VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP III 1964 - 1971

BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ
TẠI KỲ HỌP THỨ NHẤT, QUỐC HỘI KHÓA III

(Do Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày
ngày 27-6-1964)

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Thay mặt Hội đồng Chính phủ tôi xin gửi đến các đồng chí đại biểu Quốc hội khoá III lời chào mừng thân ái và nồng nhiệt.

Bản báo cáo mà hôm nay, thay mặt Hội đồng Chính phủ, tôi xin trình trước Quốc hội, có chỗ khác với những bản báo cáo đã trình trước đây, khác ở chỗ báo cáo này sẽ cố gắng trình bày một số nét về tình hình ở các địa phương. Mọi công việc của chúng ta đều phải xuất phát từ các địa phương, từ cơ sở, từ quần chúng nhân dân, và cuối cùng mọi việc làm của chúng ta đều phải phát huy hiệu lực và tác dụng ở địa phương, ở cơ sở, đem lại lợi ích thiết thực cho quần chúng nhân dân. Đường lối của Đảng, toàn bộ chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều phải gắn liền một cách chặt chẽ và sinh động với đời sống muôn màu ở nông thôn và xí nghiệp ở các vùng trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Nhìn rõ tình hình các địa phương, chúng ta càng thấy sự cần thiết phải tăng cường sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của những cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước ở trung ương, ra sức phát huy mọi lực lượng của địa phương, nhằm thực hiện đường lối của Đảng và kế hoạch của Nhà nước, từng bước thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, từng bước xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

PHẦN I

TÌNH HÌNH CÁC ĐỊA PHƯƠNG

Làm chủ đất nước có nghĩa là hiểu biết ngày càng sâu sắc và toàn diện tình hình ở các địa phương, tình hình về điều kiện và tài nguyên thiên nhiên, tình hình kinh tế và lao động sản xuất, tình hình đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần, tình hình cuộc đấu tranh giữa hai con đường: khí thế vươn lên và những trở lực trong quan hệ sản xuất, trong xã hội, và trong tư tưởng con người.

Càng đi sâu vào tình hình các địa phương, đi sâu vào đời sống của quần chúng nhân dân thì chúng ta càng đánh giá đúng mức - nghĩa là đánh giá cao - thành tích và tiến bộ của chúng ta. Những số liệu thống kê, mặc dầu đúng đắn và toàn diện, cũng không thể nào thể hiện một cách đầy đủ và sinh động những thành tích và tiến bộ về mọi mặt ở địa phương, ở cơ sở, nhất là ở nông thôn. Phải cùng các đồng chí lãnh đạo địa phương đi thăm rộng rãi tình hình sản xuất và đời sống ở nhiều nơi từ Vĩnh Linh, Quảng Bình đến Hưng Yên và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, rồi đến Vĩnh Phúc, Phú Thọ, các tỉnh trung du và các tỉnh miền núi, đi thăm các khu công nghiệp đã hình thành hoặc đương xây dựng: Thái Nguyên, Việt Trì, Hồng Quảng, Hà Bắc, Uông Bí, v.v., những cơ sở về cơ khí, về điện, về luyện kim, về hoá chất, về khai khoáng, về vật liệu xây dựng, v.v., đương xuất hiện và lớn dần của sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, mới nhìn thấy một cách rõ rệt và sâu sắc những việc to lớn, có ý nghĩa lịch sử đương biến đổi bộ mặt của đất nước ta, biến đổi xã hội và đời sống của nhân dân ta, của người nông dân và người công nhân, của các tầng lớp nhân dân khác. Đây là những sự đổi mới lạ lùng, khó tưởng tượng nếu không thấy sự thật. Phải nói chuyện với người lãnh đạo, với đồng bào ở các địa phương, ở những nơi trước đây nghèo khổ nhất, tối tăm nhất mới thấy hết ý nghĩa của cuộc cách mạng đương diễn ra trước mắt chúng ta, mới thấy rõ nhiệt tình và khí thế vươn lên của quần chúng.

Càng đi sâu vào tình hình các địa phương, đi sâu vào đời sống của quần chúng nhân dân, thì chúng ta càng thấy sáng tỏ và sinh động nguyên nhân đã đem lại những thành tựu về mọi mặt: đó là đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, những nghị quyết của các hội nghị lần thứ 5, thứ 7, thứ 8 và thứ 9 của Trung ương Đảng, những sự cố gắng và tiến bộ của các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương trong công tác chỉ đạo, đó là lòng yêu nước, nhiệt tình cách mạng xã hội chủ nghĩa và sức lao động sáng tạo của quần chúng nhân dân. Đồng thời chúng ta càng thấy sáng tỏ và sinh động những khả năng và triển vọng rất hiện thực của việc phát triển kinh tế và cải thiện đời sống bất cứ ở đâu: ở đồng bằng, ở trung du và miền núi, ở vùng ven biển, ở vùng công nghiệp tập trung. Trong phòng họp, trên giấy tờ và số liệu thì làm sao thấy được những khả năng và triển vọng ấy như trong thực tế và đời sống? Và đó là điều đáng phấn khởi nhất, nó khuyến khích chúng ta, thúc đẩy chúng ta, đồng thời đó là nguồn sáng kiến để chúng ta mạnh mẽ tiến tới.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Mấy năm qua, nông thôn miền Bắc nước ta, đồng bằng, trung du, miền núi và vùng ven biển, là nơi quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra sâu sắc, mạnh mẽ và liên tục, đưa lại những sự đổi mới to lớn và tạo ra một khí thế cách mạng sôi nổi của hàng triệu nông dân lao động. Cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đã diễn ra toàn diện về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng. Thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa làm xuất hiện ngày càng rõ nét nông thôn mới và người nông dân mới, người nông dân xã viên hợp tác xã. Trải qua thực tiễn đấu tranh giai cấp và đấu tranh sản xuất những năm qua, người nông dân xã viên hợp tác xã ngày càng thấm nhuần đường lối và chủ trương của Đảng, biến đường lối và chủ trương ấy thành cách nhìn, cách nghĩ, lối làm ăn của mình, con mắt thấy rõ và bàn tay làm nên thắng lợi, do đó mà ngày càng tin tưởng vững chắc vào Đảng, vào chế độ, ngày càng nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, ý thức làm chủ hợp tác xã và đời sống của mình, biết gắn liền sự nghiệp của mình với sự nghiệp xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Điều này thể hiện rõ rệt trong việc hoàn thành tốt và gọn nghĩa vụ bán lương thực cho Nhà nước vụ đông - xuân này. Ở rất nhiều nơi, lúa gặt chưa xong, nhưng nghĩa vụ lương thực đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức.

Những chuyển biến trong sản xuất nông nghiệp, trong nền kinh tế nông thôn, trước nhất thể hiện ở chỗ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được củng cố và tăng cường thêm một bước. Tính hơn hẳn của hợp tác xã được chứng minh trong đời sống. Trải qua nhiều thử thách, nói chung hợp tác xã với quy mô và cách tổ chức bước đầu như hiện nay đã tỏ ra thích hợp với hoàn cảnh của nước ta. Đó là hình thức tổ chức tốt nhất hiện nay của nông dân lao động để phát triển sức sản xuất, cải tiến kỹ thuật, chống thiên tai, sử dụng hợp lý đất đai và nhân lực, xác định và thực hiện phương hướng sản xuất mới. Đó là trường học tốt để đào tạo con người mới và xây dựng đời sống mới, xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Đó là hình thức tốt để thắt chặt quan hệ xã hội chủ nghĩa giữa Nhà nước và nông dân, để củng cố và tăng cường khối liên minh công nông.

Trong lịch sử lâu đời của nông thôn Việt Nam, hợp tác xã là một hiện tượng mới, xuất hiện rộng khắp chỉ chừng ba, bốn năm lại đây, nhưng đến nay hợp tác xã đã bén rễ trong đời sống, dần dần quen thuộc và thân thiết với người nông dân. Thế hệ trẻ ở nông thôn ngày nay hầu như không thể quan niệm được làng xóm của mình không có hợp tác xã. Điều này chứng tỏ sự vững chắc, sức mạnh và triển vọng tốt đẹp của hợp tác xã.

Qua cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, hợp tác xã ở khắp các vùng: đồng bằng, trung du và miền núi, vùng ven biển, đều đã lớn mạnh thêm một bước. Đến nay, các hợp tác xã cấp cao chiếm 1/3 tổng số hợp tác xã và bao gồm quãng 40% tổng số hộ nông dân lao động. Tính trung bình khoảng 30% hợp tác xã thuộc loại khá, khoảng 45% hợp tác xã thuộc loại trung bình và còn khoảng 25% hợp tác xã thuộc loại kém. Quy mô hợp tác xã đã được ổn định: trên dưới 150 hộ ở đồng bằng và 50 hộ ở miền núi. Cơ sở vật chất và kỹ thuật của hợp tác xã như nhà kho, sân phơi, chuồng trại, nông cụ cải tiến, phân bón,… được tăng cường một bước so với trước. Cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã đã được tiến hành qua ba đợt và trong năm nay sẽ căn bản hoàn thành ở đồng bằng theo đúng kế hoạch đã định. Ở miền núi, hiện nay chúng ta đang mở rộng thí điểm cải tiến quản lý hợp tác xã và phổ biến kinh nghiệm của các hợp tác xã tiên tiến. Không còn nghi ngờ gì nữa, hợp tác xã sẽ ngày càng củng cố, ngày càng phát huy vai trò tích cực trong sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn miền Bắc nước ta.

Lực lượng của hợp tác xã được thể hiện rõ rệt trong những thành tựu to lớn của phong trào làm thuỷ lợi. Đây là cuộc cách mạng của hàng triệu quần chúng đang diễn ra trên đồng ruộng trong cuộc đấu tranh để thắng thiên tai và chinh phục thiên nhiên. Hỏi cán bộ cơ sở và người nông dân xã viên hợp tác xã về nguyên nhân của những tiến bộ trong sản xuất nông nghiệp và của sự cải thiện đời sống mấy năm qua, thì không một chút ngần ngừ, ai nấy đều trả lời nguyên nhân đó là hợp tác xã và thuỷ lợi. Đến nay, một số tỉnh đã có điều kiện để tiến tới căn bản giải quyết hạn, nhưng còn phải ra sức chống úng. Nhiều tỉnh khác, nhất là một số tỉnh lớn, còn phải cố gắng phấn đấu nhiều hơn nữa để tiến tới thanh toán hạn và úng.

Qua cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, từng hợp tác xã, từng xã, từng huyện và từng tỉnh đã bước đầu định phương hướng sản xuất của mình, nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản của kinh tế nông thôn như: sử dụng hợp lý đất đai và khoanh vùng sản xuất; phân phối và quản lý tốt nhân lực, tăng cường đầu tư lao động để thâm canh tăng năng suất và tăng vụ; thực hiện xen canh, gối vụ, rải vụ; áp dụng những biện pháp kỹ thuật tiên tiến; phát triển nông nghiệp toàn diện, chú trọng giữ cân đối tốt giữa ba khâu có liên quan chặt chẽ là: lương thực, chăn nuôi và cây công nghiệp; nâng cao tỷ lệ nông sản hàng hoá của nông thôn,… Nhờ bước đầu xác định được phương hướng sản xuất, nhiều hợp tác xã đã nhìn thấy khả năng và triển vọng to lớn của mình, nhìn thấy mục tiêu và biện pháp phấn đấu để tấn công có hiệu lực vào nghèo nàn và lạc hậu, làm giàu cho hợp tác xã, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chung.

Phong trào thi đua trong nông nghiệp được phát động và chỉ đạo liên tục trong mấy năm nay, từ phong trào Đại Phong có hơn 7.000 hợp tác xã tham gia, qua cuộc thi đua "vụ mùa năng suất cao" năm 1963 có trên 11.000 hợp tác xã tham gia, đến phong trào thi đua "năng suất cao, hoa mầu nhiều, chăn nuôi giỏi, cây công nghiệp tăng" hiện nay có gần 15.000 hợp tác xã tham gia. Phong trào thi đua ngày càng sôi nổi, ngày càng mang tính chất quần chúng rộng rãi, nhằm những mục tiêu chủ yếu đề ra trong nghị quyết của Đảng và kế hoạch của Nhà nước, đã có tác dụng to lớn trong việc củng cố quan hệ sản xuất mới và đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp.

Các nông trường quốc doanh trong thời gian vừa qua tập trung lực lượng thực hiện nhiệm vụ "củng cố nông trường là chính", đã thu được những kết quả bước đầu trong việc cải tiến quản lý, nhất là quản lý lao động, trong việc xác định quy mô, ranh giới, phương hướng và nhiệm vụ sản xuất của các nông trường, trong việc thâm canh tăng năng suất, chăm sóc các loại cây trồng và phát triển chăn nuôi.

Trên cơ sở những thắng lợi về cải tạo quan hệ sản xuất và phát triển sức sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần của nông dân lao động đã được nâng cao một bước rõ rệt. Nhưng việc cải thiện đời sống chưa được đều khắp các vùng: những nơi có phương hướng sản xuất đúng, chỉ đạo sản xuất tốt, thì đời sống được cải thiện khá. Những nơi chỉ đạo sản xuất chưa tốt, khắc phục thiên tai còn kém, thì đời sống nhân dân có lúc còn gặp khó khăn. Nhìn chung, thu nhập của bà con xã viên hợp tác xã về lương thực và về tiền ở khắp các vùng đều tăng lên. Mấy năm lại đây, tại phần lớn các xã, hầu như toàn bộ nhà ở của nông dân đều làm mới, số nhà gỗ và nhà gạch lợp ngói ngày càng tăng, có nhiều xã toàn là nhà gỗ và nhà ngói. Ở những nơi bị đốt phá trụi trong kháng chiến, thì nay nhà hoàn toàn mới, có nơi đều là nhà ngói. Thật là một cảnh tượng phấn khởi vô cùng. Người nông dân ngày nay ăn, mặc đều có khá hơn, trong nhà có nhiều đồ dùng mới như: chăn, màn, giường, chiếu, bàn, ghế, bát, chén. Nhìn về ngày mai ai nấy đều thấy vững chân như vại, không còn bị ám ảnh bởi cảnh khủng khiếp của nghèo đói như ngày xưa, cầm chắc trong tay là cuộc đời sẽ ngày càng no ấm, tươi vui.

Đời sống công cộng ở nông thôn đã có sự đổi mới bước đầu rất dễ thấy. Hầu khắp các xã đều có trường học, lớp mẫu giáo, nhà giữ trẻ, nhà hộ sinh, giếng nước xây, nhà vệ sinh công cộng, nhiều xã có thư viện và câu lạc bộ. Ở một số vùng, bà con trong xã đã bắt đầu tính đến việc xây dựng nông thôn mới, sắp xếp những khu nhà ở, vườn tược, đường đi trong xóm làng cho phù hợp với yêu cầu về sản xuất và đời sống công cộng, đồng thời làm cho bộ mặt xóm làng sáng sủa, đẹp đẽ hơn xưa.

Về mặt tinh thần và văn hoá, cuộc sống mới ngày nay khác với ngày xưa thật là một trời một vực. Người nông dân xã viên hợp tác xã làm chủ nông thôn, mạnh dạn bàn bạc việc làng, việc nước, sống tự do thoải mái trong mối quan hệ đã đổi mới giữa người với người, giữa các thế hệ già trẻ với nhau, giữa nam và nữ. Những cố gắng và thành tựu của công tác văn hoá, giáo dục, y tế mang lại quyền lợi học tập, vui chơi, giải trí cho người nông dân xã viên hợp tác xã, thay đổi bộ mặt văn hoá của làng xóm ta với nhịp độ nhanh chóng lạ thường.

