầu cử đơn danh. Chẳng hạn, hiện nay chúng ta có 493 đại biểu Quốc hội thì cả nước phải chia thành 493 khu vực bầu cử, mỗi khu vực bầu cử chỉ bầu một đại biểu Quốc hội. Ở vòng một có thể cho phép từ 10 đến 15, 20 hoặc có thể nhiều hơn nữa ứng cử viên ứng cử bằng cách quy định bất kỳ công dân nào có lý lịch tư pháp trong sạch, có đức, có tài và có nguyện vọng giúp nước có thể ra ứng cử, những người có nguyện vọng ứng cử phải thu thập được ít nhất 300 chữ ký của những người ủng hộ. Nhiệm vụ bầu cử ở vòng một là chọn ra hai ứng cử viên cho số phiếu cao nhất để bầu ở vòng hai. Nếu ở vòng một, đại biểu cao phiếu nhất có trên 50% số phiếu bầu thì không cần thiết phải bầu cử vòng hai. Trường hợp không có ứng cử viên nào thu được trên 50% số phiếu bầu thì nhất thiết phải lựa chọn hai ứng cử viên có số phiếu cao nhất để bầu ở vòng hai. Chế độ bầu cử hiện nay ở Việt Nam không có bầu cử vòng một, mà thay vào đó là thực hiện chế độ hiệp thương để tuyển chọn ứng cử viên, dẫn đến giai đoạn hiệp thương quan trọng hơn cả giai đoạn bầu. Về quyền tự ứng cử, trong cuộc bầu cử Quốc hội khoá XII có khoảng 300 ứng cử viên, nhưng sau khi hiệp thương chỉ còn lại 30 ứng cử viên và kết quả cuối cùng, chỉ có một ứng cử viên tự do trúng cử, như vậy khả năng trúng cử của các ứng cử viên tự ứng cử rất thấp, điều này mâu thuẫn với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Hễ ai có tài đức thì hãy ra ứng cử để giúp nước, giúp dân”.

1.8 Về tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng

 Các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng ở Việt Nam như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các thành viên của nó là Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Thanh niên Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh, Hội Nhà văn, Hội Nhà báo, Hội Nhạc sĩ, Hội Kiến trúc sư là các tổ chức tập hợp các lực lượng dân chủ trong xã hội, có vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị. Tuy nhiên, do quan niệm các tổ chức này là “cánh tay nối dài” của Đảng và Nhà nước nên tính độc lập trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức này chưa cao. Các tổ chức này không có thủ lĩnh thể hiện bản sắc riêng của tổ chức mình, do vậy tính phản biện xã hội chưa cao, sức sáng tạo và sự đóng góp cho xã hội cũng còn bị hạn chế. Để bảo vệ các quyền con người và quyền công dân đòi hỏi phải tăng cường vai trò của các tổ chức như Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Tuy nhiên, Liên đoàn Luật sư Việt Nam chỉ vừa mới được thành lập, vai trò của nó trong việc bảo vệ các quyền công dân và quyền con người còn hạn chế. Cho đến nay Việt Nam vẫn chưa có Luật về Hội nên việc phát huy vai trò của các hội nói riêng, của xã hội dân sự nói chung còn rất hạn chế.

2. Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 đáp ứng công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế

 Hiến pháp năm 1992 cho đến nay đã tồn tại được 17 năm và đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2001, tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, vẫn còn nhiều bất cập đòi hỏi phải tiếp tục bổ sung, sửa đổi nhằm đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế. Theo chúng tôi, các vấn đề sau đây cần phải được bổ sung, sửa đổi trong Hiến pháp:

2.1 Chế độ chính trị

 Điều 6 Chương Chế độ chính trị cần được bổ sung hình thức dân chủ trực tiếp, theo đó Điều 6 cần được quy định lại như sau: Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nhân dân còn có thể thực hiện quyền lực của mình thông qua hình thức trưng cầu dân ý, theo đó các vấn đề quan trọng của đất nước như bổ sung và sửa đổi Hiến pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của Nhà nước về đối nội và đối ngoại, Nhà nước phải tổ chức trưng cầu dân ý lấy ý kiến nhân dân để quyết định.

 Đối với các nguyên tắc bầu cử được quy định trong Điều 7 Hiến pháp hiện hành là nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, cần bổ sung thêm nguyên tắc bầu cử tự do, theo đó bầu cử là quyền tự do của công dân, công dân tự giác đi bầu, không có cơ quan nào, tổ chức nào ép buộc công dân phải thực hiện quyền này.

