VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP III 1964 - 1971

BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ VỀ PHƯƠNG HƯỚNG,
NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
HAI NĂM 1966-1967 VÀ KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
NĂM 1966

(Do ông Nguyễn Côn, Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch
Nhà nước trình bày tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội
khóa III, ngày 16-4-1966)

 
 

 

Thưa Hồ Chủ tịch,

Thưa Chủ tịch Đoàn,

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Hơn một năm qua, nhân dân ta ở miền Bắc và miền Nam đã chiến đấu vô cùng anh dũng, giáng cho đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai những đòn thất bại nặng nề và giành những thắng lợi hết sức vẻ vang. Đồng chí Thủ tướng đã trình bày một cách sâu sắc những vấn đề cơ bản nhất của cuộc chiến đấu của nhân dân ta và đề ra những nhiệm vụ trước mắt của miền Bắc nhằm hoàn thành thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.

Trong bản báo cáo này, chúng tôi xin trình Quốc hội những phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế trong hai năm 1966-1967 và kế hoạch nhà nước năm 1966, thể hiện quyết tâm của nhân dân ta ở miền Bắc, cùng đồng bào miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

PHẦN THỨ NHẤT

NĂM 1965 ĐÃ KẾT THÚC THẮNG LỢI KẾ HOẠCH 5 NĂM THỨ NHẤT,
ĐÁNH DẤU NHỮNG THÀNH TÍCH TO LỚN TRONG VIỆC ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT
VÀ CHIẾN ĐẤU CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Sau khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và nghị quyết của Quốc hội, chúng ta đã nhanh chóng chuyển hướng các hoạt động kinh tế thời bình sang thời chiến, vừa đẩy mạnh sản xuất, vừa đẩy mạnh chiến đấu, quyết tâm bảo vệ miền Bắc, hết lòng, hết sức ủng hộ cuộc cách mạng giải phóng miền Nam và tiếp tục đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Kế hoạch nhà nước năm 1965 đã được sắp xếp lại cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới, đồng thời vẫn bảo đảm hoàn thành thắng lợi những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm thứ nhất.

Theo phương hướng nói trên, nhân dân ta ở miền Bắc với tay búa tay súng, tay cày tay súng, đã đứng lên chiến đấu trên cả hai mặt trận kinh tế và quân sự, đương đầu với đế quốc Mỹ một cách vững vàng và vô cùng anh dũng. Các hợp tác xã, các xí nghiệp, công trường, v.v., ở khắp nơi đều sớm tạo nên một nền nếp sinh hoạt mới, vừa sản xuất, vừa đánh giặc. Dưới lưới lửa bảo vệ của chiến tranh nhân dân, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vẫn được tiếp tục một cách khẩn trương.

Đế quốc Mỹ hy vọng rằng, với việc sử dụng hàng nghìn máy bay các loại, bắn phá cả ngày đêm, oanh tạc ác liệt các đường giao thông, phá hoại các xí nghiệp, các công trình thủy lợi, các trường học, bệnh viện… giết hại bừa bãi nhân dân ta, chúng có thể làm cho đời sống xã hội ở miền Bắc bị ngừng trệ, nhân dân ta không chịu đựng nổi và sẽ từ bỏ quyết tâm chiến đấu của mình. Đế quốc Mỹ đã lầm to! Sự thật đã diễn ra hoàn toàn trái ngược với mưu đồ đen tối của chúng. Trên 900 máy bay bị bắn tan xác trên miền Bắc đã làm cho cái gọi là “uy thế của không lực Hoa Kỳ” sụp đổ thảm hại. Ngược lại, tội ác của chúng càng làm cho nhân dân ta thêm sục sôi căm thù, những thắng lợi của ta, thất bại của địch động viên nhân dân ta thêm quyết tâm trong việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng của mình.

Đối với chúng ta, năm 1965 quả là một năm đầy thử thách, nhưng chính cũng là một năm rực rỡ chiến công. Mặc dù tiến hành trong điều kiện chống chiến tranh phá hoại, việc thực hiện kế hoạch năm 1965 vẫn đem lại những kết quả rõ rệt hơn cả thời bình, kết thúc thắng lợi kế hoạch 5 năm thứ nhất (1961 - 1965), bảo đảm các yêu cầu to lớn về sản xuất, chiến đấu và đời sống của nhân dân, và tăng cường một bước lực lượng của chúng ta về mọi mặt.

THÀNH TÍCH CHỦ YẾU TRONG VIỆC
THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1965

1. Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và công nghiệp

Thắng lợi về sản xuất nông nghiệp trong năm 1965 là thắng lợi của ý chí đấu tranh của nông dân tập thể chống lại thiên tai và giặc Mỹ phá hoại. Sản xuất lương thực và thực phẩm có nhiều tiến bộ, đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững đời sống của nhân dân và tăng cường sức chiến đấu. Vụ chiêm đạt mức diện tích và sản lượng cao nhất từ trước đến nay. Vụ mùa, mặc dù vừa bị úng, lại bị hạn, một số vùng bị sâu bệnh phá hoại nặng, các tỉnh Liên khu IV cũ, bị giặc Mỹ bắn phá ác liệt từ khi cày cấy đến khi thu hoạch, nhưng nhiều nơi đạt kết quả tốt. Tính chung cả năm, sản lượng lương thực đã đạt mức của những năm cao nhất trong thời kỳ kế hoạch 5 năm thứ nhất. Trong hoàn cảnh vừa sản xuất, vừa chiến đấu, sản lượng lúa cả năm ở các tỉnh Liên khu IV cũ tăng tới 14,2%, riêng lúa mùa tăng 26,5% so với năm 1964 là một thắng lợi rất quan trọng.

Điểm nổi bật là ở nhiều địa phương, đông đảo bà con xã viên đã chú trọng áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, thực hiện thâm canh tăng năng suất. Phong trào làm thủy lợi, xây dựng đồng ruộng, cấy thẳng hàng và dùng cào cỏ cải tiến, làm ruộng thí nghiệm, chọn lọc giống, làm bèo hoa dâu, chế biến phân bón, v.v., đã trở thành phổ biến ở nhiều nơi. Cùng với hàng nghìn trạm bơm đã được xây dựng trong các năm qua, trong năm 1965, trên một nghìn cơ sở cơ khí nhỏ đã được trang bị ở các hợp tác xã. Đó là bước mở đầu rất quan trọng trong việc đưa cơ khí vào nông nghiệp, tạo điều kiện tăng năng suất lao động và tăng năng suất cây trồng.

Phong trào thâm canh đã đem lại những kết quả đầu tiên rất đáng phấn khởi, nhiều vùng lớn đã đạt năng suất tương đối cao một cách phổ biến. Tính chung cả năm, có 680 hợp tác xã đạt sản lượng cả năm 5 tấn thóc trở lên một hécta. Rõ ràng là mục tiêu phấn đấu đạt 5 tấn thóc trở lên một hécta trên diện tích rộng đã trở thành khả năng trực tiếp, hoàn toàn có thể thực hiện được.

Về chăn nuôi, số lượng đàn gia súc đã đạt mức cao nhất trong thời kỳ kế hoạch 5 năm thứ nhất. So với năm 1964, đàn lợn tăng gần 5%, nếu tính cả số lợn giết thịt trong năm thì tăng trên 8%. Đi đôi với chăn nuôi lợn của gia đình xã viên, phong trào nuôi lợn tập thể ở hợp tác xã đã phát triển tương đối mạnh. Đàn trâu tiếp tục tăng, trâu bò cày tăng khá, được chăm sóc, vỗ béo tốt hơn trước. Nghề nuôi cá ở các ao, hồ được chú trọng phát triển.

Cây công nghiệp cũng đạt mức cao nhất trong thời kỳ kế hoạch 5 năm thứ nhất cả về diện tích và giá trị sản lượng. So với năm 1964, diện tích tăng 7,3% và giá trị sản lượng tăng 25,4%. Năng suất và sản lượng một số cây quan trọng như lạc, đỗ tương, gai, cói, dâu tằm phát triển mạnh.

Công tác trồng cây gây rừng, tu bổ và cải tạo rừng, một công tác có ý nghĩa rất quan trọng trong công cuộc xây dựng kinh tế của ta, đã đạt được nhiều tiến bộ. Riêng diện tích trồng rừng tăng tới 39% so với năm 1964.

Các nông trường quốc doanh có nhiều thành tích mới trong việc chăm sóc cây trồng và đàn gia súc. Năng suất, sản lượng hầu hết các loại cây trồng, nhất là cây lương thực và cây công nghiệp lâu năm đều tăng hơn năm 1964, vượt kế hoạch và đạt được mức cao nhất từ trước đến nay. Sản phẩm và tiền lãi nộp cho Nhà nước đều vượt mức kế hoạch.

Về công nghiệp và thủ công nghiệp, trong các ngành công nghiệp nặng cũng như công nghiệp nhẹ, chúng ta cũng đạt được những thành tích quan trọng. Anh chị em công nhân đã tích cực bảo vệ sản xuất, ra sức tăng năng suất lao động, đạt nhiều kết quả trong việc phục vụ nông nghiệp, giao thông vận tải, công nghiệp địa phương và phục vụ quốc phòng. Trong các xí nghiệp, các hoạt động sản xuất, bảo vệ sản xuất và chiến đấu đã trở thành nền nếp: giặc đến là đánh, trong khi đánh giặc, vẫn bảo đảm sản xuất liên tục, giặc đi lại sản xuất tích cực hơn, cố gắng hoàn thành kế hoạch. Do đó, mặc dù một số xí nghiệp bị địch bắn phá, giá trị tổng sản lượng công nghiệp do Trung ương quản lý cũng như công nghiệp do địa phương quản lý vẫn tăng nhiều.

Đế quốc Mỹ đã ném bom, bắn phá nhiều xí nghiệp điện lực quan trọng, nhưng chúng ta đã anh dũng đánh trả địch, bảo vệ xí nghiệp, làm cho âm mưu của địch bị thất bại nặng nề. Ngay trong những lúc địch bắn phá ác liệt nhất, công nhân ngành điện vẫn giữ vững vị trí sản xuất và chiến đấu, xông pha ngay dưới làn mưa đạn để nối lại đường dây. Mạng lưới điện vẫn được giữ vững, sức điện phát ra trong thời chiến vẫn tăng hơn trong thời bình, bảo đảm nhu cầu về điện cho sản xuất và đời sống.