Tóm lại, tình hình nông thôn miền Bắc là một nguồn phấn khởi cách mạng. Hiện nay chúng ta vừa thu hoạch một vụ đông -xuân tốt vào bậc nhất trong suốt 10 năm từ khi hoà bình lập lại: lúa chiêm vượt mức kế hoạch cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Hoa mầu có phát triển. Diện tích một số cây công nghiệp chủ yếu (nhất là dâu tằm và gai) tăng khá nhanh. Chăn nuôi lợn tập thể và chăn nuôi trâu bò sinh sản ở đồng bằng có tiến bộ bước đầu. Thắng lợi của vụ đông - xuân năm nay là thắng lợi của phương hướng sản xuất đúng đắn, đó là một bước tiến trong công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Các cơ quan trung ương đã trực tiếp giúp đỡ địa phương giải quyết nhiều khó khăn trong sản xuất. Các cơ quan lãnh đạo Đảng, chính quyền, tổ chức quần chúng từ tỉnh xuống xã đã có những cố gắng và tiến bộ trong việc chỉ đạo nông nghiệp, đặc biệt là đã bắt đầu có tác phong điều tra, nghiên cứu nhằm sử dụng tài nguyên và nhân lực của địa phương mình một cách hợp lý hơn trước. Sự chuyển biến tốt trong nông nghiệp chưa phải đã diễn ra đều khắp mọi nơi, nhưng những điển hình xuất sắc về các mặt xuất hiện ngày càng nhiều với phạm vi tương đối rộng, chẳng những trong từng hợp tác xã mà trong từng xã, từng huyện, từng tỉnh.

Cố nhiên những thành tựu đã thu được chỉ mới là bước đầu. Giữa lúc được mùa sau mấy năm thiên tai liên tiếp, hơn bao giờ hết, chúng ta phải nêu cao tinh thần tiết kiệm và tuyệt đối không được chủ quan, tự mãn. Chúng ta cần nhận rõ rằng trong phong trào hợp tác hoá cũng như trong sản xuất nông nghiệp, những khó khăn còn nhiều, những chỗ kém và chỗ non yếu của chúng ta cũng không ít, chúng ta phải không ngừng cố gắng hơn nữa, kiên trì phấn đấu trong những năm tới mới bảo đảm cho nông nghiệp miền Bắc nước ta phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Phương hướng sản xuất so với trước tuy đã cụ thể và sát hơn, nhưng việc khoanh vùng sản xuất, phân công sản xuất cho từng tỉnh, từng địa phương làm còn chậm, chưa kịp khai thác những khả năng dồi dào của nông nghiệp ở từng nơi. Phải tiến tới khoanh vùng, nhưng việc này phải làm rất vững chắc, có căn cứ khoa học, dựa trên cơ sở điều tra cơ bản và quy hoạch toàn diện. Trong sản xuất nông nghiệp, ý thức thâm canh tăng năng suất đã tiến bộ hơn trước, nhưng việc chỉ đạo thâm canh vẫn còn chưa tương xứng với việc tăng vụ và mở rộng diện tích. Phong trào hợp tác hoá tuy đã ổn định nhưng cần được củng cố hơn nữa cho thật vững chắc. Năng lực tổ chức và quản lý, năng lực chỉ đạo thực hiện của cơ quan có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước ở Trung ương và các cấp chuyển biến còn chậm so với tình hình. Việc xây dựng kế hoạch sản xuất, hướng dẫn cải tiến kỹ thuật, cung cấp tư liệu sản xuất có chỗ, có nơi chưa sát, chưa kịp thời, ảnh hưởng không tốt đến sự tiến bộ của nông nghiệp.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Những khả năng rất to lớn của toàn bộ nền nông nghiệp miền Bắc nước ta thể hiện rõ qua tình hình của các vùng: đồng bằng, trung du, vùng núi và vùng ven biển.

Vùng đồng bằng, có một vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ nền nông nghiệp của miền Bắc nước ta. Hiện nay, đồng bằng chiếm quãng 75% dân số, 74% diện tích canh tác, trên 60% sản lượng chăn nuôi, và 76% số lương thực của nông dân làm nghĩa vụ đối với Nhà nước.

Trong mấy năm qua, diện tích gieo trồng ở đồng bằng đã tăng lên khá rõ, đặc biệt là tốc độ hoa màu tăng nhanh, do đó chăn nuôi cũng đang trên đà phát triển. Nền sản xuất độc canh ở đồng bằng đang chuyển mạnh sang đa canh. Tuy vậy, điều cần phải nhấn mạnh là trong mấy năm nay, năng suất cây trồng không nhích lên được bao nhiêu. Đồng bằng là vựa lúa của toàn miền Bắc nhưng đồng bằng ruộng ít, người đông, cho nên ở đồng bằng phải đề lên hàng đầu vấn đề thâm canh, tăng năng suất, tăng vụ. Căn cứ vào thực tiễn của những điển hình xuất sắc trong điều kiện hiện nay, vùng đồng bằng có khả năng đưa năng suất lúa lên cao, bảo đảm đạt khoảng 5 tấn trên một hécta cả năm. Chính hiện nay nhiều tỉnh đã đạt năng suất bình quân cả năm hơn 4 tấn một hécta. Rõ ràng, chúng ta hoàn toàn có thể đạt mức khoảng 5 tấn trên một hécta cả năm, và phải kiên quyết phấn đấu đạt mức ấy để bảo đảm sản xuất nhiều lương thực; trên cơ sở đó mà phát triển tại đồng bằng nhiều sản phẩm cây công nghiệp quý như: đay, gai, cói, mía, dâu tằm, lạc, thuốc lá, vừng, v.v., để củng cố cho công nghiệp trong nước và cho xuất khẩu; đồng thời, cũng trên cơ sở đó mà phát triển chăn nuôi: trâu, bò, lợn,… Phương hướng phấn đấu của đồng bằng là tích cực đầu tư lao động vào một đơn vị canh tác, đẩy mạnh công tác thuỷ lợi nhằm diệt hạn, diệt úng, ra sức cải tiến kỹ thuật, thâm canh tăng năng suất, tăng vụ, đầu tư lao động cày bừa kỹ, làm nhiều phân bón, chăm sóc, ruộng đồng và phát triển chăn nuôi.

Vùng trung du có khả năng kinh tế và triển vọng phát triển rất to lớn: đất đai nhiều, bình quân ruộng đất chia cho đầu người trên ba sào, có nhiều điều kiện để tăng diện tích, tăng vụ nhất là tăng hoa mầu và cây công nghiệp. Ở trung du có vùng đồi núi rộng rãi, nếu được cải tạo thì sẽ là nơi rất tốt để phát triển chăn nuôi sinh sản và chăn nuôi trâu bò cày, đồng thời là nơi trồng được nhiều loại cây lấy gỗ, cây lấy dầu cũng như cây ăn quả. Nhân lực vùng trung du nói chung không thừa nhiều như ở đồng bằng, cũng không quá thiếu như ở vùng núi. Tóm lại, trung du về các mặt có khả năng phát triển nông nghiệp toàn diện, trở thành một vùng kinh tế quan trọng, cung cấp nhiều sản phẩm hàng hoá cho Nhà nước, làm giàu đẹp cho địa phương và đưa đời sống của nhân dân cải thiện mau chóng.

Trong mấy năm qua, nhờ dần dần nhìn rõ phương hướng sản xuất đúng, kinh tế nông nghiệp vùng trung du dần dần bước vào một giai đoạn phát triển mới. Từ một nền kinh tế đại bộ phận là độc canh, trung du bắt đầu trở thành một vùng có nhiều hoa mầu, có nhiều cây công nghiệp, có nhiều khả năng phát triển chăn nuôi. Đời sống của nhân dân ở trung du so với mấy năm trước được cải thiện rõ rệt, và nói chung có phần khá hơn ở đồng bằng.

Nhưng trung du cũng như vùng núi là nơi có nhiều đồi trọc gây ra lũ và hạn, tác hại rất lớn đến sản xuất nông nghiệp, làm cho nạn xói mòn và đất bạc mầu ở đây có phần nghiêm trọng hơn ở các nơi khác. Trong mấy năm qua, ở nhiều tỉnh trung du đã xuất hiện những điển hình tốt về trồng cây thanh toán đồi trọc, chống xói mòn, cải tạo chất đất, sử dụng hợp lý ruộng đồng và phân bố hợp lý nhân lực, đưa lại kết quả tốt rõ rệt. Những điển hình này cho chúng ta thấy khả năng biến những miền đá ong, đất sỏi dần dần thành những vùng có nền kinh tế nông nghiệp phong phú, biến những vùng đất bạc màu thành những vùng canh tác phì nhiêu, biến nhiều huyện xưa nay nghèo đói và hiện giờ vẫn đang còn thiếu thốn thành những địa phương có thừa lương thực và có nhiều nông sản hàng hóa. Trong những năm sắp tới, ở trung du cũng như ở vùng núi phải tập trung lực lượng giải quyết mấy vấn đề lớn có liên quan chặt chẽ với nhau là thanh toán đồi trọc, chống xói mòn, cải tạo đất màu, từ đó mà giải quyết nhiều vấn đề khác: giữ đất, giữ nước, chống hạn, chống lụt, phát triển chăn nuôi, làm nhiều phân bón, cải tạo giống, tăng năng suất cây trồng, đẩy mạnh nền nông nghiệp ở trung du phát triển một cách toàn diện.

Vùng núi chiếm khoảng trên 2/3 tổng diện tích miền Bắc, trên 1/5 dân số. Trong diện tích chung của vùng núi, đất canh tác mới chiếm chừng 5%, còn gần 95% là rừng và đất rừng. Trong số rừng và đất rừng này diện tích đồi trọc và đất hoang hiện nay rất lớn, chiếm đến 45%, diện tích rừng nghèo đang phục hồi và rừng núi đá cũng chiếm đến 37%, rừng tre nứa chiếm 5%, còn rừng loại tốt chỉ quãng trên dưới 13%. Về mặt chăn nuôi, vùng núi chiếm một nửa số trâu, 1/5 số bò và gần 1/4 số lợn của toàn miền Bắc. Tài nguyên thiên nhiên của vùng núi hết sức to lớn, đặc biệt là những tài nguyên về rừng mà ông cha chúng ta đã gọi rất đúng là rừng vàng. Để khai thác những tài nguyên phong phú đó, một mặt phải phát huy cao độ sức lao động sáng tạo của đồng bào các dân tộc vùng núi, một mặt phải giải quyết tình trạng thiếu nhân lực nghiêm trọng của vùng núi.

Qua mấy năm thực hiện đường lối và chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ, vùng núi của miền Bắc nước ta đã có những tiến bộ đầy hứa hẹn về hợp tác hóa nông nghiệp, về sản xuất nông nghiệp, về thủy lợi và giao thông vận tải, về phát triển văn hoá, giáo dục, y tế,… Các tỉnh miền núi nói chung đều đang trên đà vươn lên. Tuy nhiên, hiện nay hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở vùng núi cần được củng cố vững chắc hơn nữa, phương hướng sản xuất ở vùng núi cần được xác định rõ. Công tác đưa người vùng xuôi lên tham gia phát triển kinh tế vùng núi làm chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Vì vậy, các cơ quan có trách nhiệm ở Trung ương cũng như các tỉnh ở đồng bằng, trung du, vùng núi phải ra sức đẩy mạnh một cách vững chắc cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên tham gia phát triển kinh tế miền núi với nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng to lớn về nhiều mặt của cuộc vận động này. Công tác định canh, định cư chưa tốt, nạn phá rừng, đốt rừng còn nghiêm trọng. Về đời sống nhân dân, điều đáng chú ý là giữa vùng thấp và vùng cao, vẫn còn chênh lệch khá rõ rệt. Chúng ta phải cố gắng hết sức để mau chóng khắc phục những kém cỏi trên đây.

Để phát huy vai trò quan trọng của vùng núi về mọi mặt, phải tích cực điều tra, nghiên cứu, xác định phương hướng sản xuất chung của vùng núi, và phương hướng cụ thể cho từng vùng, nhằm đưa miền núi và miền xuôi tiến dần một nhịp. Phải chú ý làm tốt các công tác: định cư, định canh, bảo vệ rừng, phát triển thủy lợi, phát triển giao thông vận tải, tạo những điều kiện thuận lợi nhất để đẩy mạnh sản xuất lương thực, phát triển nhanh chóng những loại cây công nghiệp thích hợp với từng địa phương vùng núi, phát triển, chăn nuôi đàn đại gia súc, và đặc biệt chú trọng khai thác các nguồn lợi về rừng. Muốn làm những việc trên đây, điều mấu chốt là phải tích cực đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân tộc có chất lượng tốt về tư tưởng và chính trị, có trình độ ngày càng được nâng cao về văn hóa, về nghiệp vụ quản lý và về khoa học - kỹ thuật. Đồng thời, phải đầu tư thêm sức lao động vào vùng núi để làm đầy đủ những việc kể trên.

Vùng biển của miền Bắc nước ta có khả năng kinh tế phong phú về nghề cá, nghề muối cũng như về sản xuất nông nghiệp. Nếu vùng núi là rừng vàng, thì đây chính là biển bạc. Vùng biển còn hàng vạn hécta đất có thể khoanh vùng làm muối, nuôi cá nước lợ, nuôi thủy sản các loại, hoặc có thể cải tạo để trồng cói, trồng dâu, đay, gai và trồng lúa. Ở vùng biển có thể trồng những cây chắn gió, ngăn nước biển; trồng dừa và các loại cây lấy gỗ. Nói chung, đời sống của nhân dân ở vùng ven biển được cải thiện rõ rệt, nhưng chưa đều và chưa vững chắc.

Do nhu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân và cải thiện đời sống nhân dân, ngành khai thác thủy sản (chủ yếu là cá biển) và ngành sản xuất muối cần được đẩy mạnh. Nhưng vì những khuyết điểm của cơ quan có trách nhiệm ở Trung ương và ở địa phương, nên hai ngành này lâu nay phát triển rất chậm. Chúng ta phải cố gắng hết sức đẩy hai ngành này tiến lên vững chắc.

Để khai thác khả năng to lớn của vùng biển, phải tiến hành điều tra nghiên cứu để đặt kế hoạch toàn diện. Đối với nghề cá và nghề muối, phải tiếp tục hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và phát triển hợp tác xã, chú trọng điều chỉnh và sắp xếp các hợp tác xã theo quy mô hợp lý, phù hợp với yêu cầu sản xuất và đặc điểm của từng địa phương. Phải hoàn thành việc làm thí điểm cải tiến quản lý, tích cực chuẩn bị mở rộng cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật trong các hợp tác xã nghề cá và nghề muối, giải quyết tốt vấn đề phân phối thu nhập đi đôi với tăng tích luỹ cho hợp tác xã để phát triển sản xuất và cải thiện từng bước vững chắc đời sống của xã viên.