 Đối với quy định tại Điều 8: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Quy định như vậy là đúng đắn và cần thiết, tuy nhiên cần bổ sung vào quy định trên đây nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước, cán bộ viên chức nhà nước, cung cấp các thông tin cần thiết và thường xuyên cho nhân dân. Bởi chỉ khi nào được cung cấp đầy đủ thông tin thì phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đối với mọi công việc quan trọng của đất nước mới có thể thực hiện được.

2.2 Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

 Chương này cần được đổi tên lại là “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người và công dân”, đồng thời bổ sung thêm một số điều sau đây:

-  Bổ sung quyền được sống trong hoà bình của công dân, theo đó mọi công dân đều có quyền được sống trong hoà bình, quyền này được Nhà nước đảm bảo, trừ trường hợp lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bị nước ngoài xâm chiếm.

-  Bổ sung thêm quy định về quyền con người: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị và dân sự , kinh tế, văn hoá, xã hội theo Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước về các quyền dân sự và chính trị 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội 1966 và các công ước quốc tế khác mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia được tôn trọng và đảm bảo thực hiện”.

- Khẩn trương ban hành các luật như Luật Tiếp cận thông tin, Luật Trưng cầu dân ý, Luật về Hội, cho phép công dân có quyền tự do xuất bản nhằm tăng cường các khả năng đảm bảo các quyền con người và quyền công dân.

2.3 Quốc hội

 Xác định rõ trong Hiến pháp: Quốc hội có bốn chức năng cơ bản là chức năng đại diện của toàn thể nhân dân; chức năng lập hiến, lập pháp; chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước về mặt đối nội cũng như đối ngoại và chức năng giám sát bộ máy nhà nước, đặc biệt là giám sát Chính phủ. Bổ sung thêm quy định Quốc hội có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ buộc Chính phủ phải giải tán.

 Bổ sung thêm quy định về việc thành lập Thanh tra Quốc hội và Kiểm toán Quốc hội, các quy định về Thanh tra Quốc hội và Kiểm toán Quốc hội sẽ được quy định trong một đạo luật riêng.

 Về cơ cấu tổ chức của Quốc hội, để quy trình làm luật chặt chẽ hơn, cần chuyển Quốc hội từ một viện sang Quốc hội hai viện, bao gồm Thượng viện và Hạ viện, các đại biểu Hạ viện bầu theo tỷ lệ dân số cứ 166.000 dân/1 đại biểu Quốc hội. Các đại biểu Thượng viện đại diện cho các đơn vị hành chính lãnh thổ cao nhất, theo đó mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có hai Thượng nghị sĩ, ngoài ra Chủ tịch nước có quyền bổ nhiệm năm đại biểu Thượng viện lấy từ những người có công lao xuất sắc trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ, y học, giáo dục hoặc quản trị kinh doanh.

Về các Uỷ ban thường trực của Quốc hội, cần thành lập thêm Uỷ ban Nhân quyền để chăm lo vấn đề xây dựng hoàn thiện pháp luật về quyền con người và đảm bảo các quyền con người được thực hiện trong thực tế.

2.4 Chủ tịch nước

 Bổ sung thêm quyền hạn cho Chủ tịch nước, theo đó Chủ tịch nước có quyền phê chuẩn các dự luật trước khi công bố. Trường hợp Chủ tịch nước phủ quyết các dự luật thì dự luật được gửi lại cho Quốc hội và dự luật này chỉ có thể được thông qua khi biểu quyết lại có từ 2/3 trở lên số đại biểu có mặt tán thành.

Để tăng cường vai trò của người đứng đầu nhà nước, Chủ tịch nước phải do nhân dân bầu cử trực tiếp. Ứng cử viên chức vụ Chủ tịch nước là công dân Việt Nam, thường trú ở Việt Nam không ít hơn 10 năm trước ngày ứng cử, có tuổi đời không dưới 35, là người sức khoẻ thể chất, có uy tín về phẩm hạnh, trí tuệ và tài năng, có thể đoàn kết được nhân dân, yêu nước, tôn trọng Hiến pháp và pháp luật. Chủ tịch nước phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, hết lòng phục vụ nhân dân và tôn trọng Hiến pháp khi nhậm chức.