Ngành than cũng bị địch nhiều lần bắn phá. Nhưng trên các tầng than, trong các hầm lò, anh chị em công nhân mỏ đã phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất của mình, vừa đánh giặc, vừa đẩy mạnh sản xuất, vừa tiếp tục xây dựng những mỏ mới để chuẩn bị khai thác vào các năm sau.

Trong chiến tranh, ngành cơ khí càng có vị trí rất quan trọng. Để đáp ứng các yêu cầu về trang bị cho sản xuất và phục vụ chiến đấu, chúng ta đã đẩy mạnh ngành cơ khí, đưa giá trị sản lượng tăng tới 15% so với năm 1964. Nhiều máy móc và công cụ như các loại bơm, xe vận chuyển, công cụ lao động cải tiến và máy móc nhỏ khác đã được cung cấp cho nông nghiệp. Các loại phương tiện vận tải như thuyền, canô, tàu kéo, sàlan đều tăng từ gấp rưỡi đến gấp hai lần so với năm 1964. Các loại máy cắt gọt kim loại, máy phát lực, động cơ điện, máy biến thế, v.v., cũng tăng nhiều. Ngành cơ khí của ta đã sản xuất được một khối lượng máy móc, thiết bị nhiều hơn hẳn so với các năm trước; chất lượng của nhiều loại máy được nâng cao, và sản xuất được nhiều loại thiết bị trước đây vẫn phải mua của nước ngoài.

Cũng trong năm 1965, công nghiệp địa phương đã tập trung sức phục vụ nông nghiệp, giao thông vận tải và phát triển sản xuất hàng tiêu dùng. Giá trị sản lượng các sản phẩm của công nghiệp địa phương phục vụ nông nghiệp và vận tải tăng khoảng 40% so với năm 1964. Ngành cơ khí địa phương cũng phát triển mạnh. Ngành thực phẩm tăng thêm nhiều cơ sở mới. Ở các vùng ven biển, nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng chống lại các cuộc tiến công ăn cướp của đế quốc Mỹ, giữ vững sản xuất nghề cá và nghề muối.

Điểm nổi bật trong năm qua là mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, chúng ta vẫn tiếp tục xây dựng một số xí nghiệp mới, với quy mô nhỏ và vừa, đồng thời trang bị thêm máy móc, thiết bị cho các cơ sở cũ, nhất là về cơ khí, công nghiệp nhẹ và công nghiệp địa phương. Nhờ đó, ngành công nghiệp của chúng ta chẳng những không sút kém do các cuộc ném bom, bắn phá dã man của địch, mà ngược lại vẫn phát huy mạnh mẽ năng lực của mình, phục vụ tốt các ngành kinh tế khác, nhất là gắn chặt thêm một bước với nông nghiệp, thúc đẩy cuộc cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp.

2. Bảo đảm giao thông vận tải

Ngay từ đầu, khi gây chiến tranh phá hoại trên miền Bắc, giặc Mỹ đã tập trung sức phá hoại giao thông vận tải. Chúng ta đã kịp thời coi giao thông vận tải là công tác trung tâm đột xuất, tập trung lực lượng để bảo đảm giao thông. Đội ngũ xây dựng giao thông tăng gấp hai lần và thiết bị vận tải tăng hơn nhiều so với trước. Với khẩu hiệu “Địch phá, ta sửa, ta đi; địch lại phá, ta lại sửa, ta đi”, cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng của công nhân, bộ đội và nhân dân ta trên các tuyến đường đã hằng ngày hằng giờ chống lại sự phá hoại ác liệt của đế quốc Mỹ, giữ vững mạch máu giao thông. Trên nhiều đường quan trọng, khối lượng vận tải không những không giảm sút mà lại cao hơn mức bình thường. Đó là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng.

Ở Liên khu IV cũ, có quãng đường một vài kilômét, giặc Mỹ đã thả hàng nghìn tấn bom; có những chiếc cầu chúng đến oanh tạc hàng mấy chục lần, nhưng việc vận chuyển của ta vẫn tương đối đều đặn và ngày càng tiến bộ. Trên các tuyến chính, đường sắt, đường thủy, đường ô tô đều được củng cố và tăng cường tốt hơn trước. Ở nhiều nơi, việc khôi phục lại cầu đường sau khi địch bắn phá đã được thực hiện trước thời hạn quy định. Trong việc làm đường, sửa cầu và bắc cầu, tổ chức vận tải, trong các công tác đầy khó khăn, nguy hiểm này, biết bao nhiêu tài năng, trí tuệ được phát huy, bao nhiêu sáng kiến có giá trị đã nảy nở.

Đi đôi với việc tăng cường lực lượng vận tải cơ giới, chúng ta cũng đã đặc biệt chú trọng phát triển mạnh các phương tiện vận tải thô sơ, như xe đạp thồ, xe ba gác, thuyền nan, thuyền gỗ, v.v., chú trọng khai thác và sử dụng tốt vận tải đường thủy. Ở các địa phương, lực lượng vận tải thô sơ đã bảo đảm một phần quan trọng khối lượng hàng hóa vận chuyển của địa phương và hỗ trợ đắc lực cho Trung ương.

3. Động viên sức người, sức của cho sản xuất và chiến đấu

Để bảo đảm chiến đấu và sản xuất, nhu cầu về lao động, về vật tư, về tài chính và lương thực trong năm qua đã tăng lên rất nhiều. Trước yêu cầu ấy, nhân dân ta đã nêu cao truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, hăng hái đóng góp sức người, sức của với nhiệt tình sôi nổi hơn bao giờ hết.

Lao động là tiềm lực kinh tế chủ yếu trong chiến tranh nhân dân. Trong khi phải tăng thêm sức người cho chiến đấu và trực tiếp chiến đấu, chúng ta vẫn tích cực bảo đảm nhu cầu lao động cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và các ngành khác. Chúng ta vẫn tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động đồng bào miền xuôi đi tham gia phát triển kinh tế miền núi. Ở khắp nông thôn và thành thị, phong trào “ba sẵn sàng” và “ba đảm đang” đã động viên mạnh mẽ lực lượng thanh niên và phụ nữ hăng hái tham gia mọi công tác. Năm qua, chúng ta đã chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ lao động có kỹ thuật cho yêu cầu trước mắt và cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau này: riêng năm 1965, đã có thêm gần 8 vạn công nhân và cán bộ kỹ thuật ra trường, đó là con số lớn nhất so với các năm trước.

Để tăng cường tiềm lực kinh tế, vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 1965 đã tăng 28,5% so với năm 1964, là một nhịp độ cao hơn tất cả các năm trước trong kế hoạch 5 năm thứ nhất. Với số vốn ấy, chúng ta đã tập trung vào việc xây dựng thủy lợi, phát triển công nghiệp và bảo đảm giao thông. Nhiều công trình quan trọng đã hoàn thành xây dựng và đi vào sử dụng.

Thắng lợi nổi bật đáng nêu lên là nông dân ta đã nêu cao tinh thần chống Mỹ, cứu nước, tích cực làm nghĩa vụ bán thóc cho Nhà nước với mức nhiều hơn hẳn so với các năm trước, và trong nội bộ nông dân, việc điều hòa lương thực đã đi dần vào nền nếp. Công tác thu mua thực phẩm ở nhiều địa phương cũng đạt kết quả tốt.

Nhu cầu mọi mặt của sản xuất và chiến đấu được đáp ứng tốt, tài chính và tiền tệ của ta căn bản vẫn được giữ vững. Đời sống của nhân dân nói chung vẫn được bảo đảm. Giá cả, thị trường, về căn bản, vẫn ổn định. Đó là tình hình thực tế rất đáng phấn khởi và tự hào, vì nó phản ánh cơ sở chính trị và kinh tế vững chắc của chúng ta.

Những thành tích và tiến bộ kể trên gắn chặt với phong trào thi đua chống Mỹ, cứu nước đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ, sôi nổi trong các ngành, các địa phương. Quân và dân miền Bắc, với lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc Mỹ sâu sắc, học tập tinh thần chiến đấu bất khuất của đồng bào miền Nam anh hùng, đã nâng cao ý chí quyết chiến, quyết thắng, dũng cảm phấn đấu trong lao động sản xuất cũng như trong chiến đấu diệt giặc. Ở những nơi máy bay Mỹ bắn phá ác liệt cả ngày đêm, công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động không những đã hăng hái lập nhiều chiến công mà còn bám sát sản xuất, giành nhiều thắng lợi.

Trong năm đầu sản xuất và chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, với phương hướng đúng, phát huy cao độ lòng yêu nước và sức chiến đấu của nhân dân, và nhờ sự giúp đỡ quý báu của các nước anh em, chúng ta đã giành được thắng lợi hết sức to lớn. Mặc cho bom đạn Mỹ tàn phá dã man, mức phát triển của tất cả các ngành kinh tế đều tiếp tục tăng lên. Cơ sở vật chất và kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường khá. Sản xuất công nghiệp và nông nghiệp tiếp tục phát triển. Giao thông vận tải vẫn được giữ vững và ngày càng có nhiều tiến bộ. Lực lượng phòng thủ và sức chiến đấu của quân đội ta được tăng cường hơn bao giờ hết. Đời sống của nhân dân vẫn được ổn định. Các tầng lớp nhân dân ta ngày càng tin tưởng, đoàn kết thành một khối vững chắc, nâng cao ý chí quyết chiến, quyết thắng. Những thắng lợi ấy đã góp phần đẩy mạnh cuộc đấu tranh cách mạng trong cả nước.

THÀNH TÍCH CHỦ YẾU TRONG VIỆC THỰC HIỆN
KẾ HOẠCH 5 NĂM THỨ NHẤT (1961 - 1965)

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Trong kỳ họp thứ sáu của khóa II (tháng 4 năm 1963), Quốc hội đã thông qua kế hoạch 5 năm thứ nhất với nhiệm vụ thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời tiếp tục hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Năm 1965, chúng ta tập trung sức thực hiện nhiệm vụ kinh tế để chống Mỹ, cứu nước, đồng thời cũng đã hoàn thành thắng lợi những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm thứ nhất.

1. Hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới

Trong 5 năm qua, dựa vào sức mạnh đoàn kết nhất trí của toàn dân, chúng ta không ngừng tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thành phần kinh tế tập thể được tiếp tục củng cố và mở rộng. Kinh tế quốc doanh, đặc biệt là công nghiệp quốc doanh phát triển với nhịp độ nhanh, đã trở thành một lực lượng mạnh mẽ, là đòn bẩy chủ yếu để lãnh đạo phát triển có kế hoạch nền kinh tế quốc dân.

Phong trào hợp tác hóa được củng cố thêm, tính hơn hẳn của hợp tác xã được phát huy rõ rệt trên nhiều mặt. Đặc điểm nổi bật của thời gian qua là hợp tác xã đã được chuyển dần lên cấp cao, các hợp tác xã nhỏ được hợp nhất lại, công tác quản lý của hợp tác xã được vững vàng hơn, và nói chung, các hợp tác xã đều đang ở trên cái thế làm ăn khá giả hơn trước. Với 80% số hợp tác xã đã ở bậc cao và ngày càng nhiều hợp tác xã có quy mô 100 - 200 hécta ruộng đất, sự phân công lao động mới trong nông nghiệp đã được tiến hành bước đầu, phát huy rõ rệt khả năng mới trong việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp.

Thắng lợi của phong trào hợp tác hóa nông nghiệp đã mở ra những triển vọng mới, rất lớn, mà quan trọng nhất là đã mở đường cho cuộc cách mạng kỹ thuật, làm cho sản xuất nông nghiệp và nông thôn tiến lên những bước quan trọng theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Hàng chục triệu nông dân đang đổi mới cách làm ăn, học tập và áp dụng kỹ thuật mới, tăng cường các cơ sở vật chất và kỹ thuật, thực hiện thâm canh tăng năng suất, từng bước tổ chức lại nền sản xuất theo quy mô lớn… Chúng ta đã gắn liền hợp tác hóa với thủy lợi hóa, theo điều kiện thực tế của nước ta; đồng thời chú trọng tăng thêm phân bón, sử dụng rộng rãi các công cụ cải tiến và máy móc nhỏ, từng bước cải tiến trang bị và kỹ thuật canh tác. Để giúp đỡ hợp tác xã, trong nhiều năm liên tiếp, Nhà nước đã giành khoảng 20% vốn đầu tư về xây dựng cơ bản để tăng cường các cơ sở vật chất và kỹ thuật trong nông nghiệp, chủ yếu là xây dựng thủy lợi, đồng thời đã tăng thêm vốn cho vay, cung cấp vật tư, bổ sung lực lượng cho hợp tác xã để đẩy mạnh thâm canh và mở rộng thêm diện tích ruộng đất.

Thắng lợi về hợp tác hóa nông nghiệp cũng đang đưa đến những chuyển biến rất cơ bản trong đời sống văn hóa, xã hội ở nông thôn miền Bắc. Dựa vào lực lượng của hợp tác xã, nông dân ta đã xây dựng trường học của mình, tổ chức việc giữ trẻ, lập các trạm y tế hộ sinh, nhà văn hóa, xây dựng quỹ nghĩa thương…, giải quyết có kết quả các yêu cầu về phúc lợi xã hội, tăng cường sự đoàn kết tương trợ trong thôn xóm, làm cho mỗi người thêm gắn bó với tập thể. Về chính trị, các hợp tác xã nông nghiệp ngày càng tiến bộ đã góp phần quan trọng củng cố vững chắc trận địa xã hội chủ nghĩa và nền chuyên chính vô sản ở nông thôn, tạo cơ sở thuận lợi cho việc tổ chức và động viên nhân dân tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

2. Thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội

Bước vào kế hoạch 5 năm thứ nhất, đi đôi với việc củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tập trung sức vào việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện để xúc tiến cuộc cách mạng kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất. Nhằm yêu cầu cơ bản nói trên, trong thời kỳ kế hoạch 5 năm thứ nhất, Nhà nước đã đầu tư về xây dựng cơ bản kinh tế và văn hóa một số vốn gấp gần ba lần những năm 1958 - 1960, trong đó dùng vào xây dựng công nghiệp khoảng 44% và xây dựng nông nghiệp khoảng 20%. Ngoài phần Nhà nước bỏ vốn, các hợp tác xã nông nghiệp, thủ công nghiệp, cũng chú trọng sử dụng vốn tích lũy cho việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, tạo điều kiện mở rộng sản xuất.

Sản xuất nông nghiệp từ tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán nặng tính chất độc canh, tự túc tự cấp, đang chuyển thành một nền nông nghiệp phát triển toàn diện, có nhiều sản phẩm hàng hóa, bước đầu đi vào sản xuất tập trung và chuyên môn hóa. Trong 5 năm qua, cơ cấu của các ngành đã có chuyển biến tốt, sự cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi có tiến bộ thêm. Đàn lợn và đàn trâu bò đều tăng hơn gấp đôi so với năm 1938 là năm cao nhất trước chiến tranh, và gấp khoảng một lần rưỡi so với năm 1955, khi hòa bình mới lập lại. Cùng với việc đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất, chúng ta đã chú trọng mở rộng thêm diện tích bằng cách tăng vụ và khai hoang. Riêng ở miền núi đã khai phá được thêm 32 vạn hécta ruộng đất canh tác. Đến năm 1965, diện tích gieo trồng các loại cây đã tăng gần 27% tức là mở rộng thêm gần 70 vạn hécta so với năm 1955. Diện tích cây công nghiệp ngắn ngày tăng gấp một lần rưỡi, cây công nghiệp dài ngày tăng gấp hai lần rưỡi, cây ăn quả tăng gấp gần một lần rưỡi và rau tăng gấp ba lần rưỡi.

Đáng chú ý nhất là những tiến bộ về sản xuất lương thực. Dựa vào kết quả của công tác thủy lợi, và do đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất, sản lượng thóc bình quân hằng năm trong thời kỳ kế hoạch 5 năm thứ nhất so với 5 năm trước đã tăng lên một bước đáng kể. Hoa màu được chú trọng phát triển, bằng cách vừa mở rộng diện tích vừa tăng năng suất, đã góp phần quan trọng giải quyết nhu cầu lương thực, và tạo cơ sở thức ăn để phát triển chăn nuôi. Đương nhiên, chúng ta chưa thể thỏa mãn với kết quả đã đạt được về sản xuất lương thực, nhưng trong những năm qua, nhờ tăng được sản xuất và làm tốt việc phân phối, về cơ bản, chúng ta đã bảo đảm được nhu cầu tiêu dùng của Nhà nước và nhân dân, có thêm điều kiện để phát triển chăn nuôi và các ngành, nghề khác trong nông nghiệp. Đó là một thắng lợi bước đầu rất đáng phấn khởi.

Phát huy kết quả cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã và các cơ sở vật chất và kỹ thuật được tăng thêm, lấy thủy lợi làm biện pháp hàng đầu, nông nghiệp miền Bắc nước ta đã bắt đầu đi vào phương hướng cơ bản là thâm canh tăng năng suất. Tiếp theo phong trào làm thủy lợi trong các năm trước, cuộc vận động làm thủy lợi hai năm 1964 - 1965 đã thu được những kết quả rất quan trọng: gần 73% diện tích gieo trồng, trong đó có 80% diện tích cây lúa và 30% diện tích trồng cây công nghiệp đã được tưới nước, nhờ đó vụ chiêm thường bị hạn hán uy hiếp đã đi dần vào thế ổn định cả về diện tích và năng suất. Nhiều nơi đã tiến lên một bước mới, xây dựng đồng ruộng, đắp bờ vùng, bờ thửa, phát triển kênh tưới nước và tiêu nước, thực hiện việc tưới nước theo phương pháp khoa học, bảo đảm cơ sở để đẩy mạnh thâm canh. Hưng Yên, một trong những tỉnh làm thủy lợi giỏi nhất miền Bắc, đã phát động phong trào hợp tác xã làm thủy lợi, chỉ trong hai năm, đã đào, đắp được 11.000 km sông ngòi, mương máng, 30.000 km bờ vùng, bờ thửa, với khối lượng đất, đá bằng cả chín năm trước đây, bình quân mỗi người đào, đắp gần 90 mét khối đất. Từ một nơi “chiêm khê, mùa thối” “10 năm, 9 hạn” tỉnh Hưng Yên đã kết hợp chặt chẽ hợp tác hóa với thủy lợi hóa, bảo đảm nước tưới cho phần rất lớn diện tích gieo trồng lúa, màu và cây công nghiệp, tiến lên một bước hết sức quan trọng trong việc diệt hạn, chống úng. Cùng với Hưng Yên, có nhiều tỉnh khác cũng đạt những thành tích rất lớn trong phong trào thủy lợi, như Hải Dương, Yên Bái, Lào Cai, Phú Thọ, Hòa Bình, Vĩnh Phúc, v.v..

Đi đôi với việc giải quyết thủy lợi, đáng chú ý nhất là các tỉnh đều chú trọng tăng cường phân bón các loại, khai thác tốt khả năng phân chuồng và phân xanh. Việc chọn giống, sản xuất giống, v.v., được đẩy mạnh hơn trước. Việc cấy thẳng hàng và dùng cào cỏ cải tiến đã được hưởng ứng khá rộng rãi. Ở nhiều nơi, đã có phong trào quần chúng áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến. Cán bộ kỹ thuật và các tổ khoa học, kỹ thuật của hợp tác xã ngày càng phát huy vai trò nòng cốt trong việc hướng dẫn kỹ thuật mới. Các điển hình năng suất cao ngày càng phổ biến, cung cấp thêm nhiều kinh nghiệm phong phú. Đó là những nét tiến bộ mới trong nông thôn, là cơ sở tốt để đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động thâm canh, phát triển sản xuất nông nghiệp.