Trong lúc nghiên cứu tình hình các vùng nông nghiệp khác nhau của nông thôn miền Bắc, chúng ta càng thấy rõ hơn những khả năng quý báu nhằm phát triển cân đối và nhịp nhàng nền sản xuất nông nghiệp với ba khâu lớn: lương thực, chăn nuôi và cây công nghiệp. Đồng bằng, trung du và miền núi, mỗi vùng đều có thể phát triển toàn diện, đồng thời mỗi vùng phải nhận rõ và nắm vững khâu chủ yếu của vùng mình. Hiện nay, chúng ta đương có ít nhiều khó khăn về lương thực. Nhưng rõ rằng là chúng ta đương tiến tới giải quyết từng bước một cách vững chắc vấn đề đó trong những năm tới và từ đó chúng ta đã thấy những khả năng hiện thực để phát triển nhiều loại cây công nghiệp có giá trị đối với trong nước và để xuất khẩu. Đà này phải được khuyến khích mạnh mẽ, một cách có hệ thống, bằng mọi biện pháp ở địa phương và trung ương. Về chăn nuôi, một khâu rất trọng yếu của một nền nông nghiệp toàn diện, nhất là ở nước ta hiện nay, vì chăn nuôi nghĩa là sức kéo, là phân bón, là thịt và các thức ăn khác, tình hình có những chuyển biến tốt, những điển hình tốt, nhưng ý thức và biện pháp chưa mạnh mẽ, vững chắc, nhất là chúng ta chưa dùng được bao nhiêu những khả năng to lớn về chăn nuôi ở trung du và miền núi.

Hiện nay từng hợp tác xã, từng xã, từng huyện, rồi đến từng tỉnh đã bước đầu xác định phương hướng sản xuất và khoanh vùng sản xuất nông nghiệp. Nhìn một cách lâu dài và cơ bản thì phương hướng sản xuất từng địa phương chỉ có thể xác định một cách đúng đắn trên cơ sở Trung ương tiến hành phân vùng và xác định quy hoạch sản xuất của những vùng lớn. Trong những năm tới, chúng ta phải ra sức hoàn thành bước đầu nhiệm vụ rất quan trọng này để đẩy mạnh đà phát triển vững chắc của toàn bộ nền nông nghiệp miền Bắc, góp phần lớn nhất của nông nghiệp vào sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn mấy năm nay càng làm nổi bật vai trò cực kỳ trọng yếu của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, càng chứng minh sự đúng đắn của đường lối của Đảng: chúng ta phải dựa trên nông nghiệp làm cơ sở để phát triển công nghiệp. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, bà con nông dân xã viên hợp tác xã có nghĩa vụ quan trọng và vẻ vang: bảo đảm lương thực và thực phẩm cho các khu công nghiệp, và nói chung cho những người không sản xuất nông nghiệp; cung cấp đủ nguyên liệu cho các nhà máy chế biến nông sản, cho một số xí nghiệp công nghiệp nhẹ quan trọng; sản xuất ngày càng nhiều hàng xuất khẩu có giá trị cao để đổi lấy thiết bị, máy móc, và các nguyên liệu mà ta chưa sản xuất được; tạo nên thị trường tiêu thụ ngày càng lớn rộng để thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp. Nhà nước mấy năm nay đã cố gắng và sẽ tiếp tục cố gắng hơn nữa trong việc giúp đỡ hợp tác xã về mọi mặt: tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho các hợp tác xã nông nghiệp và các hợp tác xã nghề cá, nghề muối, v.v.; ban hành và thực hiện những chính sách khuyến khích trồng trọt, chăn nuôi, nghề cá, nghề muối; tạo những điều kiện thuận lợi, giúp đỡ những phương tiện cần thiết và chú trọng hướng dẫn kỹ thuật cho hợp tác xã đẩy mạnh sản xuất.

Tất cả những sự giúp đỡ đó của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, của kinh tế quốc doanh, của giai cấp công nhân trong các nhà máy đối với hợp tác xã nông nghiệp là để tăng cường lực lượng và phát huy vai trò của nông nghiệp, tạo cơ sở và điều kiện cho hợp tác xã ngày càng lớn mạnh, sản xuất ngày càng tốt, thu nhập ngày càng tăng, ngày càng có nhiều khả năng làm tròn nghĩa vụ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và cải thiện đời sống của xã viên.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Đi đôi với việc ra sức phát triển nông nghiệp, trong những năm qua chúng ta đã ra sức phát triển công nghiệp và đã thu được những thành tựu to lớn. Tại Hội nghị Chính trị đặc biệt mới đây, Hồ Chủ tịch đã nêu lên những con số đầy ý nghĩa: đầu năm 1955, toàn miền Bắc nước ta chỉ có 40 xí nghiệp công nghiệp, trong đó có 20 xí nghiệp tương đối lớn do Trung ương quản lý. Đầu năm 1964, chúng ta đã có hơn 1.000 xí nghiệp công nghiệp, trong đó có gần 250 xí nghiệp tương đối lớn do Trung ương quản lý. Tính trung bình trong mười năm qua, cứ hơn ba ngày, trên miền Bắc nước ta lại xuất hiện một nhà máy mới. Việc xây dựng một số cơ sở quan trọng của các ngành công nghiệp nặng với quy mô tương đối lớn và kỹ thuật hiện đại, cơ khí, luyện kim, hóa chất, việc hình thành một mạng lưới điện ngày càng hoàn chỉnh có khả năng điều hòa và tận dụng công suất của các trung tâm phát điện, việc xây dựng nhiều nhà máy công nghiệp nhẹ ở một số khu tập trung, việc cải tạo các thành phố lớn từ tiêu phí sang sản xuất công nghiệp đã đưa đến sự hình thành các khu công nghiệp như: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hồng Quảng, Thái Nguyên, Việt Trì, Vinh,.. Các khu công nghiệp giữ vai trò chủ đạo đối với các vùng khác nhau của đất nước, có tác dụng cực kỳ to lớn trước mắt và lâu dài trong việc trang bị kỹ thuật mới cho nông nghiệp và các ngành kinh tế khác, thực hiện cách mạng kỹ thuật nửa cơ giới hóa và cơ giới hóa, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Các khu công nghiệp trực tiếp sản xuất ra nhiều tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng và hàng xuất khẩu, góp phần quan trọng bậc nhất vào việc tích lũy vốn, đồng thời từng bước cải thiện đời sống của nhân dân.

Cùng với sự xuất hiện và phát triển của các khu công nghiệp, giai cấp công nhân cũng lớn lên, hàng ngũ ngày nay bao gồm gần nửa triệu người, trình độ tư tưởng và chính trị cùng trình độ nghề nghiệp ngày càng được nâng cao. Đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật hồi hòa bình lập lại mới chỉ được trên dưới 100 người, đến nay bao gồm khoảng hai vạn cán bộ tốt nghiệp đại học và hơn năm vạn cán bộ tốt nghiệp trung cấp kỹ thuật. Đây là một đội ngũ những người kỹ thuật trẻ, đầy sinh lực, sát cánh với công nông và chịu đi vào thực tế và học hỏi trong đời sống, cần cù lao động và chăm lo nghiên cứu để góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế quốc dân, phát triển khoa học và kỹ thuật.

Tại các khu công nghiệp, cuộc vận động ba xây ba chống đã thu được kết quả tốt trong các thí điểm và hiện nay đang dần dần mở rộng với sự hưởng ứng nhiệt liệt của anh chị em công nhân ở cơ sở. Phải cố gắng biến cuộc vận động ba xây ba chống thành một phong trào cách mạng sâu sắc và rộng rãi trong công nghiệp và kinh tế quốc doanh, đưa lại kết quả tốt về cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, phát triển sức sản xuất, củng cố kinh tế quốc doanh, đào tạo con người mới, xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, phải đẩy mạnh phong trào thi đua trở thành tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa với tinh thần "một người làm việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt". Ở những nơi đương làm cuộc vận động ba xây ba chống thì phải kết hợp phong trào thi đua trên đây với cuộc vận động cách mạng này. Nơi nào kết hợp tốt và động viên tốt, thì phong trào lên đều và chắc, phấn khởi và sôi nổi. Trong công nghiệp Trung ương, tại các cơ sở công nghiệp nặng như nhà máy cơ khí Hà Nội, công ty gang thép Thái Nguyên, các trung tâm phát điện lớn, nhà máy phân hóa học, cũng như tại các cơ sở công nghiệp nhẹ, như: nhà máy dệt Nam Định, nhà máy đường, nhà máy giấy,… người công nhân đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, khắc phục nhiều khó khăn về trang bị chưa hoàn chỉnh, nguyên liệu, vật liệu, phụ tùng thiếu thốn, trình độ kỹ thuật có hạn,… để đẩy mạnh sản xuất. Theo báo cáo của địa phương, các chiến dịch sản xuất than, gỗ, muối đã đem lại những thành tích tốt bước đầu. Trong các cơ sở công nghiệp địa phương và hợp tác xã thủ công, anh chị em công nhân và xã viên đã ra sức khai thác mọi nguồn nguyên liệu, tận dụng khả năng của thiết bị và công cụ hiện có, sản xuất thêm nhiều mặt hàng mới và cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nhu cầu tiêu dùng của địa phương. Công nghiệp địa phương dần dần nhìn thấy rõ hơn phương hướng sản xuất, và đang dần dần đi vào sự sắp xếp và phân công theo quy hoạch toàn diện.

Gắn liền với những thành tựu về công nghiệp và nông nghiệp, chúng ta cần nêu lên những cố gắng to lớn và tiến bộ rõ rệt về giao thông vận tải. Đường bộ, đường sắt, đường sông, hải cảng đều có phát triển và cải tiến, đi đôi với sự tăng cường các phương tiện vận chuyển. Gần đây, chúng ta đã hoàn thành một số đường bộ có ý nghĩa quan trọng về kinh tế và chính trị ở miền núi, hoàn thành cầu Hàm Rồng và đường sắt vào Vinh. Ở nông thôn hợp tác hoá hiện đang lan rộng một phong trào quần chúng làm đường sá, cầu cống, đóng xe và thuyền để giải phóng đôi vai. Từ đầu kế hoạch năm năm lần thứ nhất đến nay, nhân dân đã tự làm trên sáu vạn cây số đường sá và trên 60 vạn xe, thuyền các loại.

Hiện nay, chúng ta đứng trước một vấn đề rất lớn là làm sao phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ đạo của công nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân.

Điều ấy có nghĩa là đi đôi với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, phải ra sức phát huy tác dụng của công nghiệp nặng nhằm xây dựng từng bước cơ sở vật chất và kỹ thuật cho nông nghiệp và cho các ngành kinh tế quốc dân khác. Công nghiệp nặng phải sử dụng một cách hợp lý mọi lực lượng của mình để chế tạo ngày càng nhiều, ngày càng tốt, các thiết bị, công cụ và các loại phụ tùng thay thế, cung cấp nguồn năng lượng và các tư liệu sản xuất cần thiết cho nông nghiệp, cho các ngành của công nghiệp, cho giao thông vận tải, cho kiến trúc, cho nghề rừng, nghề cá, nghề muối, cho thương nghiệp, cho sinh hoạt văn hóa. Rõ ràng là việc này có liên quan mật thiết với cuộc cách mạng kỹ thuật mà bản báo cáo này có nói đến mấy lần. Phải cố gắng nhìn thấy những khâu trọng yếu nhất và cấp bách nhất trong việc trang bị kỹ thuật cho nông nghiệp và cho các ngành khác trong kinh tế quốc dân, đó cũng là những khâu của cuộc cách mạng kỹ thuật.

Đồng thời với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, chúng ta phải ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Các ngành công nghiệp nhẹ phải tăng cường chế biến các loại sản phẩm nông nghiệp, tận dụng mọi nguồn nguyên liệu trong nước, sản xuất ngày càng nhiều hàng tiêu dùng với chất lượng tốt và giá thành hạ, đem hàng công nghiệp trao đổi lấy nông sản, thúc đẩy nông nghiệp phát triển, bảo đảm nhu cầu của nhân dân, không ngừng tăng nguồn hàng xuất khẩu và góp phần tích lũy vốn.

Bên cạnh công nghiệp trung ương, phải thấy hết tầm quan trọng trước mắt và lâu dài của công nghiệp địa phương (bao gồm thủ công nghiệp), vừa sản xuất tư liệu sản xuất, vừa sản xuất hàng tiêu dùng cho địa phương. Phải giúp cho công nghiệp địa phương giải quyết mấy vấn đề lớn trước mắt là quy hoạch sản xuất, nguyên liệu sản xuất và cải tiến quản lý sản xuất. Nói chung, công nghiệp địa phương trong từng vùng phải ăn sâu bám rễ vào địa phương, phục vụ đúng những yêu cầu của việc phát triển nông nghiệp, phát triển kinh tế ở địa phương theo một quy hoạch toàn diện, trong đó có phân công hợp lý giữa công nghiệp Trung ương và công nghiệp địa phương và giữa công nghiệp địa phương với nhau. Một điều quan trọng cần nhìn thấy là công nghiệp địa phương phải phục vụ những trọng điểm cải tiến kỹ thuật và nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp địa phương, chế biến các nông sản của địa phương, đồng thời phục vụ yêu cầu cải tiến thiết bị và công cụ, cung cấp phụ tùng, nguyên liệu cho các ngành kinh tế khác ở địa phương như thủ công nghiệp, giao thông vận tải, kiến trúc, v.v..

PHẦN II

TIẾN LÊN THỰC HIỆN TỐT
CÁC KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Chúng ta phải nhìn thấy các địa phương, những đặc điểm của từng địa phương để ra sức phát huy mọi khả năng của địa phương dưới sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của những cơ quan có thẩm quyền cao nhất của Đảng và Nhà nước.

Cũng như Đảng của chúng ta, Nhà nước của chúng ta tổ chức và sinh hoạt theo nguyên tắc tập trung dân chủ: phải phát huy cao độ lực lượng và sáng kiến của địa phương cho đến đơn vị cuối cùng, cho đến quần chúng trên cơ sở tăng cường sự lãnh đạo, sự chỉ đạo và sự quản lý tập trung và thống nhất của những cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương. Hiện nay về tổ chức cũng như về sinh hoạt, hiện tượng phân tán khá phổ biến và vì phân tán, thiếu tập trung vào cơ quan có thẩm quyền, nên công việc của chúng ta thường thiếu khẩn trương, sắc bén, đồng thời cũng có hiện tượng tập trung quan liêu làm chậm trễ công việc.

Để thực hiện tập trung và thống nhất sự lãnh đạo, sự chỉ đạo và quản lý vào những cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương đi đôi với việc mở rộng dân chủ một cách đúng mức cho các địa phương đến cơ sở, mọi người chúng ta đều phải có ý thức, trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mình, góp phần thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, dựa trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi người mà đề cao ý thức tổ chức, ý thức kỷ luật: một mặt phải khắc phục những hiện tượng phân tán, địa phương chủ nghĩa, bản vị và cục bộ ở các địa phương và các ngành, một mặt phải khắc phục hiện tượng lãnh đạo quan liêu ở cơ quan Trung ương, không nắm vững tình hình và kịp thời nhìn thấy vấn đề và giải quyết vấn đề một cách thiết thực cho địa phương, cho ngành và cơ sở.

Phải coi trọng hơn nữa, phải làm tốt hơn nữa công tác kiểm tra để phát hiện những chỗ đứt đoạn, những chỗ vướng mắc, những chỗ chậm trễ trong sinh hoạt của nền kinh tế quốc dân, trong bộ máy nhà nước, và kịp thời tìm những biện pháp khắc phục.

Phải tăng cường lãnh đạo tập trung và thống nhất ở Trung ương trên cơ sở phát huy dân chủ ở địa phương để thực hiện với những kết quả tốt kế hoạch nhà nước năm 1964, tiến tới thực hiện những kết quả tốt hơn nữa kế hoạch nhà nước năm 1965, hoàn thành thắng lợi kế hoạch năm năm lần thứ nhất, chuẩn bị vững chắc cho kế hoạch năm năm lần thứ hai.