2.5 Chính phủ

 Sửa đổi quy định về cơ cấu của Chính phủ, theo đó cơ cấu của Chính phủ không phải bộ và cơ quan ngang bộ mà cơ cấu của Chính phủ bao gồm Thủ tướng, Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Sửa đổi quy định về tính chất của Chính phủ, theo đó Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất, không quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội nhằm đề cao tính độc lập của Chính phủ trong việc thực hiện chức năng hành pháp của mình. Bổ sung thêm quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ là điều hoà, phối hợp hoạt động của các Bộ và cơ quan ngang Bộ. Quy định rõ trong Luật Tổ chức Chính phủ: Chính phủ họp mỗi tuần một lần để đảm tính liên tục và kịp thời trong hoạt động của Chính phủ.

2.6. Tổ chức Toà án

 Toà án được tổ chức lại theo nguyên tắc thẩm cấp tố tụng kết hợp với nguyên tắc hành chính lãnh thổ. Theo đó, hệ thống Toà án Việt Nam có Toà sơ thẩm cấp một tổ chức ở các huyện, quận của thành phố trực thuộc trung ương hoặc thành phố thuộc tỉnh ở địa phương, giải quyết các vụ án dân sự và hình sự nhỏ.

 Toà sơ thẩm cấp hai tổ chức ở các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Đây là toà sơ thẩm có thẩm quyền rộng.

 Toà phúc thẩm thành lập ở các thành phố lớn trực thuộc trung ương và 2 - 3 tỉnh ở các địa phương.

 Toà án có thẩm quyền cao nhất là Toà án tối cao chỉ xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm và thực hiện chức năng quản lý toàn bộ hệ thống toà án.

 Toà án hành chính được tổ chức thành một ngạch riêng gồm hai cấp, sơ thẩm ở các tỉnh và phúc thẩm thành lập ở ba miền Bắc, Trung, Nam. Và toà phúc thẩm hành chính tối cao đặt tại thủ đô vừa có chức năng xét xử hành chính cao nhất, vừa có chức năng tư vấn pháp luật cho Chính phủ.

 Ngoài hai hệ thống Toà án tư pháp và hành chính, nên thành lập thêm Toà án Hiến pháp có chức năng bảo vệ Hiến pháp, có thẩm quyền tuyên bố các luật của Quốc hội, các pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ là vi hiến và làm vô hiệu hoá các văn bản đó. Toà án Hiến pháp bao gồm 15 thẩm phán trong đó 2/3 số thành viên do Quốc hội bầu và 1/3 do Chủ tịch nước bổ nhiệm.

2.7 Tổ chức Viện kiểm sát

 Khôi phục lại chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu và bãi nhiệm, toàn bộ các công tố viên do Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao bổ nhiệm và miễn nhiệm. Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kiểm sát Chính phủ và toàn bộ hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Nhiệm kỳ của các kiểm sát viên cũng như nhiệm kỳ của các thẩm phán là 10 năm và có thể được tái bổ nhiệm. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương không chịu sự giám sát của cơ quan chính quyền địa phương mà báo cáo hoạt động của mình lên Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Các kiểm sát viên cũng như các thẩm phán có quyền miễn trừ. Việc tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát được thực hiện theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

2.8 Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân

Cần đổi tên chương này trong Hiến pháp thành chương: “Chính quyền địa phương”.

Chính quyền địa phương được tổ chức thành hai bộ phận. Bộ phận thứ nhất bao gồm hệ thống các cơ quan hành chính các cấp, thực thi mệnh lệnh của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên tại địa phương, hệ thống thứ hai là hệ thống các cơ quan tự quản gồm Hội đồng nhân dân các cấp xã và cấp tỉnh. Hội đồng nhân dân tỉnh có quyền ban hành luật để điều chỉnh các vấn đề thuộc địa phương của mình; có quyền ban hành thuế địa phương để xây dựng các công trình phúc lợi và thực hiện chức năng công cộng ở địa phương. Các Hội đồng nhân dân do nhân dân trực tiếp bầu ra; Hội đồng nhân dân có cơ quan chấp hành của mình như Thường trực Hội đồng nhân dân hiện nay. Các Hội đồng địa phương có ngân sách riêng của mình, ngân sách này do nguồn thu thuế địa phương tạo ra. Hội đồng nhân dân địa phương hoạt động theo Luật Tổ chức chính quyền tự quản, còn Uỷ ban hành chính các cấp hoạt động theo Luật Tổ chức các cơ quan hành chính nhà nước./.

 

* Nghiên cứu Lập pháp, số 9(170), tháng 5/2010.

[1] Xem: Constitutional and administrative law- Hilaire Barnett, Edition Cavendish Publishing Limited, London  2000, p. 380.

2 Xem: Pháp chế sử của Vũ Quốc Thông, Nxb. Tủ sách Sài Gòn 1973, tr.115.