Nền công nghiệp của chúng ta còn rất trẻ, phần chủ yếu là được xây dựng và phát triển trong thời kỳ kế hoạch 5 năm thứ nhất. Ngày nay, ở miền Bắc nước ta, đã bắt đầu hình thành một hệ thống công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, gồm những xí nghiệp nòng cốt được trang bị kỹ thuật hiện đại, do Trung ương quản lý và nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa, sản xuất cơ khí và nửa cơ khí, do địa phương quản lý. Bên cạnh công nghiệp quốc doanh, thủ công nghiệp hợp tác hóa vẫn giữ một vai trò quan trọng; nhiều hợp tác xã đã đi vào cải tiến trang bị và công cụ, cải tiến kỹ thuật sản xuất, trở thành những hợp tác xã tiểu công nghiệp. Nhờ có tiến bộ ấy, sản xuất công nghiệp của ta đã bảo đảm được phần lớn hàng tiêu dùng cho nhu cầu trong nước và cung cấp ngày càng nhiều một số tư liệu sản xuất và hàng xuất khẩu.

Các ngành công nghiệp nặng chủ yếu như điện lực, luyện kim, cơ khí, hóa chất, v.v., đều phát triển với nhịp độ nhanh. Tỷ trọng của nhóm A từ 34% năm 1960 tiến lên chiếm 41% giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp năm 1965.

Nhiều nhà máy điện và trạm biến thế, đường dây được xây dựng. Đến năm 1965, sản lượng điện đã gấp hai lần rưỡi so với năm 1960. Ở các vùng đồng bằng và trung du, đã hình thành một mạng lưới điện thống nhất, chẳng những đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của sản xuất công nghiệp, mà đã bước đầu đưa điện về phục vụ nông nghiệp, đặc biệt là trong công tác thủy lợi.

Đáng chú ý nhất là sự phát triển và tiến bộ của ngành cơ khí. Chúng ta đã tích cực xây dựng mới và trang bị thêm cho các nhà máy cơ khí, tăng cường các xí nghiệp cơ khí địa phương, nâng cao một bước năng lực của ngành cơ khí. So với năm 1960, giá trị sản lượng cơ khí chế tạo và sửa chữa năm 1965 gấp gần hai lần rưỡi. Tỷ trọng của ngành cơ khí cũng từ gần 11% tiến lên chiếm trên 14% giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp. Nhờ đó, chúng ta đã giải quyết được một phần quan trọng các nhu cầu ngày càng tăng về sửa chữa, và đã sản xuất được một số thiết bị, máy công cụ loại vừa và loại nhỏ, giải quyết được một phần yêu cầu trang bị hằng năm cho nền kinh tế.

Các ngành công nghiệp nhẹ được chú trọng phát triển khá nhanh. Bên cạnh việc khôi phục và mở rộng những xí nghiệp cũ, chúng ta đã xây dựng thêm nhiều nhà máy mới và tăng cường năng lực cho các hợp tác xã thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Đến nay, chúng ta đã sản xuất được một khối lượng quan trọng hàng tiêu dùng, với mặt hàng ngày càng phong phú, đáp ứng phần rất lớn nhu cầu trong nước và một phần cho xuất khẩu.

Công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của chúng ta bắt đầu trên cơ sở một nền sản xuất nông nghiệp còn thấp kém. Do đó, một trong những hướng chính, quan trọng bậc nhất được đề ra là phải kết hợp chặt chẽ công nghiệp và nông nghiệp không ngừng tăng cường khả năng của công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Trong thời kỳ kế hoạch 5 năm thứ nhất, về mặt này, công nghiệp của ta đã có nhiều tiến bộ. Hằng năm, công nghiệp đã cung cấp cho nông nghiệp mấy nghìn chiếc bơm điện và bơm dầu, hàng chục vạn nông cụ cải tiến và xe vận chuyển cải tiến, hàng chục tấn phân bón các loại, hàng nghìn tấn thuốc trừ sâu… Công nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp đi vào thâm canh tăng năng suất; và qua từng bước tiến lên, nông nghiệp lại phục vụ tốt hơn cho sự phát triển của công nghiệp.

Bên cạnh công nghiệp do Trung ương quản lý, mạng lưới công nghiệp địa phương ngày càng phát triển, chiếm khoảng trên 46% giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp toàn miền Bắc. Gắn chặt với việc phát triển kinh tế địa phương, công nghiệp địa phương đã cung cấp được một phần quan trọng các tư liệu sản xuất phục vụ nông nghiệp, phục vụ giao thông vận tải… và cung cấp hàng tiêu dùng cho nông thôn. Công nghiệp địa phương của các thành phố Hà Nội, Hải Phòng đã phát triển tương đối nhanh, sản xuất được nhiều loại máy móc nhỏ, các loại công cụ cải tiến và nửa cơ khí cho nông nghiệp, xây dựng cơ bản… và nhiều hàng tiêu dùng có chất lượng ngày càng khá. Nhiều địa phương đã chú trọng tăng cường cơ sở nguyên liệu, đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông sản, và phát triển các ngành nghề thủ công. Năm 1965, chúng ta đã chuẩn bị tích cực để đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng công nghiệp địa phương, nhằm đáp ứng các yêu cầu trong tình hình mới. Trong điều kiện chiến đấu ác liệt, nhiều tỉnh đang cố gắng phát triển thêm nhiều xí nghiệp loại nhỏ, tranh thủ đưa vào sản xuất sớm, tăng thêm các mặt hàng tiêu dùng và các tư liệu sản xuất phục vụ nông nghiệp, giao thông vận tải. Những cố gắng ấy sẽ nâng cao hơn nữa vai trò của công nghiệp địa phương trong việc phát triển kinh tế địa phương, phục vụ sản xuất, chiến đấu và đời sống của nhân dân.

Đi đôi với những chuyển biến về cơ cấu của nền kinh tế, sự phân công mới trong lao động xã hội cũng đang được thực hiện. Lực lượng lao động giữa các ngành và các khu vực đang được điều chỉnh theo những phương hướng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; đội ngũ lao động kỹ thuật ngày càng được tăng cường.

Trong các nhà máy, công trường, đội ngũ công nhân sản xuất, xây dựng cũng đã lớn lên nhanh chóng. Hằng năm, khoảng sáu, bảy vạn cán bộ và công nhân kỹ thuật đã được bổ sung cho các ngành sản xuất công nghiệp. Đội ngũ trẻ tuổi của giai cấp công nhân chúng ta tỏ ra có sức tiếp thu nhanh chóng kỹ thuật mới. Đó cũng là một nguồn bổ sung quan trọng cho quân đội để đáp ứng yêu cầu mới của cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước. Giai cấp công nhân ngày càng trưởng thành về mọi mặt, đã phát huy rõ rệt vai trò tiền phong trong sản xuất, chiến đấu.

Trong nông thôn, qua các đợt cải tiến quản lý hợp tác xã, tổ chức lao động trong hợp tác xã được củng cố từng bước. Nhiều hợp tác xã tổ chức các đội chuyên trách chăn nuôi, trồng cây, làm phân bón, các tổ kỹ thuật làm bèo hoa dâu, v.v.. Chính nhờ dựa trên khả năng mới ấy của sự hợp tác lao động và bước đầu đưa khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, chúng ta đã từng bước hạn chế được tác hại của thiên tai, và mở rộng phong trào thâm canh tăng năng suất đi vào có tổ chức, có nền nếp. Lực lượng phụ nữ nông thôn được phát huy và sử dụng tốt hơn trước, đảm đang phần rất quan trọng công việc đồng áng. Nhiều chị em đã giữ các vai trò chủ chốt trong việc lãnh đạo ở xã về quản lý hợp tác xã.

Cũng trong thời kỳ kế hoạch 5 năm thứ nhất, chúng ta đã thực hiện có kết quả việc điều hòa nhân lực giữa các vùng. Trên 80 vạn đồng bào miền xuôi đã đi tham gia phát triển kinh tế miền núi, cùng với đồng bào miền núi góp phần mở mang những khu vực sản xuất mới, củng cố căn cứ địa thêm vững chắc.

Mặt khác, để đáp ứng yêu cầu về lao động kỹ thuật cho sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã tích cực đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ khoa học và kỹ thuật, đào tạo thêm trong 5 năm được gần 21.000 cán bộ tốt nghiệp đại học và trên 55.000 cán bộ tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp. Phần lớn số cán bộ nói trên được phân phối về làm việc ở các xí nghiệp, công trường, ở các địa phương. Lực lượng giảng dạy ở các trường đại học và chuyên nghiệp, nghiên cứu khoa học, làm công tác thiết kế, làm công tác điều tra cơ bản đã được bổ sung thêm, trình độ khoa học và kỹ thuật dần dần được nâng cao hơn trước. Với tinh thần yêu nước nồng nàn và ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững chắc, anh chị em trí thức của chúng ta luôn luôn gắn bó chặt chẽ với công nhân, nông dân và những người lao động khác trong sản xuất và chiến đấu, đã có nhiều cống hiến lớn lao đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ, cứu nước.

3. Cải thiện từng bước đời sống của nhân dân

Mặc dù khả năng sản xuất còn thấp, phải tập trung sức xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nhưng trong thời kỳ kế hoạch 5 năm thứ nhất, chúng ta vẫn rất coi trọng việc cải thiện đời sống của nhân dân, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động kết hợp với việc bảo đảm những nhu cầu cơ bản, hết sức phát huy tinh thần cần kiệm xây dựng Tổ quốc. Đời sống văn hóa và vật chất của nhân dân lao động miền Bắc đã được nâng cao thêm một bước.

Qua quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh cách mạng văn hóa và tư tưởng, chúng ta đã phát huy truyền thống tốt đẹp về đạo đức, tình cảm của dân tộc ta, bồi dưỡng tư tưởng mới, xây dựng từng bước con người Việt Nam mới. Đó là những con người yêu mến thiết tha chế độ xã hội chủ nghĩa, có đạo đức cách mạng và trình độ văn hóa, kỹ thuật, gắn chặt với tập thể, anh dũng đấu tranh không mệt mỏi cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Những điển hình con người mới ấy đang xuất hiện ngày càng nhiều, làm sáng chói chủ nghĩa anh hùng cách mạng trên các mặt trận sản xuất và chiến đấu.