Về việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1964 , trong sáu tháng qua chúng ta đã có những cố gắng mới và một số tiến bộ mới. Điều đáng phấn khởi là sản xuất nông nghiệp vụ đông - xuân đã giành được thắng lợi tương đối toàn diện. Trong công nghiệp, các xí nghiệp lớn và các sản phẩm chủ yếu đều đạt xấp xỉ mức kế hoạch, năng suất lao động có tăng hơn trước, việc tiết kiệm tiêu hao vật tư được đẩy mạnh và có nhiều tiến bộ. Chúng ta đã tiếp tập trung sức xây dựng những công trình trọng điểm, và một số đã đi vào sản xuất toàn bộ hoặc bộ phận, tạo cho nền kinh tế quốc dân những năng lực mới. Việc xây dựng và phát triển công nghiệp địa phương đã bước đầu được quy hoạch, với phương hướng sản xuất rõ hơn trước. Ngành Giao thông vận tải có nhiều cố gắng khắc phục khó khăn, phục vụ việc vận chuyển hàng hóa và hành khách. Trong công tác lưu thông phân phối, việc thu mua thóc đang tiến hành có kết quả, công tác phân phối thực phẩm và hàng hóa được cải tiến thêm một bước. Việc cải tạo và quản lý thị trường được chú trọng và có kết quả tốt, chỉ số vật giá xuống thấp hơn cuối năm 1963. Công tác quản lý lao động trong các cơ quan và xí nghiệp nhà nước có chặt chẽ hơn trước.

Trong sáu tháng cuối năm 1964 , chúng ta phải cố gắng và tiến bộ lớn hơn nữa để thực hiện tốt toàn bộ chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước năm 1964. Sản xuất nông nghiệp và việc cải tiến quản lý hợp tác xã sản xuất nông nghiệp đã thu được kết quả tốt, và đương làm đà cho việc làm vụ thu, vụ mùa. Năm 1964 là một năm đánh dấu một bước quan trọng trong việc củng cố và phát triển hợp tác xã. Chúng ta phải tập trung lực lượng quyết làm tốt và chắc cuộc vận động cách mạng có ý nghĩa to lớn này, gắn liền với việc cố gắng hết sức làm tốt vụ thu và vụ mùa. Phải kịp thời động viên mọi lực lượng, xúc tiến một cách vững chắc việc khoanh vùng sản xuất, áp dụng một cách phổ biến các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ về thủy lợi năm 1964, đặc biệt coi trọng củng cố và bảo vệ đê điều, đề phòng thiên tai và chuẩn bị khắc phục thiên tai. Tất cả chúng ta hãy nêu cao quyết tâm đẩy sản xuất nông nghiệp tiến một bước đáng kể trong năm 1964, quyết thực hiện tốt những chỉ tiêu về sản xuất lương thực, về chăn nuôi, về cây công nghiệp, chuẩn bị cho năm 1965 tiến lên một bước đáng kể nữa. Các cơ quan có trách nhiệm ở địa phương và ở Trung ương hãy nêu cao ý chí và quyết tâm, chung sức phấn đấu đạt cho được những mục tiêu đó. Đối với 8 tỉnh rất quan trọng về sản xuất nông nghiệp, phải nhắc lại rằng phải tập trung lực lượng hơn nữa, lực lượng chỉ đạo và lực lượng vật chất.

Về sản xuất công nghiệp , từ đầu năm chúng ta đã nhằm mấy sản phẩm chủ yếu trước mắt: than, xi măng, gỗ, cá, muối và chúng ta lần lượt đã đến tận địa phương, tận cơ sở, cùng với cán bộ và công nhân ở địa phương, ở cơ sở thảo luận và giải quyết mọi vấn đề nhằm bảo đảm thực hiện một cách vững chắc những chỉ tiêu về sản lượng và chất lượng của các mặt hàng rất quan trọng kể trên. Về cơ khí, phải xác định sớm quy hoạch chế tạo và sửa chữa cơ khí. Đối với công nghiệp địa phương, phải tích cực đưa công nghiệp địa phương đi vào quy hoạch toàn diện. Đồng thời, chúng ta phải cố gắng tăng cường chỉ đạo nhằm thực hiện vượt mức toàn bộ hệ thống chỉ tiêu kế hoạch sản xuất công nghiệp, công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, công nghiệp Trung ương, công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp.

Chúng ta phải rất coi trọng các công trình xây dựng cơ bản, ra sức đẩy mạnh việc xây và lắp ở những công trình đặc biệt quan trọng như gang thép Thái Nguyên, phân đạm Hà Bắc, thủy điện Thác Bà, các công trình về than, về điện, xưởng đóng tàu Hải Phòng, v.v.. Trong công tác xây dựng cơ bản, phải kiên quyết tập trung lực lượng hoàn thành tốt các công trình trọng điểm và các công trình sắp đến hạn đi vào sản xuất. Trên từng công trình, phải tập trung lực lượng vào những hạng mục chủ yếu.

Trong kế hoạch nhà nước năm 1964, một khâu quan trọng cần đặc biệt chú ý là đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Từ đầu năm đến nay, chúng ta đã có những cố gắng, phải tiếp tục cố gắng, mạnh mẽ và thiết thực hơn nữa, nhằm hoàn thành tốt kế hoạch xuất nhập khẩu, đặc biệt coi trọng đẩy khối lượng, chất lượng và giá trị hàng xuất khẩu tăng lên nhanh chóng hơn nữa.

Năm 1964 chúng ta quan tâm nhiều đến các mặt lưu thông phân phối, dần dần khắc phục những chỗ mất cân đối về các mặt này (nhất là trong sản xuất và tiêu dùng). Chúng ta đã và đương vận động với những kết quả tốt bước đầu những người không sản xuất hoặc không sản xuất nông nghiệp ở các thành thị trở về nông thôn hoặc đi trung du, miền núi tham gia sản xuất nông nghiệp hoặc làm những ngành, những nghề thích hợp, vừa góp phần phát triển kinh tế quốc dân, vừa có điều kiện cải thiện đời sống.

Để hoàn thành tốt kế hoạch nhà nước năm 1964, chúng ta phải đẩy mạnh mấy cuộc vận động cách mạng lớn, kết hợp chặt chẽ với phong trào thi đua đang có khí thế mới của quần chúng. Phải mở rộng phong trào thi đua "năng suất cao, hoa mầu nhiều, chăn nuôi giỏi, cây công nghiệp tăng" trong nông nghiệp, phong trào thi đua "năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều" trong công nghiệp, và các phong trào thi đua trong các ngành hoạt động khác, với tinh thần "mỗi người làm việc bằng hai" để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đền đáp cho đồng bào ruột thịt miền Nam.

Tóm lại chúng ta phải phấn đấu với ý thức và quyết tâm cao nhất để thực hiện tốt kế hoạch nhà nước năm 1964, chuẩn bị tiến lên thực hiện tốt hơn nữa kế hoạch nhà nước năm 1965, hoàn thành tốt kế hoạch năm năm lần thứ nhất, tạo cơ sở thuận lợi cho kế hoạch năm năm lần thứ hai.

Chính theo quan điểm thực hiện toàn diện kế hoạch Nhà nước mà chúng ta phải nhìn tình hình các địa phương, các ngành, từ cơ sở lên Trung ương. Đó cũng là quan điểm tăng cường sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của những cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương nhằm thực hiện đường lối của Đảng: từng bước thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, từng bước xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Đối với miền Bắc nước ta, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp cách mạng vô cùng quan trọng, đồng thời vô cùng gian khổ, đòi hỏi cả một thời gian lịch sử. Cho nên nhân dân ta phải có ý thức xuất phát từ lợi ích cơ bản và lâu dài của sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa để nhận định về tình hình và nhiệm vụ từng địa phương, từng ngành, tình hình và nhiệm vụ chung từng lúc.

Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa thực hiện ý chí của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dựa vào Nhà nước của mình, Nhà nước dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, quyết hoàn thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nó thực hiện ý chí lấy tự lực cánh sinh là chính, xây dựng một nền kinh tế độc lập. Nó là mục tiêu phấn đấu trước mắt và lâu dài và nguồn phấn khởi của mọi tầng lớp nhân dân ta, bởi vì nó sẽ làm nước ta giầu, dân ta mạnh. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa sẽ tăng cường lực lượng của miền Bắc về mọi mặt, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh để hoà bình thống nhất nước nhà, tiến lên xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh.

Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đòi hỏi sự phát triển cân đối và nhịp nhàng tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân với một tốc độ nhanh theo đường lối của Đảng. Sự phát triển cân đối và nhịp nhàng này phải được thể hiện một cách vững chắc trong những phương hướng và nhiệm vụ, trong những chỉ tiêu của kế hoạch năm năm và của kế hoạch hàng năm. Cho nên công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đòi hỏi sự phấn đấu liên tục và bền bỉ của mọi địa phương, mọi ngành, mọi người để thực hiện cho bằng được những chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước theo tinh thần của Lênin: kế hoạch nhà nước là cương lĩnh thứ hai của Đảng.

Đồng thời với việc từng bước thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, từng bước xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải ra sức trong thời gian tới hoàn thành việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Một mặt, chúng ta phải hoàn thành, củng cố và hoàn thiện tổ chức hợp tác xã của người nông dân và của những người sản xuất nhỏ khác, đó là kinh tế tập thể dựa trên sở hữu tập thể, một mặt, chúng ta phải củng cố và tăng cường kinh tế quốc doanh dựa trên sở hữu toàn dân, lực lượng lãnh đạo nền kinh tế quốc dân. Quan hệ khăng khít giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể của nông dân xã viên hợp tác xã là sự thể hiện về mặt kinh tế của liên minh công nông, nền tảng của Nhà nước ta và của Mặt trận dân tộc thống nhất. Đối với thợ thủ công, tiểu thương, người đánh cá và làm muối, người làm vận tải, người thợ rừng, v.v., phải tiếp tục và hoàn thành một cách vững chắc công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trong khi nắm vững nhiệm vụ trung tâm là xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải rất coi trọng việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những người sản xuất nhỏ này, bởi vì rõ ràng là sản xuất nhỏ cá thể hàng ngày, hàng giờ sản sinh ra giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản một cách tự phát với quy mô rộng lớn và tốc độ nhanh.

Đi đôi với những công việc cực kỳ trọng yếu kể trên, chúng ta phải chăm lo mặt trận tư tưởng, chăm lo giáo dục chính trị, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, nâng cao ý chí đấu tranh cách mạng cho mọi tầng lớp nhân dân ta. Chúng ta phải làm công tác tư tưởng một cách thiết thực và có hiệu quả nhất ngay trong đời sống, trong lao động sản xuất, trong cuộc đấu tranh trên đồng ruộng, trong hợp tác xã, trên công trường, trong xí nghiệp, trong trường học, trong cơ quan, v.v., cuộc đấu tranh chống mọi lệch lạc như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của Trung ương Đảng đã vạch rõ. Ở đây, phải nhận rõ rằng chúng ta phải kiên quyết chống chủ nghĩa xét lại hiện đại để bảo vệ sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, bảo vệ đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Nhân dân cả nước ta đương tiếp tục sự nghiệp cách mạng to lớn của mình, ở miền Bắc, ở miền Nam. Ở Đông Nam Á, khắp nơi trên thế giới, cuộc cách mạng đương sôi nổi. Chúng ta phải rèn luyện cho người dân nước ta ý chí phấn đấu ngoan cường và bền bỉ, thắng không kiêu, bại không nản, một lòng cống hiến mọi sức lực của mình cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân ta, của cả nước ta, nguyện trở nên người chiến sĩ trung thành của sự nghiệp cao cả ấy.

Như vậy là tăng cường lực lượng miền Bắc về kinh tế và chính trị.

Kết hợp chặt chẽ với công cuộc phát triển kinh tế, chúng ta phải không ngừng ra sức tăng cường lực lượng quốc phòng của miền Bắc, giữ vững trật tự, trị an, luôn luôn nâng cao cảnh giác, tỉnh táo đề phòng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động khiêu khích, phá hoại của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng.

PHẦN III

NHỮNG GỢI Ý VỀ TỔNG KẾT TÌNH HÌNH,
TỔNG KẾT CÔNG TÁC

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Hiện nay cho đến năm 1965, chúng ta cần làm tốt hai việc có ý nghĩa rất quan trọng về nhiều mặt đồng thời có liên quan với nhau: một là thực hiện tốt những kế hoạch nhà nước năm 1964 và năm 1965, hoàn thành tốt kế hoạch năm năm lần thứ nhất; hai là tổng kết toàn bộ công tác của chúng ta từ hòa bình lập lại, chủ yếu tổng kết việc thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất, để từ đó nhìn thấy một cách sáng tỏ và vững chắc những vấn đề của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong thời gian tới, chủ yếu là những vấn đề của kế hoạch năm năm lần thứ hai.

Phần trên của bản báo cáo đã trình bày về việc thứ nhất. Sau đây xin đề ra một số điểm về việc thứ hai:

1. Chúng ta phải tổng kết để đối chiếu việc làm và kết quả việc làm với đường lối của Đảng; với Nghị quyết của Đại hội III, và những nghị quyết của các Hội nghị Trung ương, với những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch năm năm lần thứ nhất. Chúng ta phải nhìn thấy một cách nổi bật những tiến bộ và thành tích đã đạt được trong mọi lĩnh vực kinh tế và văn hoá, nông nghiệp và công nghiệp, chính trị và xã hội, trong việc giải quyết những vấn đề bức thiết của quần chúng nhân dân: ăn, mặc, ở, học tập, trong việc tăng cường lực lượng của miền Bắc, phát huy tác dụng của miền Bắc đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước.

Tổng kết để biểu dương những thắng lợi đã giành được trải qua đấu tranh cách mạng gian khổ và bền bỉ, thấy rõ thắng lợi, thấy đó là kết quả của đường lối đúng đắn của Đảng, cộng với sức lao động sáng tạo vĩ đại của nhân dân Việt Nam ta, người anh hùng của sự nghiệp cách mạng của chúng ta.

Đồng thời, tổng kết phải giúp chúng ta giải đáp những câu hỏi cực kỳ có ý nghĩa như: chúng ta có thể làm được nhiều hơn không? sản xuất nông nghiệp và công nghiệp có thể phát triển nhanh hơn không? đời sống của nhân dân có thể cải thiện khá hơn không ? v.v.. Những câu hỏi rất thiết thực như vậy ở Trung ương và ở các địa phương, ở các ngành và các cấp đòi hỏi chúng ta phải nhìn thấy một cách thấm thía những chỗ non yếu và kém cỏi của chúng ta, nhất là những non yếu và kém cỏi về tổ chức và chỉ đạo thực hiện đường lối của Đảng và hệ thống chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước, những non yếu và kém cỏi về quản lý có nền nếp và chặt chẽ nền kinh tế quốc dân, quản lý khu vực kinh tế quốc doanh, từ trên xuống dưới.

Hiện nay, phong trào thi đua kết hợp với cuộc vận động ba xây ba chống phải giúp chúng ta rất nhiều trong việc phát huy những thắng lợi, phát hiện những chỗ yếu, chỗ kém vừa nói trên đây và đề ra những biện pháp có hiệu quả để tăng cường năng lực quản lý, năng lực tổ chức thực hiện của chúng ta.

2. Ôn cũ để biết mới. Chúng ta tổng kết việc đã làm để nhìn thấy cái mới trong kinh nghiệm của chúng ta, trong hoạt động của chúng ta, và đây là một điều quan trọng bậc nhất của việc tổng kết, bởi vì những cái mới trong thực tiễn cách mạng có thể là những mầm non đầy nhựa sống, đương vươn lên và ngày mai, ngày kia, sẽ trở nên hoa quả; đó là những tia sáng giúp chúng ta suy nghĩ, nghiên cứu về những vấn đề của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong thời gian tới, chủ yếu là những vấn đề của kế hoạch năm năm lần thứ hai.

Mười năm qua, nhất là những năm gần đây, đánh dấu những bước đầu của nhân dân ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống mới. Những cố gắng của chúng ta về mọi mặt, những thành công và những chỗ yếu, chỗ kém của chúng ta là cái kho kinh nghiệm phong phú, từ đó chúng ta có thể thấy được cái mới trong cách nhận thức đường lối của Đảng, trong việc thi hành những chính sách của Đảng và Nhà nước. Hiện nay chúng ta đứng trước không biết bao nhiêu cái mới như vậy trong mọi lĩnh vực hoạt động, quý báu nhất là trong sản xuất nông nghiệp và sản xuất công nghiệp. Nhưng phải đi đến cơ sở: hợp tác xã và xí nghiệp, đi vào phong trào thi đua yêu nước, đi vào lao động sáng tạo của quần chúng, thì mới thấy cái mới đó và ý nghĩa của nó, giá trị của nó. Cuộc sống vô cùng phong phú ở cơ sở, trên mặt trận sản xuất, cuộc đấu tranh cách mạng hàng ngày của quần chúng là nguồn ánh sáng và nguồn sức mạnh có thể giúp chúng ta rất nhiều trong việc giải quyết những vấn đề trước mặt của chúng ta.

Cuộc sống đó là một sự đổi mới không ngừng, bởi vì chúng ta đương làm một cuộc cách mạng triệt để nhất trong lịch sử loài người, thật là từ không làm nên có: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, đời sống, nhất nhất đều là mới và luôn luôn đổi mới. Cái mới đó là kết quả của sức sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, của cuộc đấu tranh cách mạng và lao động sản xuất của quần chúng nhân dân. Trong cuộc sống hiện nay ở miền Bắc những thành tựu đã đạt được là to lớn và rất đáng quý, nhưng đáng quý hơn nữa là những cái mới đang xuất hiện và sẽ trưởng thành.

Tóm lại, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đòi hỏi chúng ta phải sáng tạo từ cái lớn đến cái nhỏ, không sót một lĩnh vực nào. Sáng tạo ở đây không phải là giấy trắng vẽ voi, càng không phải là vẽ kiểu nhà mấy nghìn bạc cho xã viên hợp tác xã nông thôn. Sáng tạo ở đây là tổng kết công tác, tổng kết kinh nghiệm để thấy cái mới đương nảy nở khắp nơi ở miền Bắc, đánh giá cái mới, nhìn thấy đầy đủ ý nghĩa về các mặt của cái mới, để dựa vào đó mà giải quyết các vấn đề sắp tới của chúng ta. Chúng ta đã dày công gieo những giống tốt trước đây năm bảy năm, ngày nay biết bao mầm non đương nảy nở. Được vun xới tốt, ngày mai, ngày kia đó là những bông hoa của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

3. Lâu đài xã hội chủ nghĩa của nước ta, chúng ta đương xây dựng nó với sức lao động sáng tạo vĩ đại của nhân dân ta, đồng thời chúng ta phải biết xây dựng nó trên nền tảng vững chắc của thiên nhiên nước ta.

Xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế: nông nghiệp và công nghiệp, phát triển văn hoá, khoa học và kỹ thuật, giải quyết những vấn đề của đời sống hàng ngày của nhân dân: ăn, ở, mặc, bảo vệ sức khoẻ, tất cả những việc đó đều đòi hỏi một cách nghiêm chỉnh chúng ta phải hiểu biết thiên nhiên nước ta, hiểu biết càng toàn diện, càng chính xác càng tốt.

Mấy năm qua, chúng ta đã có những cố gắng đáng kể trong việc điều tra, nghiên cứu đất nước ta, chú trọng những mặt quan trọng nhất, cấp bách nhất. Nhưng việc điều tra, nghiên cứu này và kết quả của nó chưa được coi trọng đúng mức, thậm chí có người chưa thấy tầm quan trọng của nó.

Chúng ta không cầu toàn, không đòi hỏi quá sức trong điều kiện của chúng ta hiện nay. Nhưng phải có ý thức và quyết tâm, đồng thời có kế hoạch và tổ chức để làm những mặt, những bước điều tra nghiên cứu thật cần thiết và cấp bách về đất đai và địa chất, về khí tượng và sông ngòi, về thực vật và động vật, về rừng và biển, v.v.. Thoát ly điều kiện thiên nhiên mà xây dựng, xây những công trình lớn, những công trình "bách niên chi kế", hoặc làm một máng nước, định phương hướng sản xuất cho hợp tác xã, dựng một cái nhà ở, v.v., đều là phiêu lưu và có thể gặp nguy hiểm. Cho nên chúng ta, từ những cơ quan có trách nhiệm cho đến mọi ngành, mọi cấp, mọi người đều phải có ý thức sâu sắc về sự cần thiết hiểu biết thiên nhiên trong mọi công việc xây dựng và sản xuất của chúng ta.

Ở đây cũng như ở các mặt khác, chính người trực tiếp lao động sản xuất là người dễ thấy rõ cái chân lý: hiểu biết thiên nhiên để chinh phục thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên bằng khoa học và kỹ thuật và bằng lao động sáng tạo của con người. Đó là kinh nghiệm thấm thía và sinh động của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp trong việc làm thủy lợi, trong việc cải tạo đất trồng trọt, trong việc cải tạo giống cây trồng và giống gia súc, trong việc trồng cây gây rừng, v.v.. Trước đây, người Pháp quả quyết rằng sống ở đất này (đồng bằng Bắc bộ) thì phải đói, đói kinh niên, đói muôn kiếp. Họ còn lý luận rằng: lúc trên những mảnh ruộng rộng bằng bàn tay, người nông dân không đủ sống, thì lấy gì mà nuôi gia súc, lấy gì mà thâm canh và đa canh? Ngày nay người nông dân miền Bắc nước ta, bằng việc làm của mình, đã hoàn toàn đánh bại lý thuyết phản động và tội ác của bọn thực dân. Ngày nay cũng trên đất đai đó ở miền Bắc, với số người gần gấp đôi thời trước, sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt hợp tác xã và đời sống ở nông thôn đương phơi phới vươn lên!

Người nông dân hợp tác hóa đương dạy chúng ta một điều cần nhấn mạnh ở đây: làm chủ đất nước là làm chủ thiên nhiên để chinh phục thiên nhiên, hạn chế mặt nghịch, phát huy mặt thuận, bắt thiên nhiên phục vụ sản xuất, phục vụ đời sống. Và để chinh phục thiên nhiên thì phải dùng khoa học và kỹ thuật, cho nên ở nhiều hợp tác xã đã tổ chức những tổ khoa học kỹ thuật, và những tổ này dần dần biết làm việc một cách thiết thực và có hiệu quả!

Làm chủ thiên nhiên còn có nghĩa là hiểu biết thiên nhiên để quản lý thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên: bảo vệ đất đai, rừng núi, sông ngòi, bảo vệ thực vật và động vật, v.v..

4. Nhìn chung toàn bộ công việc của chúng ta là để đánh giá một cách thiết thực hiệu quả của việc làm. Chúng ta hãy xem việc làm của chúng ta về ba mặt sau đây:

a) Tận dụng sức lao động của nhân dân, phân bổ sức lao động ấy một cách cân đối và hợp lý giữa các ngành và các vùng của nền kinh tế quốc dân.

b) Không ngừng nâng cao năng suất lao động của xã hội, coi đó là khâu chủ yếu để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.

c) Tổ chức việc phân phối một cách hợp lý nhất nhằm không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, đồng thời tăng tích luỹ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tận dụng sức lao động của nhân dân, phân bổ sức lao động ấy một cách cân đối và hợp lý giữa các ngành và các vùng của nền kinh tế quốc dân

Đây là một vấn đề rất trọng yếu, có ý nghĩa thiết thực rất lớn mà chúng ta chưa chú trọng đúng mức và chưa giải quyết tốt.

Hiện nay, chúng ta đứng trước tình trạng khá trái ngược sau đây: nói chung, và rõ rệt nhất là ở các thành phố, vùng đồng bằng đông dân, chúng ta chưa dùng hết sức lao động của nhân dân, trong lúc ấy ở nhiều nơi khác, nhất là ở các vùng trung du và miền núi, sức lao động rất thiếu. Mỗi năm đội ngũ thanh niên đến tuổi lao động, một phần lớn sau khi học lớp 7, hoặc lớp 10 của trường phổ thông, một số học xong các trường chuyên nghiệp, hiện nay đương gặp ít nhiều khó khăn trong việc được sắp xếp công tác một cách thỏa đáng. Thậm chí có tình trạng quái gở là trong một ngành, trong một bộ có nơi thừa người, trong lúc ở nơi khác, sức lao động thiếu thốn nghiêm trọng. Và cũng vì tình trạng khó khăn trong việc sắp xếp công việc, cho nên ở xí nghiệp, người ta lo rằng: nếu thi đua tăng năng suất tốt có thể giảm người, thì sẽ đưa người thừa đi đâu!

Nền kinh tế quốc dân và đời sống nhân dân nước ta hiện nay đòi hỏi một cách bức thiết hai điều: một là nơi nào, việc gì có thể làm để tăng thêm của cải vật chất cho xã hội đều phải làm; hai là phải động viên và tận dụng mọi sức lao động ở nông thôn, ở thành thị, khắp mọi nơi để phát triển sản xuất. Rõ ràng là ở miền Bắc nước ta hai điều đó gắn chặt với nhau. Chúng ta có những nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú cần khai thác, và để khai thác, chúng ta có nguồn sức lao động dồi dào và càng dồi dào trong thời gian tới.

Hiện nay, chúng ta đã thấy khá rõ những phương hướng giải quyết vấn đề như sau:

Ở nông thôn , trong sản xuất nông nghiệp, nhất là ở đồng bằng, các hợp tác xã dần dần nhìn thấy rõ rằng phải mạnh mẽ đầu tư thêm lao động vào sản xuất nông nghiệp, nghĩa là phải thâm canh, thâm canh để tăng năng suất, thâm canh ở các khâu: nước, phân, cần, giống. Lấy công làm lãi, đó là khẩu hiệu có ý nghĩa rất thiết thực của chúng ta hiện nay. Vụ đông - xuân vừa rồi, ở nhiều nơi năng suất lúa trên một héc ta lên đến 4 tấn, thậm chí 5 tấn, năng suất ngô trên 5 tấn. Nhờ đâu? Nhờ thâm canh. Trong điều kiện hiện nay, làm tốt thâm canh là có từ 4 đến 5 tấn thóc trên một héc ta ruộng lúa hai vụ. Nếu khắp mọi nơi đều làm được như vậy: thâm canh đối với lúa cũng như đối với hoa màu, thì vấn đề lương thực sẽ được giải quyết một cách vững chắc.

Ở trung du và miền núi , hơn bao giờ hết chúng ta cần thêm sức lao động, thêm hàng triệu người để khai thác những nguồn lợi thiên nhiên rất phong phú ở đó: nguồn lợi về rừng, nguồn lợi về sản xuất nông nghiệp: hoa màu và cây công nghiệp, nguồn lợi về chăn nuôi, và để khai thác những nguồn lợi thật là phong phú đó, thì phải làm nhiều về giao thông vận tải, về thủy lợi, về công nghiệp địa phương sản xuất tư liệu sản xuất cho các ngành, nghề kể trên, và hàng tiêu dùng cho nhân dân. Thêm sức lao động, trung du và miền núi sẽ trở nên những vùng giàu đẹp hạng nhất của nước ta. Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng trung du và miền núi là những nơi đã diễn ra những trang sử đấu tranh chống đế quốc rất oanh liệt, đó là hậu phương mạnh mẽ của chúng ta, cho nên chúng ta cần phải ra sức tăng cường hậu phương đó và đó là ý chí của nhân dân nước ta và nguyện vọng của đồng bào các dân tộc miền núi.

Ở miền biển , khả năng về đánh cá biển, về làm muối, đi đôi với bước đầu khai thác các loại hải sản rõ ràng là rất lớn, thế mà việc làm của chúng ta mấy năm nay vẫn dẫm chân tại chỗ. Ngoài ra phải thấy rõ rằng các loại đất ven biển có thể trồng cói, trồng dâu, đay, gai, và đó là nguồn lợi lớn mà chúng ta chưa nhìn thấy hết khả năng và tác dụng. Nước ta có mấy ngàn cây số bờ biển. Nhân dân ta phải dần dần hiểu biết về biển của nước ta và thành thạo về mọi ngành nghề khai thác mọi nguồn lợi ở biển và ven biển, đồng thời biết làm chủ bờ biển và vùng biển của chúng ta. Cho nên ở đây cũng phải tăng thêm sức lao động.

Về công nghiệp, phải nhấn mạnh sự cần thiết rất cơ bản và những khả năng hiện thực để phát triển công nghiệp, từng bước thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, ra sức thực hiện vượt mức những chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước về sản xuất công nghiệp: công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương, sản xuất tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng. Thử hỏi để phục vụ nông nghiệp về thủy lợi, phân bón, công cụ cải tiến, thuốc trừ sâu, chế biến các loại nông sản, công nghiệp ở Trung ương và địa phương đã làm tròn nghĩa vụ của mình chưa? Thử hỏi để trang bị kỹ thuật, trang bị dụng cụ cải tiến cho các ngành của nền kinh tế quốc dân ngoài nông nghiệp, bao gồm công nghiệp, giao thông vận tải, kiến trúc, nghề rừng, nghề cá và muối, thương nghiệp và các ngành hoạt động văn hoá, công nghiệp Trung ương và địa phương đã làm gì và phải làm gì? Còn về các loại hàng tiêu dùng cần thiết cho đời sống vật chất và văn hoá, biết bao nhiêu việc có thể làm được, nhưng vẫn chưa làm. Cho nên nói chung các ngành công nghiệp (công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp Trung ương, công nghiệp địa phương) phải lớn lên không ngừng và phải lớn lên nhanh chóng hơn các ngành khác của kinh tế quốc dân, và phải lớn lên như vậy về các mặt: về quy mô, về tốc độ, về kỹ thuật, về quản lý, v.v., thì mới phục vụ đắc lực các ngành khác. Cho nên, công nghiệp phải thu hút sức lao động ngày càng nhiều hơn, và đó là một quy luật tất yếu của con đường phát triển kinh tế ở miền Bắc nước ta, con đường tiến lên công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.

Trong quá trình tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, từng thời gian một, chúng ta phải biết phân bố một cách cân đối sức lao động giữa các ngành và các vùng của nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng: "xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại".

Tận dụng sức lao động, cân đối một cách hợp lý sức lao động theo yêu cầu của các ngành và các vùng là một chỗ yếu khá nghiêm trọng hiện nay trong công tác kế hoạch hóa của chúng ta, và cơ quan chuyên trách về lao động và khá nhiều ngành có liên quan hình như chưa thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề này.