Trong nông thôn, cùng với sự phát triển sản xuất nông nghiệp, 5 năm qua, đời sống của nông dân đã được cải thiện rõ rệt so với trước. Từ năm 1960, năm cuối của kế hoạch trước, đến năm 1965 thu nhập của nông dân đã tăng khoảng 24%. Ở nông thôn chúng ta ngày nay, từ miền xuôi đến miền núi, bộ mặt xã hội và đời sống đang đổi mới một bước rõ rệt. Trong gia đình nông dân xã viên, những đồ dùng mà trước đây chỉ một số ít người khá giả mới sắm nổi, nay đã thấy trở thành phổ biến: từ quần áo đến chăn màn, bàn ghế và nhiều đồ dùng khác. Tuy có lúc, có nơi, một bộ phận trong nông dân còn tạm thời gặp khó khăn, nhưng rõ ràng là nông dân ta đã có ăn, có mặc khá hơn trước. Nhiều gia đình đã xây được thêm nhà ngói, lát sân gạch, xây giếng nước. Đời sống vật chất như vậy, đời sống văn hóa lại càng tiến bộ rõ hơn. Thanh niên nông dân đã có trình độ văn hóa phổ biến ở lớp 4, lớp 5; số người có trình độ cấp II ngày càng nhiều. Hầu hết trẻ em đến tuổi đã được đi học.

Ở các thành thị, mọi người có sức lao động đều có việc làm, lực lượng lao động trẻ được thu hút vào các xí nghiệp, công trường ngày một nhiều. Trong điều kiện nhu cầu tăng thêm nhiều so với trước, Nhà nước đã bảo đảm tiêu chuẩn cung cấp về lương thực và các hàng tiêu dùng thiết yếu, mở rộng mạng lưới cung cấp hàng hóa, nhất là các loại thực phẩm, cố gắng giữ giá cả để bảo đảm đời sống của công nhân, viên chức, cán bộ và nhân dân thành thị. Đồng thời, đã đặc biệt chú trọng tăng cường bảo hộ lao động, mở thêm nhà ăn công cộng, giải quyết thêm một bước nhà ở, giúp đỡ các gia đình đông con, tổ chức chăm sóc đời sống các trẻ em và các mặt phúc lợi xã hội khác.

Các công tác giáo dục, văn hóa, bảo vệ sức khỏe đạt được nhiều thành tích rực rỡ. Chúng ta đang đẩy mạnh phổ cập giáo dục cấp I, thường xuyên cải tiến và nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Tính trung bình mỗi xã hoặc thị trấn đã có trên một trường cấp I, trung bình hai xã hoặc thị trấn đã có một trường cấp II, và trung bình mỗi huyện, thị xã hoặc khu phố có gần một trường
cấp III. Sách, báo, tạp chí, phim ảnh xuất bản ngày càng nhiều với chất lượng cao hơn, phản ánh đời sống sản xuất và chiến đấu của quần chúng sâu sắc hơn trước. Về bảo vệ sức khỏe, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác vệ sinh, phòng bệnh, mở rộng mạng lưới phòng bệnh ở các cơ sở, chú ý việc bảo vệ sức khỏe của các bà mẹ và trẻ em. Đến nay, 70% số huyện ở miền Bắc đã có bệnh viện, các huyện khác đã có bệnh xá. Khoảng 90% số xã ở đồng bằng và 78% số xã ở miền núi đã có trạm y tế - hộ sinh, phần lớn do y sĩ phụ trách. Đội ngũ cán bộ y tế đã tăng lên rất lớn riêng số bác sĩ, dược sĩ, y sĩ từ năm 1960 đến năm 1965 đã tăng lên gần gấp năm lần. Trước tình hình mới, các tổ chức y tế của chúng ta đã được mở rộng và tăng cường, bám sát cơ sở sản xuất và các địa phương, phục vụ đắc lực sản xuất và chiến đấu.

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Phát huy thành quả của mười năm cải tạo và xây dựng kinh tế theo chủ nghĩa xã hội, với tinh thần chống Mỹ, cứu nước, nhân dân ta ở miền Bắc đã thực hiện thắng lợi kế hoạch năm 1965 và hoàn thành thắng lợi những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm thứ nhất. Trải qua những thử thách mà kẻ thù cho là chúng ta khó có thể chịu đựng nổi, nền kinh tế của ta vẫn tiếp tục phát triển, có những tiến bộ càng rõ rệt hơn cả những năm hòa bình. Năng lực sản xuất tăng thêm, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp được đẩy mạnh, mạch máu giao thông vận tải vẫn giữ vững. Trên cơ sở ấy, lực lượng quốc phòng của chúng ta tăng cường thêm, chiến tranh nhân dân được phát động mạnh mẽ và đều khắp. Đồng thời, đời sống của nhân dân ta ở miền Bắc, trong điều kiện chiến tranh, vẫn được bảo đảm, các sự nghiệp giáo dục, văn hóa vẫn được đẩy mạnh.

Nhìn lại việc thực hiện kế hoạch 5 năm thứ nhất và kế hoạch năm 1965, chúng ta vô cùng phấn khởi và tin tưởng.

Đã từng đánh bại phát xít Nhật và thực dân Pháp xâm lược, một lần nữa, chúng ta có quyết tâm rất cao để đánh thắng đế quốc Mỹ. Cùng với những kinh nghiệm và truyền thống chống ngoại xâm, ngày nay dân tộc ta lại có hậu phương vững mạnh là một nửa nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, gắn liền với hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, cho nên càng vững vàng bước vào cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước. Đồng bào miền Nam nước ta, vũ trang bằng lòng yêu nước và chí căm thù giặc, đã phát triển lực lượng của mình, đã đánh bại cuộc “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, đang tiếp tục đánh bại đội quân viễn chinh Mỹ cùng các lực lượng tay sai của chúng, cho nên cuộc chiến đấu của cả dân tộc ta chống đế quốc Mỹ xâm lược đang phát triển trên thế tiến công và thắng lợi. Xuất phát từ cơ sở thực tế nói trên, chúng ta khẳng định rằng: miền Bắc nước ta có đủ sức đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, phối hợp với đồng bào miền Nam để bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam; nhân dân cả nước ta có đủ sức để đánh bại hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược trong mọi tình thế để tiến tới thống nhất Tổ quốc.

Sự lãnh đạo đúng đắn về đường lối và sức mạnh sáng tạo của quần chúng nhân dân là nhân tố cơ bản quyết định mọi thành công của chúng ta. Nhờ có đường lối đúng đắn mà trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã giành được nhiều thắng lợi. Thắng lợi của chúng ta trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm thứ nhất và kế hoạch năm 1965, trong việc tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong việc phát triển kinh tế và văn hóa, đẩy mạnh sản xuất và chiến đấu, chứng minh rằng đường lối và phương hướng của Đảng đã đề ra là đúng đắn. Được đường lối đúng luôn luôn cổ vũ và bồi dưỡng thêm sức mạnh, nhân dân ta đã hăng hái tham gia thi đua yêu nước, “mỗi người làm việc bằng hai”, cống hiến phần lớn nhất cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Về phần các cơ quan nhà nước, trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm thứ nhất cũng như trong năm 1965, công tác tổ chức và sự chỉ đạo thực hiện của các cấp, các ngành cũng có những tiến bộ rất lớn. Đồng thời, chúng ta cũng đã có một số thiếu sót về việc chấp hành đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, và trong việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch. Đó là điều mà chúng ta phải hết sức cố gắng khắc phục để giành những thắng lợi to lớn hơn nữa.

Đánh giá đúng đắn những kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm thứ nhất và kế hoạch năm 1965, nhận rõ sức mạnh và các thắng lợi của ta, nhân dân ta sẽ càng phấn khởi tin tưởng trong việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế trước mắt, sẽ đẩy mạnh sản xuất và chiến đấu hơn nữa để đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược.

PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HAI NĂM 1966 - 1967
VÀ KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1966

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Để cứu vãn tình thế tuyệt vọng của chúng ở miền Nam nước ta, đế quốc Mỹ ồ ạt tăng thêm quân, đưa cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam sang một giai đoạn mới, đồng thời tăng cường chiến tranh phá hoại miền Bắc.

Trước tình hình mới, nhân dân ta ở miền Bắc có nhiệm vụ vừa đánh Mỹ, vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, động viên mọi lực lượng đẩy mạnh sản xuất và chiến đấu đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Đi đôi với việc tích cực bảo vệ miền Bắc, phải hết lòng hết sức ủng hộ đồng bào miền Nam đẩy mạnh cách mạng giải phóng miền Nam. Trong khi tập trung sức đối phó với chiến tranh phá hoại, vẫn phải tích cực chuẩn bị để đánh bại đế quốc Mỹ, nếu chúng liều lĩnh mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra cả nước ta.

Để bảo đảm nhiệm vụ cách mạng trước mắt, công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế phải quán triệt đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiếp tục thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện có chiến tranh, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố vững chắc quan hệ sản xuất mới. Trong khi chú trọng đáp ứng yêu cầu trước mắt của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, cần hết sức đẩy mạnh các công tác chuẩn bị cho việc xây dựng và phát triển kinh tế sau này.

Do đó, như đồng chí Thủ tướng đã nêu rõ, công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của miền Bắc trong những năm trước mắt phải nhằm giải quyết ba yêu cầu:

- Ra sức động viên mọi lực lượng, phát huy mọi khả năng tiềm tàng, bảo đảm yêu cầu của chiến tranh để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

- Bảo đảm các nhu cầu thiết yếu về đời sống, bồi dưỡng sức dân để sản xuất và chiến đấu lâu dài;

- Qua sản xuất và chiến đấu, làm cho nền kinh tế của ta càng thêm lớn mạnh.

Sản xuất và chiến đấu, đều là hai nhiệm vụ trọng tâm trước mắt của nhân dân miền Bắc. Sản xuất tốt là để phục vụ và thiết thực thúc đẩy chiến đấu, và chỉ có chiến đấu tốt mới bảo vệ và đẩy mạnh được sản xuất. Sản xuất và xây dựng được tiếp tục phát triển với những phương hướng và quy mô thích hợp, hậu phương được củng cố vững mạnh về kinh tế và chính trị, đó là điều kiện cơ bản để đưa cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi, đồng thời cũng là thiết thực chuẩn bị cho bước phát triển mới sau này.