Có sức lao động, thì phải dùng sức lao động đó, và như vậy thì phải giải quyết những vấn đề về công cụ lao động và đối tượng lao động, và những vấn đề về đời sống của người lao động, như vấn đề lương thực.

Đó là những vấn đề rất thiết thực mà chúng ta phải để ý đầy đủ.

Không ngừng nâng cao năng suất lao động của xã hội, coi đó là khâu chủ yếu để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, cải thiện đời sống

Đây là cái chìa khóa, phép quý giúp chúng ta làm nên sự nghiệp. Nếu mọi người chúng ta đều có ý thức đầy đủ về phép quý này, và hết sức hết lòng tìm mọi biện pháp để tăng năng suất lao động, thì chúng ta có thể làm được nhiều việc kỳ lạ, vì hiện nay năng suất lao động của chúng ta còn rất thấp, 90% lao động sản xuất là thủ công! Từ đó mà tiến lên, tăng năng suất lao động lên nhanh là hoàn toàn có thể làm được. Ví dụ trên các công trường thủy lợi, như công trường Neo của tỉnh Hưng Yên, chỉ trong vòng một vài tháng, năng suất lao động của nhiều đội thủy lợi (của hợp tác xã) đã không ngừng tăng lên gấp đôi, gấp ba… gấp năm… gấp mười lần. Bí quyết ở đâu? Ở cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật, tổ chức lao động một cách hợp lý hơn. Chỉ mới cải tiến giản đơn (như dùng xe đẩy, không gánh), chưa có gì lạ lùng, cao xa, thế mà năng suất lao động đã tăng lên vùn vụt! Phép quý này còn có lợi về nhiều mặt khác: công việc làm đỡ vất vả; ngày công có thể rút bớt rất nhiều, làm mau xong, được về trước thời hạn, lại còn dôi gạo mang về!

Để tăng năng suất lao động, điều mấu chốt là cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật, dần dần tiến lên nửa cơ giới và cơ giới. Cho nên chúng ta phải nhấn mạnh sự cần thiết phải trang bị kỹ thuật ngày càng tiên tiến cho các ngành kinh tế quốc dân, trước hết cho những ngành dùng nhiều lao động thủ công, nhất là trong nông nghiệp, rồi đến giao thông vận tải, lâm nghiệp, nghề làm cá, làm muối, v.v..

Trang bị kỹ thuật có nghĩa là cung cấp những thiết bị, dụng cụ và những vật tư kỹ thuật cần thiết, hợp với trình độ và tập quán của người dùng, chất lượng tốt và giá hạ.

Cải tiến công cụ lao động, cải tiến kỹ thuật sản xuất nhằm tăng năng suất lao động của xã hội, đó là mục tiêu phấn đấu của cuộc cách mạng kỹ thuật đương diễn ra ở miền Bắc nước ta. Không chỉ những người lao động sản xuất, những người chiến sĩ thi đua phải ngày đêm suy nghĩ về việc này, mà cơ quan quản lý những ngành kinh tế quốc dân, cơ quan quản lý khoa học và kỹ thuật, đội ngũ cán bộ kỹ thuật ở các ngành, trường học, từ trường đại học đến trường phổ thông đều phải quan tâm góp phần cống hiến của mình vào việc này. Chúng ta không những phải chăm lo cải tiến kỹ thuật cho các ngành kinh tế còn dùng nhiều lao động thủ công, mà còn phải chăm lo cải tiến kỹ thuật cho những ngành đã ít nhiều cơ giới và cho cả những ngành đương dùng kỹ thuật tiên tiến.

Cách mạng kỹ thuật ở nước ta là một vấn đề có ý nghĩa rất to lớn và sâu sắc, mọi người chúng ta phải quan tâm đầy đủ hơn nữa, phải luôn luôn suy nghĩ, thảo luận về vấn đề đó, cố gắng tìm những biện pháp thích hợp nhất để giải quyết từng bước, từng phần vấn đề cực kỳ quan trọng đó.

Chúng ta phải làm cuộc vận động cải tiến kỹ thuật, cuộc cách mạng kỹ thuật này từ dưới lên và từ trên xuống. Người lãnh đạo kinh tế phải rất nhạy bén, và như vậy người đó không những phải có hiểu biết sâu sắc về kinh tế, mà còn phải dần dần hiểu về kỹ thuật, biết những vấn đề kỹ thuật cần giải quyết, nhất là những đồng chí lãnh đạo các ngành công nghiệp, nắm trong tay những nguồn chính của việc cải tiến kỹ thuật: cơ khí, điện, vật tư kỹ thuật như than, v.v..

Mấy năm gần đây, phong trào thi đua yêu nước khắp nơi đã đưa đến những thành tựu có giá trị về cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật trong lao động sản xuất. Nếu kịp thời tổng kết kinh nghiệm và phổ biến rộng rãi những kinh nghiệm thành thục đã được tổng kết, thì năng suất lao động của xã hội ở miền Bắc đã được nâng lên nhanh hơn. Nhưng rất đáng tiếc, đáng chê trách là những cơ quan có trách nhiệm từ Trung ương đến địa phương không quan tâm đầy đủ, không có ý thức nhạy bén phát hiện những sáng kiến có giá trị, tổng kết và phổ biến kịp thời và rộng khắp. Những người phụ trách làm ăn như vậy là những người phụ trách không xứng đáng, vô trách nhiệm đối với công lao của quần chúng cũng như đối với lợi ích của nền kinh tế quốc dân.

Một mặt chúng ta động viên mọi lực lượng để cải tiến công cụ và cải tiến kỹ thuật trong lao động sản xuất, một mặt chúng ta kịp thời và rộng khắp phổ biến mọi thành tựu, mọi sáng kiến có giá trị, và chỉ có như vậy chúng ta mới đẩy mạnh phong trào thi đua không ngừng vươn lên phía trước, từng bước, từng phần, từ việc lớn đến việc nhỏ, từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng lên miền núi, không ngừng tăng năng suất lao động của xã hội; đó là chìa khoá, là phép quý đẩy sự nghiệp xã hội chủ nghĩa của chúng ta tiến tới với tốc độ nhanh.

Tổ chức việc phân phối một cách hợp lý nhất nhằm không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân đồng thời tăng tích luỹ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội

Chúng ta càng làm tốt hai việc trên: động viên mọi sức lao động vào sản xuất và không ngừng tăng năng suất lao động, thì khối sản phẩm của xã hội, bao gồm tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, càng lớn lên nhanh chóng, từ đó chúng ta càng có khả năng làm tốt hai việc sau đây: không ngừng cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, đồng thời tăng tích luỹ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Hãy nói trước về đời sống. Đời sống của đồng bào ta ở miền Bắc, nhất là ở nông thôn, có sự đổi mới rõ rệt. Đó là điều quý báu đáng mừng. Nhưng chúng ta không tự mãn về sự đổi mới này, chúng ta tự hỏi: có thể làm được hơn không? Chúng ta đã quản lý đời sống của đồng bào ta, ở nông thôn, ở thành thị, ở đồng bằng, ở miền núi như thế nào? Đã thực sự quan tâm để kịp thời có biện pháp thích đáng nhằm cải thiện từng bước, từng phần đời sống hay chưa? Thật là chưa đủ! Ví dụ, việc làm nhà mới, nhà gỗ, nhà ngói ở nông thôn, đây là đổi mới sáng tỏ nhất ở nông thôn hợp tác hóa, việc này do đồng bào làm với sự giúp đỡ chừng nào của cơ quan phụ trách tỉnh, còn các cơ quan có trách nhiệm ở Trung ương thì dần dần mới nhìn thấy tình hình. Cần đặt một loạt câu hỏi như vậy cho cơ quan có trách nhiệm. Và đã biết đặt câu hỏi thì có khả năng trả lời câu hỏi một cách thiết thực.

Về việc sản xuất và cung cấp các loại thức ăn cho đồng bào ở thành thị và khu công nghiệp, chúng ta cần phải đặc biệt coi trọng. Phải cố gắng hơn nữa trong việc sản xuất và trong việc cung cấp các loại thức ăn với những mức thỏa đáng về khối lượng, phẩm chất và giá bán, thì mới thỏa mãn một bước yêu cầu chính đáng của đồng bào. Đối với những người lao động chuyên làm những công việc rất cần thiết và rất khó nhọc như người thợ mỏ, người thợ lò cao, người làm trong ngành hoá chất, người lái máy xúc, người xây những công trình trên cao hoặc dưới nước, người đánh cá biển, người thợ rừng, v.v., chúng ta phải có sự ưu đãi đúng mức, và như vậy mới công bằng hợp lý, như vậy mới thật đúng với quy luật phân phối của chủ nghĩa xã hội: làm nhiều hưởng nhiều.

Phải cải thiện đời sống trước mắt và phải tích luỹ; và tích luỹ cũng chỉ để cải thiện đời sống ngày mai, ngày kia. Xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, xây dựng công nghiệp nặng, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đó là sự nghiệp to lớn, bền bỉ và lâu dài, nhưng Đảng ta và nhân dân ta dựa vào chính quyền dân chủ nhân dân, dựa vào sức lực vô cùng vô tận của mình, quyết tâm và nhất định sẽ thành công.

Phải không ngừng tăng tích luỹ đi đôi với không ngừng cải thiện đời sống dần dần từng bước, điều đó không chỉ rất trọng yếu đối với kinh tế quốc doanh, mà cũng rất trọng yếu đối với kinh tế tập thể. Hợp tác xã chúng ta đã bắt đầu nhìn thấy điều đó và đương phấn đấu anh dũng để tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật của hợp tác xã, tăng cường bằng tăng đầu tư vốn, tăng cường bằng tăng đầu tư lao động.

Đi đôi với việc tăng tích lũy, phải nghiên cứu vấn đề tăng hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư vào các công trình xây dựng cơ bản. Từ trước đến nay chúng ta dùng vốn đầu tư này chưa phải chín chắn lắm; còn tình trạng lãng phí trong xây dựng cơ bản thì rất phổ biến và nghiêm trọng, kết quả là các công trình của chúng ta giá thành rất đắt. Hiệu quả vốn đầu tư, đó là một điểm rất lớn, rất có ý nghĩa thiết thực, mà các ngành, các cấp phải tổng kết, từ đó rút ra những kết luận đích đáng về việc dùng vốn tích luỹ để xây dựng những công trình có ích lợi kinh tế nhiều nhất, đồng thời cố gắng hết sức tiết kiệm trong mọi khâu của xây dựng cơ bản, thực hiện khẩu hiệu: nhiều, nhanh, tốt và rẻ.

Trong việc phân phối sản phẩm xã hội, chúng ta phải thấy và giải thích cho nhân dân ta thấy sự cần thiết phải giành phần ngày càng lớn cho xuất khẩu. Đó cũng là vốn tích luỹ để đổi lấy những máy móc, thiết bị, vật tư (nguyên liệu) cần thiết cho nông nghiệp, công nghiệp và các ngành khác, cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Cho nên, mọi người chúng ta phải nhận thức sâu sắc hơn nữa về tầm quan trọng to lớn của xuất khẩu để góp phần tích cực nhất của mình vào việc tăng khối lượng, chất lượng và giá trị hàng xuất khẩu. Chúng ta hoàn toàn có khả năng làm việc đó.

Tóm lại, nhân dân ta ở miền Bắc phải lo lắng và ra sức làm tốt hai điều: một là cải thiện đời sống ngày nay, hai là xây dựng đời sống ngày mai, ngày kia cho chúng ta và cho thế hệ mai sau. Làm tốt và lo lắng ở đây bao trùm biết bao nhiêu là công việc rất phức tạp và gian khổ, đòi hỏi sáng suốt và dũng cảm, ý chí tự lập tự cường rất mạnh mẽ. Tự lực cánh sinh có nghĩa như vậy, và đó là một nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, của cách mạng, cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tự lực cánh sinh không một chút nào đối chọi với đoàn kết quốc tế, với tinh thần quốc tế vô sản. Càng tự lực cánh sinh tốt, chúng ta càng có sức lực và khả năng để mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ và sử dụng tốt sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em về các mặt kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật. Tự lực cánh sinh có nghĩa là không ỷ lại, chứ không phải là không cần đến sự hợp tác tương trợ giữa các nước anh em. Nhân dân Việt Nam ta luôn luôn ghi nhớ và biết ơn sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ theo tinh thần quốc tế vô sản cao cả của nhân dân Liên Xô, nhân dân Trung Quốc và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác đối với sự nghiệp cách mạng của chúng ta.

Xây dựng đời sống mới ở nước ta là một sự nghiệp rất phức tạp và lâu dài mà chúng ta chỉ có thể làm từng bước, từng phần trong nhiều năm tới. Nhưng ngay bây giờ, chúng ta phải cố gắng tìm thấy cách làm thích hợp nhất với chúng ta, thích hợp với hoàn cảnh đất nước chúng ta, thích hợp với truyền thống của dân tộc Việt Nam ta.

Chúng ta còn nghèo, kinh tế ta chưa phát triển mấy, lại phải gánh vác nhiều. Chúng ta phải cố gắng rất nhiều, suy nghĩ, thảo luận, xuất phát từ thiên nhiên và thực tiễn của chúng ta, tham khảo kinh nghiệm các nước xã hội chủ nghĩa và các nước khác, để nhìn thấy cách làm vững chắc nhất, đồng thời gọn gàng nhất, thiết thực nhất, và như vậy để từng bước, từng phần giải quyết những vấn đề của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta: phát triển kinh tế; công nghiệp và nông nghiệp, phát triển văn hoá, khoa học và kỹ thuật; những vấn đề của đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân: bữa cơm, áo quần, nhà ở, đồ dùng trong nhà, đi lại, trường học, đời sống văn hoá, v.v..

Nhân dân ta có những truyền thống rất đáng quý : anh dũng, cần cù, giản dị, tiết kiệm. Vị Chủ tịch nước ta vẫn sống như người chiến sĩ cách mạng, nêu sáng ngời tấm gương anh dũng, cần cù và giản dị, tiết kiệm. Từ xưa dân tộc ta quen sống đùm bọc lẫn nhau, sống với làng với nước, đoàn kết một lòng vì quyền lợi tối cao của Tổ quốc, của dân tộc. Chúng ta phải ra sức giữ gìn và trau dồi những đức tính tốt đẹp vô song đó, ra sức phát huy ý nghĩa của nó, tác dụng của nó dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ngày nay. Chúng ta kêu gọi mọi người hết lòng hết sức làm việc, sản xuất vì lợi ích của nước, của dân, vì sự nghiệp cách mạng cao cả. Chúng ta hết lòng hết sức chăm lo đời sống cho nhân dân ta, cho những người lao động, trước hết cho những người làm công việc nặng nhọc, những người gặp khó khăn nhiều trong đời sống. Từ trước đến nay và cũng từ nay về sau, chúng ta không đi theo hướng tăng một cách quá đáng sự cách biệt về đãi ngộ, về lương bổng giữa các hạng người lao động. Mọi người chúng ta phải sống và làm việc như người chiến sĩ cách mạng, nghĩa là dũng cảm, cần cù và giản dị, tiết kiệm, bởi vì cách mạng đương tiếp diễn ở nước ta, chung quanh nước ta và khắp thế giới. Và chúng ta đem nhân sinh quan đó giáo dục thế hệ trẻ của chúng ta.

PHẦN IV

TÌNH HÌNH MIỀN NAM VÀ ĐÔNG NAM Á

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Mỗi một lần tình hình ở miền Nam được trình bày trước Quốc hội, tuy cách nhau không bao lâu, nhưng mỗi một lần đều có những biến đổi mới, nghĩa là những thắng lợi mới của cuộc đấu tranh gian khổ và vô cùng anh dũng của nhân dân ta ở miền Nam. Lần này thì những biến đổi đó, những thắng lợi đó lại càng to lớn, càng vĩ đại, càng biểu dương khí thế chiến thắng của những người chiến sĩ thân yêu đương giương cao ngọn cờ giải phóng miền Nam trên tuyến đầu của Tổ quốc.

Điểm nổi bật trong biến đổi mới ở tình hình miền Nam hiện nay là đế quốc xâm lược Mỹ đương ở vào thế rất khó khăn, thật là vô phương. Đối với chúng ta, điều này không có gì lạ, dân ta nhất định sẽ thắng, bọn xâm lược Mỹ nhất định sẽ thua. Điều đáng chú ý là hiện nay dư luận nước Mỹ cũng bắt đầu nhìn thấy sự thật ở miền Nam, nhà báo Oantơ Lipman nói: cuối đường hầm không có một tia sáng nào; nhiều nhà báo khác nói đến một trận Điện Biên Phủ ở miền Nam! Ở nước Mỹ, phong trào chống cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam nước ta đương phát triển.

Những biến đổi to lớn và nhanh chóng ở miền Nam đưa đến tình hình hiện nay gắn liền với sự tăng cường cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam, nhất là từ 1963 lại đây. Như thế nghĩa là gì? Như thế nghĩa là bọn xâm lược Mỹ càng bạo ngược, càng phạm những tội ác tầy trời, càng đâm đầu vào cuộc chiến tranh phi nghĩa, thì thất bại của chúng và bọn tay sai càng lớn, càng nặng, phong trào yêu nước càng phát triển nhanh chóng, và thắng lợi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ở miền Nam và trên vũ đài quốc tế càng có ý nghĩa và càng có tiếng vang!

Hiện nay, bọn xâm lược Mỹ đương ra sức tăng cường lực lượng quân sự của chúng: một là tăng cường quân đội của chính quyền miền Nam. Nhưng từ thời họ Ngô qua Dương Văn Minh đến Nguyễn Khánh, quân đội miền Nam ngày càng suy yếu mau chóng về mọi mặt, nhất là về mặt tinh thần, bởi vì người lính miền Nam dần dần đã giác ngộ, ngày càng có đông người bỏ hàng ngũ quân đội miền Nam để trở về quê hương hoặc đi theo Quân Giải phóng. Xu thế này đương phát triển. Hai là tăng cường lực lượng quân sự người Mỹ ở miền Nam. Những người quân nhân Mỹ đã bước đầu nếm mọi sự cay đắng và hiểm nghèo của cuộc chiến tranh chống một dân tộc quyết tự giải phóng; một số đông đã bị thương vong; dư luận Mỹ bị xúc động mạnh mẽ!

Thế cùng, đế quốc Mỹ đi cầu cứu khắp mọi nơi. Ở hội nghị (tháng 4 năm 1964) của khối Đông Nam Á, lần đầu tiên có tiếng nói của đại diện Chính phủ Pháp không tán thành Mỹ dùng biện pháp quân sự để giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam! Ở hội nghị (tháng 5 năm 1964) của khối Bắc Đại Tây Dương, không mấy ai hưởng ứng nhiệt liệt lời kêu gọi của Mỹ. Ý đồ của Mỹ là lôi kéo nhiều nước khác từ Á sang Âu cùng với mình tham gia vào một cuộc chiến tranh "bẩn thỉu" và không có con đường ra! Nhưng thuyền sắp đắm, ai dại gì nhảy vào!

Gần đây đế quốc Mỹ lăm le dùng Liên hợp quốc để che đậy âm mưu can thiệp và xâm lược của chúng, nhưng nhân dân cách mạng ở Đông Nam Á cũng như ở các nước khác quyết không bị mắc lừa, quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh nhằm đánh bại đế quốc Mỹ và mọi thủ đoạn của chúng, quyết phản đối sự can thiệp, bất cứ dưới hình thức nào, của Liên hợp quốc.

Theo thói quen cũ rích của quân xâm lược, đế quốc Mỹ vừa ăn cướp vừa la làng, lặp lại luận điệu trái ngược đến lố bịch rằng nguyên nhân của tình hình vô cùng nghiêm trọng ở miền Nam là do cái gọi là "sự can thiệp của Hà Nội"! Nhưng bàn tay của chúng che sao được mặt trời, những lời bịa đặt vô liêm sỉ của chúng át sao được tiếng nói của sự thật: ngày nay trên thế giới ai nấy đều biết rõ chính đế quốc Mỹ là kẻ đã chà đạp lên Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam, đưa sĩ quan, binh lính và vũ khí vào miền Nam Việt Nam, chỉ huy và trực tiếp tham gia chiến tranh, gây ra những tội ác tày trời đối với nhân dân miền Nam Việt Nam; chúng lại còn tìm cách lôi kéo các lực lượng đồng minh và tay sai của chúng vào cuộc xâm lược bất nhân, bất nghĩa đó.

Ngoan cố rúc mãi vào đường hầm không có lối ra ấy, đế quốc Mỹ nhất định sẽ thất bại nhục nhã, vì mấy nguyên nhân căn bản sau đây:

1. Trong thời đại hiện nay, nhân dân miền Nam Việt Nam và nhân dân các dân tộc bị áp bức đã tìm được và biết sử dụng thứ khí giới có thể đánh bại bất cứ một nước đế quốc xâm lược nào, dầu hung hăng và mạnh mẽ đến đâu, kể cả đế quốc Mỹ: Đó là chiến tranh cách mạng của nhân dân. Nhân dân đã biết đoàn kết chặt chẽ, biết sử dụng lực lượng chính trị và quân sự của mình, đã nắm vững quy luật phát triển của các lực lượng vô địch ấy để chiến thắng quân xâm lược.

2. Phe xã hội chủ nghĩa hùng cường đã mạnh hơn hẳn phe đế quốc và tư bản. Phe xã hội chủ nghĩa là thành trì của cách mạng thế giới, thành trì của hoà bình thế giới. Cùng với phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các lực lượng hoà bình, phe xã hội chủ nghĩa có khả năng chặn bàn tay xâm lược của bọn đế quốc, đập tan mọi âm mưu hiếu chiến của chúng và giúp đỡ có hiệu lực cho nhân dân các nước đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược.

3. Hành động xâm lược nhơ bẩn của đế quốc Mỹ diễn ra ở miền Nam Việt Nam giữa lúc nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Mỹ, đang mở rộng cuộc đấu tranh kiên quyết để gìn giữ hoà bình, giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đế quốc Mỹ ngày càng bị cô lập, ngày càng bị kịch liệt lên án và phản đối mạnh mẽ ở khắp mọi nơi và cả ở nước chúng.

4. Bọn đế quốc đang ở trong giai đoạn trầm trọng nhất (thứ ba) của cuộc tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản thế giới. Hàng ngũ của bọn đế quốc và bè lũ tay sai của chúng ngày càng lục đục và suy yếu vì những mâu thuẫn mà chúng không thể nào dàn xếp được. Cơn khủng hoảng nội bộ của chúng kéo dài liên miên và ngày càng trầm trọng cho đến khi chúng thất bại hoàn toàn.

Trong thời đại của chúng ta, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân chống bọn đế quốc xâm lược, đứng đầu là bọn đế quốc xâm lược Mỹ, nhất định thắng lợi. Cũng như nhân dân Việt Nam ta, nhân dân Cuba, nhân dân Angiêri đã chứng minh chân lý đó; ngày nay, cũng như nhân dân miền Nam Việt Nam và nhân dân nhiều nơi ở Đông Nam Á, nhân dân miền Nam Triều Tiên, nhân dân nhiều nơi ở châu Phi: Angôla, Cônggô, … nhân dân nhiều nơi ở châu Mỹ latinh: Vênêduêla, Goatêmala, … đương chứng minh chân lý hùng hồn đó.

Nguy khốn ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ tìm con đường thoát bằng cách tăng cường can thiệp vào Lào và uy hiếp Campuchia, ý chừng muốn mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược của chúng ở Đông Nam Á.

Thủ đoạn can thiệp của đế quốc Mỹ vào nước Lào hoà bình và trung lập thật là trắng trợn: chúng đã tổ chức cuộc đảo chính ngày 19-4 của bọn Cupơraxít và Xihổ. Chúng đã xoá bỏ Chính phủ liên hiệp ba phái thành lập trên cơ sở các Hiệp định Duyrích và Hiệp định Cánh Đồng Chum, chúng dựng lên một Chính phủ làm bình phong cho mọi hoạt động bất hợp pháp và cực kỳ nguy hiểm của chúng và tay sai. Chúng đã xé Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào là Hiệp định quốc tế công nhận và bảo đảm chủ quyền và độc lập của nước Lào, chính sách hoà bình trung lập và Chính phủ liên hiệp ba phái ở Lào. Hiện nay, chúng đương dùng máy bay phản lực thám thính và bắn phá ở Lào, oanh tạc cơ quan đại diện của Trung Quốc và của nước ta ở Khangkhay! Cần nhắc lại rằng trước đây, vì bị thất bại liên tiếp trên mặt trận quân sự ở Lào, Chính phủ Mỹ buộc phải ngồi ở Hội nghị Giơnevơ 1962 về Lào. Nhưng không bao giờ đế quốc Mỹ thành thực tôn trọng Hiệp định Giơnevơ, trái lại đế quốc Mỹ luôn luôn dùng trăm phương nghìn kế để tiếp tục can thiệp vào nước Lào, hòng biến nước Lào thành căn cứ quân sự của Mỹ. Tình hình ở miền Nam càng trở nên nguy khốn cho Mỹ thì chúng càng sợ những thắng lợi của nhân dân Lào: chính sách hoà bình trung lập, Chính phủ liên hiệp ba phái, Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào, có thể trở nên tiền lệ cho miền Nam Việt Nam. Chúng càng hoảng hốt và càng can thiệp điên cuồng vào nước Lào!

Đối với Campuchia là nước, mặc dầu sóng gió, quyết nắm vững chính sách hoà bình trung lập, đế quốc Mỹ cũng chẳng để yên. Chúng và tay sai của chúng ở miền Nam đã gây chuyện một cách rất vô lý để uy hiếp Campuchia, xâm phạm biên giới và lãnh thổ Campuchia, ý đồ của chúng là ép Campuchia đi theo chúng, biến Campuchia thành chỗ dựa trong cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam và trong âm mưu gây chiến của chúng ở Đông Dương và Đông Nam Á.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ trước đến nay nhận định một cách nhất quán rằng: Chính sách xâm lược và hiếu chiến của đế quốc Mỹ là nguồn gốc sâu xa cũng như nguyên nhân trực tiếp của tình hình không ổn định, luôn luôn căng thẳng, và có chiến tranh kéo dài ở khu vực này. Từ đầu năm lại đây, đế quốc Mỹ càng bị nguy khốn ở miền Nam, thì càng trắng trợn và điên cuồng ở Lào và đối với Campuchia. Nhưng như vậy, đế quốc Mỹ càng bộc lộ thế yếu của chúng, thế bị cô lập của chúng, và như vậy ai nấy đều thấy, cũng sẽ càng đi vào con đường thất bại thảm hại.

Chúng ta phải nhìn thấy tình hình ở bán đảo Đông Dương trong tình hình chung ở Đông Nam Á, dính liền với tình hình ở phía Nam nước ta. Ở đây phải vạch trần âm mưu của đế quốc Anh trong việc thành lập khối "Đại Mã Lai" nhằm củng cố thống trị thực dân Anh ở những nước trong khối này, tăng cường căn cứ quân sự Anh ở Xingapo và trực tiếp uy hiếp nước Cộng hoà Inđônêxia. Rõ ràng hai nước đế quốc Mỹ và Anh đương ủng hộ lẫn nhau, cùng nhau tìm những mưu kế thâm độc và xảo quyệt để tiến hành những hoạt động lật đổ, can thiệp và xâm lược vào tất cả mọi nước ở khu vực Đông Nam Á. Làm như vậy, nước Anh, một Chủ tịch của Hội nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương, 1962 về Lào, chính là người đã cùng với Mỹ phá hoại những hiệp định đó!

Đứng trước tình hình nghiêm trọng kể trên do đế quốc Mỹ xâm lược gây nên, thái độ và lập trường của nhân dân ta, của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như thế nào?

1. Đối với miền Nam Việt Nam . Tại Hội nghị Chính trị đặc biệt, Hồ Chủ tịch đã đề ra mấy điểm rất đúng đắn, thật là công bằng hợp lý, những điều duy nhất thoả đáng để giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam:

1. Chính phủ Mỹ cũng như Chính phủ mọi nước tham gia Hội nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương phải làm đúng lời cam kết của mình: tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, không can thiệp vào nội trị của Việt Nam.

Cũng như Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chính quyền miền Nam phải thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản rất trọng yếu về mặt quân sự trong Hiệp định Giơnevơ: không tham gia liên minh với quân sự nước ngoài, không cho nước ngoài lập căn cứ quân sự, không nhận nhân viên quân sự nước ngoài vào đất nước mình.

2. Chính phủ Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, phải rút quân đội và vũ khí của Mỹ khỏi miền Nam, để công việc nội bộ của miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết lấy theo chương trình của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Chương trình đó bao quát mọi chính sách lớn về quyền dân tộc của nhân dân Việt Nam ở miền Nam, các quyền tự do dân chủ, quyền lợi kinh tế của các tầng lớp nhân dân, và bao quát chính sách đối ngoại là hoà bình và trung lập.

3. Vấn đề hoà bình thống nhất nước Việt Nam là công việc của dân tộc Việt Nam, vấn đề đó sẽ được giải quyết theo tinh thần của bản cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chương trình của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.

Tôi xin báo cáo với Quốc hội và với toàn thể đồng bào rằng thái độ và lập trường của nhân dân ta thể hiện ở mấy điểm sáng tỏ trên đây đã được Chính phủ nhiều nước và dư luận rộng rãi trên thế giới nhiệt liệt đồng tình và ủng hộ, nhất là của nước xã hội chủ nghĩa và các nước dân tộc chủ nghĩa ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ latinh.

Nhân dân ta chân thành cảm tạ những người đồng chí, những người bạn khắp nơi trên thế giới đã hết lòng ủng hộ và cổ vũ chúng ta. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam chống bọn xâm lược Mỹ là một bộ phận khăng khít, đồng thời là một cống hiến tích cực đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Cuộc đấu tranh anh dũng và tất thắng của nhân dân ta ở miền Nam chống cuộc chiến tranh "đặc biệt" của đế quốc Mỹ là một tấm gương sáng đối với dân tộc ở các châu Á, Phi và Mỹ latinh, cổ vũ các dân tộc đó kiên quyết đứng lên chống mọi chính sách can thiệp và xâm lược của bọn đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ. Hễ kiên quyết đứng lên hy sinh tất cả để đánh lại bọn cướp nước thì nhất định cuối cùng sẽ thắng lợi.