Chúng ta phải ra sức bảo vệ và tăng cường các cơ sở vật chất và kỹ thuật, xúc tiến cuộc cách mạng kỹ thuật trong các ngành, đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật, tích cực phấn đấu tăng năng suất lao động, tạo điều kiện đẩy mạnh sản xuất. Bất kỳ tình hình nào cũng phải hết sức giữ vững và phát triển sản xuất nông nghiệp; bảo vệ và phát huy đến mức cao nhất năng lực của các xí nghiệp sẵn có; hết sức cố gắng bảo đảm giao thông vận tải.

Trong những năm trước mắt, phải tập trung sức xây dựng kinh tế địa phương, làm cho mỗi tỉnh có một nền kinh tế địa phương tương đối hoàn chỉnh, gắn chặt nông nghiệp, công nghiệp và giao thông vận tải trong địa phương, tạo điều kiện giải quyết hậu cần tại chỗ, bảo đảm mỗi tỉnh có thể tự cung tự cấp đến mức cao nhất các nhu cầu về sản xuất, chiến đấu và đời sống của nhân dân. Xây dựng kinh tế địa phương đồng thời cũng rất phù hợp với yêu cầu lâu dài về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, kinh tế do Trung ương quản lý vẫn cần được tăng cường và hết sức phát huy để giúp đỡ kinh tế địa phương và để bảo đảm các yêu cầu về sản xuất, chiến đấu trên toàn cục.

Trong khi tập trung sức giải quyết những yêu cầu cấp bách về xây dựng kinh tế thời chiến, chúng ta vẫn chú trọng đẩy mạnh các công tác điều tra, thăm dò, khảo sát, thiết kế, xúc tiến nghiên cứu kế hoạch dài hạn, ra sức đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật, chuẩn bị cơ sở cho bước phát triển mới về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa khi trở lại hòa bình kiến thiết.

Đi đôi với việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, cần tiếp tục hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố vững chắc quan hệ sản xuất mới. Quan trọng bậc nhất là phải thực hiện tốt cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp vòng hai, nâng cao thêm một bước trình độ quản lý hợp tác xã, đưa hợp tác xã từ bậc thấp lên bậc cao, mở rộng quy mô hợp tác xã và tiếp tục đưa những người còn làm ăn riêng lẻ vào hợp tác xã… Đối với các hợp tác xã thủ công nghiệp, cần đặc biệt chú trọng củng cố các hợp tác xã nghề cá, nghề muối, đóng thuyền, khai thác gỗ, v.v., giúp đỡ các hợp tác xã tăng cường công tác quản lý, cải tiến thiết bị, cải tiến công cụ sản xuất. Tiếp tục việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với người buôn bán nhỏ. Đẩy mạnh cuộc vận động “ba xây, ba chống” trong các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan nhà nước.

Để bảo đảm những yêu cầu rất lớn của nhiệm vụ vừa sản xuất vừa chiến đấu, chúng ta hết sức đề cao tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô trong mọi hoạt động. Phải làm cho mọi người nhận rõ sản xuất và tiết kiệm phải gắn chặt với nhau; phải đẩy mạnh sản xuất và triệt để thực hành tiết kiệm để tăng thêm sức chống Mỹ, cứu nước. Các ngành sản xuất, xây dựng và kinh doanh dùng nhiều vật tư, tiền vốn và sức lao động phải tăng cường công tác tổ chức thực hiện, quản lý chặt chẽ khâu phân phối sử dụng và dự trữ đúng chính sách, chế độ cố gắng giảm mức tiêu hao vật tư và lao động.

Về đời sống, trong khi phải dành nhiều lực lượng bảo đảm các nhu cầu của sản xuất và chiến đấu, chúng ta vẫn phải rất chú trọng chăm lo bồi dưỡng sức dân để bảo đảm sản xuất và chiến đấu lâu dài. Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất, tổ chức và quản lý tốt việc phân phối, chúng ta cần thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm những nhu cầu cơ bản kết hợp với việc phân phối theo lao động và mở rộng phúc lợi xã hội, chú trọng các mặt ăn, mặc, bảo vệ sức khỏe và học tập. Mặt khác, cần giáo dục cho nhân dân tinh thần đồng cam cộng khổ, tăng cường đoàn kết tương trợ, đề cao sinh hoạt giản dị, tiết kiệm.

Để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ cách mạng trước mắt của miền Bắc và các yêu cầu nói trên, kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế của chúng ta trong hai năm 1966 - 1967 có những nhiệm vụ sau đây:

1. Ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp địa phương, tăng cường năng lực kinh tế do các địa phương quản lý, nâng cao mức tự cung tự cấp, hết sức cố gắng giải quyết các nhu cầu về ăn, mặc, trang bị và sửa chữa, nhu cầu về một số nguyên liệu và các hàng tiêu dùng để đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu và bảo đảm đời sống của nhân dân ở từng tỉnh, từng vùng.

Tăng cường năng lực sản xuất công nghiệp do các bộ quản lý, tận dụng công suất của các xí nghiệp, đẩy mạnh sản xuất để giải quyết các nhu cầu về thiết bị, nguyên liệu, vật liệu và hàng tiêu dùng mà Trung ương phải phụ trách, tập trung sức giúp đỡ cho việc xây dựng và phát triển kinh tế địa phương.

2. Kiên quyết bảo đảm giao thông, thực hiện tốt cả ba mặt: bảo vệ, sửa chữa và vận tải; chú trọng tăng cường mạnh ngành vận tải thủy và vận tải thô sơ; tích cực cải tiến tổ chức và quản lý, phục vụ tích cực các yêu cầu vận tải giữa Trung ương và các địa phương, giữa trong nước và ngoài nước. Cần phát triển có trọng điểm hệ thống vận tải ở miền núi và hết sức phát triển giao thông vận tải nông thôn.

3. Tăng cường công tác thương nghiệp, tài chính và giá cả. Đề cao tiết kiệm, nâng cao mức động viên, tổ chức và cung cấp hợp lý, cố gắng bảo đảm xuất khẩu và quản lý tốt nhập khẩu, tích cực phục vụ sản xuất, chiến đấu và đời sống của nhân dân, chú trọng tăng thêm dự trữ các vật tư và hàng hóa thiết yếu.

4. Ra sức tăng năng suất lao động, trên cơ sở tiến hành rộng rãi cải tiến công cụ và trang bị kỹ thuật mới, thực hiện từng bước cách mạng kỹ thuật trong các ngành, động viên các nguồn nhân lực dự trữ, sắp xếp và sử dụng hợp lý lực lượng lao động, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật.

5. Tiến hành các công tác điều tra, thăm dò, khảo sát, thiết kế, chú trọng tăng cường lực lượng kỹ thuật, xúc tiến việc nghiên cứu kế hoạch dài hạn để chuẩn bị cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa sau này.

Dưới đây là phương hướng và nhiệm vụ cụ thể của các ngành kinh tế và văn hóa:

I- NÔNG NGHIỆP

Về nông nghiệp, phải tiếp tục quán triệt phương châm phát triển sản xuất toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất, tập trung sức giải quyết vấn đề lương thực và thực phẩm, bảo đảm nhu cầu của quân đội và nhân dân. Đồng thời hết sức cố gắng cung cấp đủ nguyên liệu nông sản cho công nghiệp và tăng thêm nguồn nông sản xuất khẩu.

Trước tình hình mới, chúng ta đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ sản xuất lương thực và thực phẩm, để bảo đảm đủ lương thực cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và tăng dần dự trữ cho Nhà nước, hợp tác xã và nhân dân. Từng địa phương cần cố gắng giải quyết tại chỗ các nhu cầu về lương thực, thực phẩm, trừ những vùng chuyên trồng cây công nghiệp và trồng rau. Những nơi sản xuất lương thực mà còn thiếu ăn, phải hết sức đẩy mạnh sản xuất để tự giải quyết; các nơi chuyên trồng lúa, phải hết sức đẩy mạnh sản xuất để cung cấp thêm ngày càng nhiều lương thực cho Nhà nước.

Về lúa, hướng chính là thâm canh tăng năng suất để tăng thêm sản lượng. Thời bình, chúng ta đã đề ra yêu cầu đạt 5 tấn thóc trở lên một hécta, lúc này, yêu cầu đó lại càng trở nên cấp bách. Trong vài ba năm tới, các vùng trọng điểm lúa của các tỉnh đồng bằng phải phấn đấu đạt mục tiêu ấy. Đạt 5 tấn trên một hécta chúng ta sẽ có điều kiện cung cấp lương thực cho quân đội và nhân dân ăn no đánh thắng, lại có cơ sở để phát triển nông nghiệp một cách toàn diện. Chúng ta phải hết sức cố gắng có thêm nhiều hợp tác xã 5 tấn, nhiều huyện 5 tấn, nhiều tỉnh 5 tấn, hình thành những vùng lúa có năng suất cao và ổn định. Thực tế trong năm 1965 đã chứng minh rõ khả năng ấy, nếu chúng ta biết phát huy cao độ khả năng của hợp tác xã, đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất.

Về hoa màu, cũng phải rất chú trọng tăng năng suất, nhất là về khoai lang, đồng thời cố gắng mở thêm diện tích, tạo cơ sở thức ăn phát triển chăn nuôi, làm cho trồng trọt và chăn nuôi ngày càng cân đối tốt hơn, tạo điều kiện đẩy mạnh thâm canh và phát triển nông nghiệp toàn diện.

Bên cạnh lương thực, các loại rau, đậu có vị trí rất quan trọng. Cần gây thành tập quán sản xuất nhiều rau, đậu ở thôn, xóm; xây dựng những vùng thực phẩm mới, đủ rau cung cấp cho những cơ sở công nghiệp, đơn vị bộ đội, công trường, v.v..

Cần hết sức chú trọng đẩy mạnh chăn nuôi lợn, gà, vịt, cá và các loại gia súc khác, để tăng thêm nguồn thực phẩm. Phải tích cực giải quyết vấn đề thức ăn, phấn đấu nâng số đầu lợn và trọng lượng lợn, tiếp tục đẩy mạnh chăn nuôi của gia đình xã viên và chăn nuôi tập thể, làm cho nhiều hợp tác xã đạt hai con trở lên trên một hécta gieo cấy. Các hợp tác xã phải nuôi cá một cách phổ biến, chú trọng thâm canh tăng năng suất và cải tạo ao, hồ để tăng thêm diện tích nuôi cá.