Vừa rồi, trong dịp đoàn văn công của nước Cộng hoà Ghinê sang nước ta, ông Đoàn trưởng có nói những lời nói rất có ý nghĩa:

"Nhờ có cách mạng Việt Nam chống bọn thực dân thành công nên chúng tôi mới vững tâm làm cách mạng ở Ghinê và ở châu Phi… Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam ở miền Nam cũng là cuộc đấu tranh của chúng tôi, và thắng lợi của cuộc đấu tranh đó không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam mà còn là thắng lợi của khối Á - Phi, của toàn thể nhân loại. Chúng tôi tin chắc rằng, trong một ngày không xa nữa, đoàn ca múa chúng tôi sẽ trở lại thăm đất nước của các bạn, không phải chỉ đến thủ đô Hà Nội mà còn vào đến tận Sài Gòn để hát mừng và ca ngợi tình hữu nghị thắm thiết của khối đoàn kết Á - Phi của chúng ta".

Chúng ta có thể nghe những lời nói đầy nhiệt tình như vậy ở khắp nơi ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ latinh.

Thấy rõ ý nghĩa to lớn của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, nhân dân ta càng bền gan, vững chí, càng kiên trì cuộc đấu tranh gian khổ và bền bỉ, nhưng tất thắng. Mác có nói một câu rất sâu sắc: "Lịch sử chẳng làm gì nửa chừng!". Thật vậy, lịch sử là do nhân dân làm nên, nhân dân nước ta cũng như nhân dân cách mạng các nước khác quyết làm đến nơi đến chốn sự nghiệp cách mạng to lớn của mình. Nhân dân ta đấu tranh cho sự sống còn của dân tộc, cho độc lập và tự do của cả nước, cho hoà bình của nước ta và cả khu vực Đông Nam Á. Cuộc đấu tranh của chúng ta là chính nghĩa, thuận với trào lưu của lịch sử và tiến hoá của loài người. Mặc dầu còn phải chịu đựng biết bao hy sinh gian khổ, nhân dân Việt Nam ta, mấy chục triệu người như một, ngày càng mạnh mẽ và tin tưởng, kiên quyết đẩy đế quốc Mỹ đến chỗ hoàn toàn thất bại và nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng.

Càng bị thất bại cay đắng ở miền Nam, bọn xâm lược Mỹ và tay sai của chúng, từ lâu, đã dùng các hình thức biệt kích để xâm phạm miền Bắc. Nhưng, như mọi người đều biết và chính người Mỹ cũng thú nhận như vậy, hầu hết bọn côn đồ này, mới vừa đặt chân lên đất của miền Bắc, đều bị quần chúng nhân dân và lực lượng dân quân đuổi bắt, lắm khi trẻ em, đàn bà, ông già, người đi rừng, người đánh cá cũng bắt được chúng. Điều này chứng tỏ một cách hùng hồn trình độ giác ngộ chính trị, tinh thần cảnh giác, ý thức bảo vệ miền Bắc, sức mạnh và sự sẵn sàng chiến đấu của toàn thể nhân dân ta ở miền Bắc.

Gần đây, bọn xâm lược Mỹ và tay sai của chúng càng bị điên đầu ở miền Nam, lại càng la lớn: Phải đánh miền Bắc; chúng đòi "Bắc tiến!", đòi oanh tạc miền Bắc…! Tại Hội nghị Chính trị đặc biệt, Hồ Chủ tịch đã nói: "… Hiện nay, bọn hiếu chiến Mỹ và bè lũ tay sai mới của chúng lại ba hoa hô hào "Bắc tiến!". Nhưng chúng phải hiểu rằng: nếu chúng liều lĩnh động đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ thất bại thảm hại. Vì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đánh lại chúng, vì các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ toàn thế giới sẽ hết sức ủng hộ ta; vì nhân dân Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ cũng sẽ phản đối chúng". Sau đó, trên diễn đàn của Hội nghị, nhiều người đại diện các tầng lớp nhân dân: công nhân, nông dân, trí thức, nhân sĩ, dân quân, Công an nhân dân vũ trang, Quân đội nhân dân, đã nói rõ ý chí của nhân dân Việt Nam ta nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết đánh bại mọi hành động xâm phạm miền Bắc. Nếu bọn hiếu chiến Mỹ phiêu lưu mạo hiểm động đến miền Bắc, thì đồng bào toàn quốc triệu người như một sẽ đứng lên đập tan cuộc xâm lược của chúng ở miền Bắc, và dành cho chúng hoàn toàn thất bại trên cả nước ta. Bọn hiếu chiến Mỹ và bè lũ lâu la của chúng hãy coi chừng! Động đến miền Bắc là động đến một nước xã hội chủ nghĩa! Động đến miền Bắc là động đến đất thân yêu nhất của cả dân tộc Việt Nam! Động đến miền Bắc là mở rộng chiến tranh ra cả khu vực này. Không chỉ nhân dân Việt Nam, mà nhân dân các nước ở Đông Nam Á sẽ vô cùng phẫn nộ và sẽ đứng lên chống kẻ thù chung với một khí thế vô cùng mạnh mẽ.

Ngay tại nước Mỹ , các giới chính trị, quân sự, những nhà tri thức lớn, nhà báo, tổ chức quần chúng, giới kinh doanh, sinh viên, thanh niên… ngày càng đẩy mạnh hoạt động, mở rộng phong trào chống cuộc "chiến tranh bẩn thỉu" ở miền Nam Việt Nam. Nhiều binh sĩ, nhiều thanh niên lúc nhập ngũ tuyên bố quyết không chịu đi chết cho "cuộc chiến tranh của Mác Namara" ở miền Nam Việt Nam. Nhân dân Việt Nam ta nhiệt liệt hoan nghênh phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ chống chiến tranh ở miền Nam và thân ái gửi đến nhân dân Mỹ lời chào hữu nghị.

2. Đối với tình hình Lào . Hiện nay, như trên đây đã trình bày, tình hình Lào đã trở nên cực kỳ nghiêm trọng. Máy bay quân sự Mỹ trắng trợn bắn phá khắp nơi ở Lào.

Rõ ràng đế quốc Mỹ đã mở rộng chiến tranh ở Lào!

Chúng ta, nước láng giềng của Vương quốc Lào, một nước đã ký vào Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào, chúng ta nhất định không thể bàng quan trước tình hình rất nguy hiểm ở Lào.

Đã nhiều lần Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố triệt để ủng hộ chính sách hòa bình trung lập, Chính phủ liên hiệp ba phái và Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào, coi đó là những thắng lợi to lớn của nhân dân Lào, tạo điều kiện ổn định tình hình cả nước Lào, thực hiện hòa hợp dân tộc, xây dựng đời sống mới thích hợp với truyền thống và ý nguyện của nhân dân Lào. Chúng ta triệt để ủng hộ những điều kể trên bởi vì chúng ta rất quan tâm đến biên giới phía Tây nước ta: chỉ có một nước Lào hòa bình, trung lập, nghĩa là không có sự can thiệp của đế quốc Mỹ, thì biên giới phía Tây nước ta mới được yên ổn, và đó là điều chúng ta rất mong muốn; thì những quan hệ hữu nghị về mọi mặt giữa hai nước láng giềng mới có khả năng phát triển và củng cố! Nhưng đế quốc Mỹ luôn luôn tìm mọi cách, dùng mọi hình thức để can thiệp vào nước Lào, hòng biến nước Lào thành căn cứ quân sự của chúng để từ đó xâm phạm biên giới Lào - Việt, từ phía Tây uy hiếp một cách thường xuyên và trực tiếp an ninh của nước ta. Đó là những âm mưu và hành động mà nhân dân ta không thể dung thứ được. Chúng ta lại càng ra sức góp phần tích cực của mình giữ vững Hiệp định Giơnevơ 1962 về Lào, bảo đảm những quyền dân tộc bất khả xâm phạm của nhân dân Lào: chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chính sách hòa bình trung lập và Chính phủ liên hiệp ba phái. Chúng ta rất vui mừng nói lên ở đây tình hữu nghị của chúng ta đối với nhân dân Lào, lòng kính trọng và khâm phục của chúng ta đối với dân tộc Lào đang hy sinh phấn đấu rất anh dũng để giữ vững những thành quả cách mạng đã giành được, quyết đánh bại bọn xâm lược Mỹ và tay sai của chúng, lập lại hòa bình và ổn định tình hình ở Lào, xây dựng đất nước biết bao năm bị chiến tranh tàn phá.

Hiện nay, để chặn đứng nguy cơ đế quốc Mỹ và các lực lượng phản động mở rộng chiến tranh ở Lào, phải triệu tập hội nghị quốc tế mười bốn nước. Chỉ có hội nghị quốc tế mười bốn nước mới đủ thẩm quyền thảo luận và giải quyết những vấn đề nghiêm trọng trước mắt. Đó là ý nguyện của nhân dân Lào, của những nước láng giềng của Lào. Đó cũng là yêu cầu của mọi nước muốn có hòa bình và an ninh ở khu vực này.

Lịch sử đấu tranh để tự giải phóng của các dân tộc ở Đông Nam Á làm nổi bật ý nghĩa của những Hội nghị quốc tế ở Giơnevơ 1954 về Đông Dương, 1962 về Lào, công nhận chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, bảo đảm chính sách hòa bình trung lập của Vương quốc Lào, v.v.. Chính vì thế mà đế quốc Mỹ ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Nhưng đế quốc Mỹ sẽ thất bại. Hội nghị quốc tế mười bốn nước về Lào sẽ được triệu tập trong những điều kiện lịch sử mới, nghĩa là lực lượng của nhân dân Lào đã lớn mạnh hơn trước, như vậy thắng lợi của nhân dân Lào sẽ được củng cố vững chắc.

3. Đối với Campuchia . Từ bao năm nay, nhân dân Campuchia, dưới sự lãnh đạo của Thái tử Quốc trưởng Nôrôđôm Xihanúc, kiên quyết phấn đấu để giữ vững chính sách hòa bình trung lập của mình. Nhưng đế quốc Mỹ, cũng như đối với nước Lào, lại muốn biến Campuchia thành một bàn đạp, một chỗ dựa để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam. Rõ ràng là đế quốc Mỹ muốn biến tất cả những nước trên lưu vực sông Cửu Long thành những cái khâu trong hệ thống căn cứ quân sự của chúng nhằm thôn tính cả khu vực này và chuẩn bị cuộc chiến tranh chống các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Á.

Để hòng bẻ gẫy sự kháng cự dũng cảm và mãnh liệt của nhân dân Khơme, bọn xâm lược Mỹ đã dùng mọi thủ đoạn gian ác và đê hèn, chúng xúi giúc bọn tay sai của chúng ở phía Nam và phía Tây xâm phạm một cách trắng trợn vào biên giới và lãnh thổ của Campuchia, như vừa rồi ở làng Tralốclếch. Nhưng nhân dân Campuchia và vị lãnh tụ kính yêu của mình không hề bị nao núng, càng kiên trì cuộc đấu tranh chính nghĩa của mình, và càng được các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ.

Nhân dân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước sau như một kiên quyết ủng hộ chính sách hòa bình trung lập của Vương quốc Campuchia, coi đó là chính sách duy nhất đúng đắn đối với Campuchia, có tác dụng tích cực trong việc giữ gìn hòa bình và an ninh của khu vực này.

Nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhiệt liệt ủng hộ đề nghị gần đây (ngày 13-6-1964) của Thái tử Quốc trưởng Nôrôđôm Xihanúc về việc triệu tập Hội nghị Giơnevơ mười bốn nước nhằm tôn trọng và bảo đảm nền trung lập của Campuchia.

Nhân dân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoàn toàn đồng tình với những lời tuyên bố của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam về biên giới giữa Campuchia và miền Nam và những hòn đảo ven biển gần Kép:

"Chúng tôi tôn trọng biên giới hiện tại đã được ấn định từ lâu. Chính vì thế mà mặc dù khu giải phóng có một biên giới chung giáp với Campuchia, nhưng đã không bao giờ xảy ra một sự biến nào".

"Đặc biệt chúng tôi không bao giờ có ý đòi những hòn đảo ven biển gần Kép, những hòn đảo này là bộ phận của lãnh thổ Campuchia và không ai có thể phủ nhận được".

4. Đối với cuộc đấu tranh chống khối "Đại Mã Lai". Quyền lợi kinh tế, chính trị và chiến lược của bọn đế quốc Anh-Mỹ ở vùng này rất quan trọng, cho nên chắc chắn chúng có tham vọng bám chặt lấy vùng này. Nhưng chúng càng ngoan cố thì cuộc đấu tranh của nhân dân nước Cộng hòa Inđônêxia và nhân dân các nước ở vùng này càng mãnh liệt.

Nhân dân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Inđônêxia anh em nhằm đập tan khối "Đại Mã Lai", và kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Bắc Kalimăngtan.

Ngày nay Đông Nam Á là một mặt trận đấu tranh rộng lớn, sôi nổi và mạnh mẽ chống đế quốc, nhất là chống đế quốc Mỹ. Bọn đế quốc muốn chia rẽ các dân tộc, hòng dễ dàng uy hiếp, xâm lược và thống trị các dân tộc, nhưng chính chính sách trắng trợn và độc ác của chúng càng thúc đẩy các dân tộc cùng nhau đứng lên, đoàn kết với nhau, ủng hộ nhau, giúp đỡ nhau để chống kẻ thù chung. Các dân tộc ở Đông Nam Á, càng thắt chặt tình hữu nghị và tình chiến đấu chống đế quốc xâm lược vì độc lập dân tộc, vì hòa bình và tiến bộ.

Trong quá trình đấu tranh cách mạng để tự giải phóng, nhân dân Việt Nam ta cũng như nhân dân các nước ở Đông Nam Á, (và khắp mọi nơi khác) đều nhận thức rất rõ ràng rằng: hoà bình trên đất nước mình, lao động hoà bình để xây dựng đời sống mới của mình, chung sống hoà bình với mọi dân tộc trên thế giới, tất cả những điều rất chính đáng và tốt đẹp đó đều gắn liền với cuộc đấu tranh quyết liệt chống đế quốc xâm lược, nhất là đế quốc Mỹ, để tự giải phóng. Cho nên ngày nay, nhân dân Việt Nam ta cũng như nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, nhân dân Inđônêxia và nhân dân các dân tộc khác ở Đông Nam Á càng kiên quyết và mạnh mẽ, phấn khởi và tin tưởng, đứng lên tiến hành cuộc đấu tranh gian khổ và tất thắng bọn đế quốc xâm lược, nhất là đế quốc Mỹ.

Cuộc đấu tranh cách mạng vĩ đại này là tất thắng, bởi vì đó là cuộc đấu tranh của hàng trăm triệu nhân dân nguyện hy sinh tất cả để giành quyền sống độc lập và tự do; bởi vì cuộc đấu tranh chính nghĩa đó được sự đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ của các nước xã hội chủ nghĩa và của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới.

Nhân dân Việt Nam, cũng như nhân dân các dân tộc ở Đông Nam Á, nguyện sát cánh với nhân dân các nước ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ latinh, một lòng đoàn kết và đấu tranh chống đế quốc xâm lược đứng đầu là đế quốc Mỹ vì những quyền dân tộc thiêng liêng của mình, góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng giành hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội của nhân dân thế giới.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Hôm nay chúng ta họp kỳ họp thứ nhất của khoá III Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước dân chủ nhân dân của chúng ta đương làm sứ mạng lịch sử vẻ vang của mình: là công cụ rất đắc lực của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.

Quốc hội ta tập hợp những người đại biểu chân chính của nhân dân ta, của cả nước ta. Mỗi một khoá của Quốc hội đánh dấu một chặng đường quan trọng của dân ta, của nước ta trong sự nghiệp cách mạng gian khổ, lâu dài và tất thắng của mình.

Thay mặt Hội đồng Chính phủ, tôi kính chúc khoá III này của Quốc hội nước ta có những cống hiến to lớn vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.