Cần hết sức chú ý phát triển chăn nuôi trâu bò ở miền núi và trung du, kết hợp chăn nuôi trâu bò cày kéo với trâu bò sinh sản ở đồng bằng.

Cây công nghiệp cần được chú trọng thâm canh tăng năng suất và nâng cao chất lượng, bảo đảm đủ nguyên liệu cho công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương. Cần coi trọng việc tăng thêm diện tích những cây có giá trị, chú trọng lạc, đỗ tương, thuốc lá, sở, chè,… tích cực xây dựng vùng sản xuất đỗ tương có năng suất cao. Việc trồng cây làm thuốc cần được chú ý đẩy mạnh.

Công tác trồng cây, gây rừng cần được đặc biệt chú ý đẩy mạnh, tiếp tục thực hiện quy hoạch trồng rừng đã đề ra, bảo đảm cung cấp gỗ chống lò, chuẩn bị nguyên liệu cho việc sản xuất sợi nhân tạo và cung cấp gỗ cho các nhu cầu của sản xuất, xây dựng và đời sống của nhân dân. Trong hai năm tới, các tỉnh ven biển phải căn bản trồng xong cây phòng hộ. Ở các tỉnh vùng đồng bằng, phải rút kinh nghiệm và đẩy mạnh việc trồng cây phòng hộ kết hợp với phong trào làm bờ vùng, bờ thửa.

Trong thời gian tới, phải hết sức đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất: tích cực xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho nông nghiệp, áp dụng phổ biến các biện pháp kỹ thuật tiên tiến đưa nông nghiệp đi dần vào quy trình sản xuất và tiêu chuẩn kỹ thuật, hết sức chú trọng bảo đảm thời vụ. Trong các biện pháp kỹ thuật, thủy lợi vẫn là biện pháp hàng đầu cần được chú trọng. Mấy năm qua, chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm làm thủy lợi và thu được thành tích lớn. Trên cơ sở ấy, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng các công trình thủy lợi, nhất là loại vừa và nhỏ, hoàn chỉnh các công trình đã đưa vào sử dụng, kết hợp với xây dựng đồng ruộng, bảo đảm trong hai năm, tạo ra những vùng rộng lớn được tưới nước và tiêu nước một cách chủ động và có điều kiện thâm canh đạt và vượt 5 tấn thóc một hécta, trước hết là ở những vùng trọng điểm lúa; bảo đảm tưới nước chắc chắn cho 80% diện tích lúa, 50% diện tích hoa màu và 60% diện tích cây công nghiệp, mở rộng diện tích tưới nước, tiêu nước chủ động và chống úng. Thực hiện các công tác dự phòng để chủ động đối phó với địch, nếu chúng liều lĩnh phá hoại đê điều và các công trình thủy lợi. Cần hết sức coi trọng và đẩy mạnh phong trào làm phân bón, coi đó là biện pháp rất quan trọng để bảo đảm năng suất cây trồng. Các hợp tác xã cần khai thác và chế biến nguồn phân dồi dào ở địa phương, chú ý đặc biệt phân hữu cơ, tăng số lượng và chất lượng phân chuồng, tận dụng phân bắc, nước giải, phát triển rất mạnh bèo hoa dâu và các loại cây phân xanh, cần quy hoạch tốt việc sản xuất và phân phối, tăng thêm nhiều vôi để cải tạo đất.

Cần coi trọng việc sử dụng công cụ cải tiến, trong năm 1966 có đủ cào cỏ cải tiến để căn bản giải quyết việc làm cỏ trên toàn bộ vụ mùa cấy thẳng hàng. Chúng ta tích cực để phấn đấu trong hai năm 1966 - 1967 căn bản hoàn thành việc trang bị cơ khí nhỏ cho các hợp tác xã nông nghiệp. Đưa cơ khí nhỏ vào hợp tác xã là một bước đầu quan trọng mở đường cho việc sử dụng máy móc, tạo cơ sở xúc tiến cuộc cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp. Với hàng vạn cơ sở cơ khí nhỏ, chúng ta sẽ có điều kiện tăng năng suất lao động, dành số lao động dôi ra để thâm canh tăng năng suất, phát triển nông nghiệp toàn diện, đồng thời lại bảo đảm yêu cầu về nhân lực cho việc xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng. Mặt khác, để bảo đảm năng suất, cần chú trọng tuyển lựa, dùng phổ biến các loại giống tốt. Cần tập trung sức phòng, trừ bệnh vàng lụi và các loại sâu bệnh, tăng cường mạng lưới dự tính, dự báo sâu bệnh tăng cường chăm sóc đồng ruộng, phát hiện và trừ kịp thời các ổ sâu bệnh mới phát; chú trọng cung cấp thuốc trừ sâu và bơm, hướng dẫn cách dùng bơm và cách sửa chữa cho hợp tác xã.

Miền núi nước ta có vị trí rất quan trọng về kinh tế và quốc phòng. Phát triển toàn diện kinh tế miền núi, xây dựng căn cứ địa miền núi là một nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước hiện nay. Đi đôi với việc phát huy khả năng của miền núi, trong hai năm tới, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi. Cùng với việc đưa thêm người lên, cần củng cố tốt những cơ sở sản xuất của hợp tác xã khai hoang hiện có.

Để bảo đảm nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp, khâu công tác có ý nghĩa quyết định là phải tiếp tục củng cố hợp tác xã, làm tốt cuộc vận động cải tiến quản lý vòng hai. Qua cuộc vận động, giác ngộ xã hội chủ nghĩa của nông dân xã viên được nâng cao, cơ sở vật chất và kỹ thuật của hợp tác xã được tăng cường, quy mô hợp tác xã được mở rộng lên 100 - 200 hécta, v.v., đó là những cơ sở để bảo đảm các nhiệm vụ về sản xuất nông nghiệp và tăng cường sức chiến đấu ở nông thôn.

Trong các nông trường quốc doanh, cần tiếp tục củng cố, đẩy mạnh thâm canh, nâng cao năng suất cây trồng, tăng trọng lượng gia súc và chất lượng sản phẩm chế biến, cung cấp nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Nông trường phải tích cực làm gương cho hợp tác xã về mọi mặt, phổ biến các kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, cung cấp giống tốt về cây trồng và gia súc.

II- CÔNG NGHIỆP

Trong các năm tới, công nghiệp phải gắn rất chặt với yêu cầu phát triển của nông nghiệp, phục vụ đắc lực cuộc cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp. Phải tập trung phục vụ giao thông vận tải, đáp ứng nhu cầu sửa chữa và tăng mạnh phương tiện vận tải và bốc dỡ, nhất là phương tiện vận tải đường thủy. Phải cố gắng đẩy mạnh việc trang bị cho công nghiệp địa phương, coi trọng phục vụ đời sống, phục vụ quốc phòng và xuất khẩu.

Để thực hiện những nhiệm vụ nói trên, chúng ta phải ra sức phấn đấu trên ba mặt: tích cực bảo vệ và phát huy năng lực sản xuất của các xí nghiệp sẵn có, đẩy mạnh xây dựng công nghiệp
địa phương và quan tâm đúng mức việc xây dựng công nghiệp Trung ương.

Kết hợp các biện pháp phòng thủ tích cực và phòng không nhân dân, chúng ta phải tích cực bảo vệ các xí nghiệp sẵn có; đó là chỗ dựa chủ yếu trước mắt để bảo đảm các yêu cầu về sản xuất và chiến đấu. Các xí nghiệp cần tăng cường thiết bị và vật liệu, dự phòng, tăng cường lực lượng sửa chữa để kịp thời khôi phục sản xuất khi bị địch bắn phá; mặt khác, phải đẩy mạnh tăng năng suất lao động, phát huy đến mức cao nhất năng lực sản xuất, thực hiện tốt kế hoạch nhà nước.

Về xây dựng mới, hướng quan trọng bậc nhất là phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương, tranh thủ trong vài ba năm tới xây dựng cho được ở mỗi khu vực, mỗi tỉnh có những cơ sở công nghiệp cần thiết, với quy mô nhỏ là chủ yếu, làm cho mỗi tỉnh tự mình có thể giải quyết đến mức cao nhất các nhu cầu trong địa phương, trước hết là nhu cầu về tư liệu sản xuất cho nông nghiệp, cho giao thông vận tải và các hàng tiêu dùng thông thường. Đẩy mạnh công nghiệp địa phương, chúng ta sẽ phân bố hợp lý, đều đặn hơn lực lượng sản xuất ở các vùng, làm cho nông nghiệp và công nghiệp địa phương gắn chặt với nhau, tạo cơ sở vững chắc cho việc tăng cường kinh tế địa phương, góp phần quan trọng bảo đảm thực hiện nhiệm vụ vừa đánh Mỹ vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo phương hướng nói trên, vốn đầu tư vào công nghiệp địa phương trong năm 1966 tăng hơn gấp đôi so với năm 1965 nhằm trang bị cho các xưởng cơ khí tỉnh, xây dựng một số xưởng đóng thuyền khai thác than, sản xuất xi măng, vôi, nghiền apatít, sản xuất giấy và một số xưởng sản xuất thực phẩm như chế biến hoa màu, đường, rượu, mì, chè, kẹo. Cùng với việc xây dựng công nghiệp quốc doanh địa phương, chúng ta vẫn coi trọng việc cải tiến thiết bị, cải tiến công cụ sản xuất, tăng cường lực lượng cho các hợp tác xã sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, nhất là đối với các ngành đánh cá, làm muối, khai thác gỗ, đóng thuyền, v.v..

Trong khi chuyển mạnh việc xây dựng công nghiệp địa phương, chúng ta vẫn tiếp tục xây dựng công nghiệp Trung ương với biện pháp và quy mô thích hợp, chú trọng tăng thêm thiết bị để mở rộng sản xuất ở một số xí nghiệp có điều kiện. Năng lực sản xuất của công nghiệp do trung ương quản lý, nhất là các ngành cơ khí, điện, than cần được tăng cường để đáp ứng yêu cầu trước mắt, thúc đẩy mạnh mẽ cuộc cách mạng kỹ thuật trong các ngành sản xuất, đồng thời chuẩn bị một bước cho yêu cầu phát triển kinh tế trong những năm sắp tới.

Về mặt sản xuất, cần hết sức đẩy mạnh phong trào thi đua "mỗi người làm việc bằng hai”, ra sức tăng năng suất lao động, hạ giá thành và bảo đảm chất lượng sản phẩm để cung cấp kịp thời cho các nhu cầu của sản xuất, xây dựng, phục vụ quốc phòng và đời sống của nhân dân.

Cơ khí là ngành then chốt, với năng lực thiết bị được tăng cường, phải hết sức đẩy mạnh sản xuất. Hướng chính là phải tập trung giải quyết nhu cầu của nông nghiệp như bơm nước, máy phát lực, các máy móc nhỏ, xe cải tiến và các loại công cụ. Để phục vụ giao thông, phải phát triển mạnh các loại phương tiện vận tải, chủ yếu là các phương tiện vận tải thủy như ca nô, tàu kéo, sà lan, thuyền gỗ, đồng thời chú trọng sản xuất các loại phụ tùng, các phương tiện bốc dỡ. Đi đôi với việc tăng thêm nhiều các loại máy công cụ, máy rèn, dập, cần cố gắng sản xuất kịp thời các loại thiết bị lẻ và các thiết bị toàn bộ cho các xí nghiệp nhỏ của công nghiệp địa phương.

Ngành điện cần tập trung sức giải quyết các yêu cầu quan trọng bậc nhất, tăng thêm các đường dây và trạm biến thế để tăng cường và mở rộng lưới điện; tăng thêm các phương tiện dự phòng, chuẩn bị vật liệu, thiết bị, phụ tùng thay thế và nhiên liệu dự trữ, hết sức cố gắng bảo đảm nguồn điện.

Ngành than phải giải quyết tốt vấn đề vận chuyển đi đôi với cố gắng về khai thác, bảo đảm sản lượng than cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Cần tích cực thực hiện việc cung cấp một phần than cho nông thôn để dùng vào việc đun nấu, dành rơm cho trâu bò và rạ để bón ruộng.

Về phân lân, thuốc trừ sâu, phải hết sức cố gắng đáp ứng yêu cầu của sản xuất nông nghiệp, chú trọng đẩy mạnh khai thác các nguồn phân khoáng địa phương.

Đi đôi với việc bảo đảm sản lượng xi măng, phải tổ chức hợp lý việc sản xuất vôi, gạch, ngói để cung cấp cho nhu cầu xây dựng cơ bản của các khu vực, đặc biệt chú trọng cung cấp thêm nhiều vôi để cải tạo đất.

Vấn đề rất quan trọng là phải đẩy mạnh khai thác và vận chuyển gỗ, tập trung giải quyết các yêu cầu cấp bách cho sản xuất và xây dựng. Việc cung cấp tre, nứa, luồng phải được chú trọng. Cố gắng giải quyết nguyên liệu cho ngành giấy, đẩy mạnh sản xuất giấy cung cấp cho học sinh và các nhu cầu khác.

Các ngành công nghiệp nhẹ cần hết sức phát huy khả năng, đẩy mạnh sản xuất phục vụ tốt những nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, bảo vệ sức khỏe và học tập của nhân dân, đáp ứng tốt nhu cầu của quân đội. Cần khai thác nguồn nguyên liệu địa phương, phát triển sản phẩm địa phương, bảo đảm tự cung tự cấp được những hàng tiêu dùng thông thường cho địa phương.

Ngành công nghiệp thực phẩm phải tập trung sức đẩy mạnh sản xuất muối, bảo đảm sản lượng cá biển và nước mắm, tăng thêm sản lượng đường và các loại hàng thực phẩm khác. Ngành dệt cần phải hết sức phát huy năng lực sẵn có để giải quyết nhu cầu về vải, chăn và các loại hàng may mặc khác.

III- GIAO THÔNG VẬN TẢI

Trong chiến tranh, giao thông vận tải giữ một vai trò chiến lược, có tác dụng quyết định đối với sản xuất, chiến đấu và đời sống của nhân dân. Với quyết tâm đánh bại chiến tranh phá hoại của địch trên mặt trận giao thông vận tải, chúng ta tập trung sức vào việc bảo đảm giao thông để đáp ứng yêu cầu vận tải, phục vụ tốt sản xuất và chiến đấu, nhất là trên những tuyến đường chủ yếu.

Trong công tác bảo đảm giao thông, năm 1965 chúng ta đã có nhiều thành tích và thu được nhiều kinh nghiệm rất tốt. Trong những năm tới, phát huy thắng lợi đã giành được, cần tăng cường các công trình dự phòng; tăng thêm các loại vật tư, phương tiện, thiết bị cần thiết và tổ chức hợp lý nhân lực cần thiết để nhanh chóng sửa chữa, khôi phục cầu, đường, bảo đảm giao thông thông suốt liên tục. Trên từng vùng, từng khu vực và từng tuyến, phải tùy theo tình hình cụ thể mà sử dụng hợp lý các phương thức vận tải để bảo đảm yêu cầu vận tải.

Về mặt vận tải, cần tập trung sức tăng cường các khâu tổ chức chỉ đạo, quản lý cho phù hợp với tình hình thời chiến, nhằm khai thác tốt tiềm lực sẵn có, phấn đấu nâng cao năng suất lao động, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí.

Chúng ta hết sức chú trọng phát triển vận tải địa phương, đặc biệt tăng cường phương tiện vận tải đường thủy và vận tải thô sơ. Đi đôi với việc phát triển vận tải quốc doanh địa phương, cần giúp đỡ, khuyến khích các hợp tác xã vận tải chuyên nghiệp tăng thêm lực lượng, khuyến khích các hợp tác xã nông nghiệp xây dựng lực lượng vận tải không chuyên nghiệp để có đủ sức bảo đảm các yêu cầu về vận tải ở các địa phương.

Trong tình hình chiến tranh, giao thông vận tải nông thôn và miền núi trở nên hết sức quan trọng. Dựa vào lực lượng nhân dân, chúng ta tiếp tục ra sức đẩy mạnh phát triển giao thông vận tải, nông thôn và miền núi, phát triển đường sá và phương tiện vận tải, giải phóng đôi vai, giảm bớt sức lao động bỏ vào việc gánh, gồng, mang, đội trong sản xuất nông nghiệp.

Chúng ta tiếp tục nâng cao chất lượng công tác bưu điện, truyền thanh, mở rộng và cải tạo mạng lưới thông tin liên lạc phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.

IV- XÂY DỰNG CƠ BẢN

Trong hai năm 1966 - 1967, vốn đầu tư xây dựng các ngành kinh tế và văn hóa được chú trọng tăng thêm, trước hết là nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, đồng thời chuẩn bị điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trong các năm sau. Việc phân phối vốn được tập trung nhằm các hướng: đẩy mạnh xây dựng cơ bản về nông nghiệp, nhất là thủy lợi, để phục vụ đắc lực yêu cầu thâm canh tăng năng suất; tiếp tục xây dựng công nghiệp, nhất là phát triển mạnh công nghiệp địa phương; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cơ bản về giao thông vận tải, bảo đảm giao thông tốt hơn; tiếp tục xây dựng kho tàng; đồng thời tăng mạnh đầu tư cho công tác thăm dò địa chất…

Trong khi tăng thêm nhiều vốn đầu tư để đáp ứng các yêu cầu, chúng ta phải đặc biệt chú trọng cải tiến công tác quản lý xây dựng cơ bản nhằm đưa lại hiệu quả kinh tế lớn nhất. Phải tăng cường các công tác khảo sát, thiết kế và tổ chức chỉ đạo thi công trên các công trường, khắc phục mọi lãng phí về sử dụng lực lượng lao động, thiết bị, vật liệu xây dựng và tiền vốn. Bảo đảm đủ công cụ, tích cực tăng thêm các loại công cụ cải tiến, nhất là đối với các công trường làm thủy lợi và làm đường. Phải không ngừng nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành xây dựng, bảo đảm công trình sớm đưa vào sử dụng với chất lượng tốt.

V- LƯU THÔNG - PHÂN PHỐI

Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất, chúng ta đặc biệt coi trọng tăng cường công tác lưu thông - phân phối. Phương hướng chung của các ngành tài chính, thương nghiệp và giá cả là phải đề cao nghĩa vụ của nhân dân đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, tập trung cao độ nhân lực, vật lực, tài lực để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược; đồng thời quan tâm phục vụ tốt hơn nữa đời sống của nhân dân, bảo đảm các nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, bảo vệ sức khỏe và học tập, bồi dưỡng sức dân để sản xuất và chiến đấu lâu dài. Trong công tác phân phối, cần hết sức chú trọng thực hành tiết kiệm.

Phát huy mạnh mẽ chức năng của mình, các ngành tài chính, thương nghiệp và giá cả phải tăng cường hơn nữa nhiệm vụ phục vụ và thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy cách mạng kỹ thuật trong các ngành kinh tế quốc dân và sự phân công lao động mới trong xã hội nhất là đối với nông nghiệp, công nghiệp địa phương và giao thông vận tải, làm cho kinh tế địa phương phát triển tương đối hoàn chỉnh, trên cơ sở ấy, tổ chức và lãnh đạo thị trường địa phương, phấn đấu bảo đảm đến mức cao nhất các nhu cầu tại địa phương; giữ vững và phát triển giao lưu hàng hóa giữa các vùng, các địa phương trong nước, giữa trong nước và nước ngoài.

Công tác nội thương có nhiệm vụ phục vụ tốt hơn nữa các ngành sản xuất, bảo đảm việc thu mua lương thực, thực phẩm và các nông sản khác, tổ chức phân phối hợp lý theo kế hoạch; tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những người buôn bán nhỏ, tăng cường việc quản lý thị trường. Về mặt giá cả, cần tiếp tục thực hiện tốt cho phù hợp với tình hình mới phương châm kiên quyết bình ổn vật giá để tạo điều kiện ổn định sản xuất, tiền tệ và đời sống của nhân dân, mạnh dạn điều chỉnh những giá không hợp lý và phấn đấu giảm giá hàng.

Ngành lương thực cần làm tốt công tác thu mua và cung cấp lương thực: trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất và hết sức tiết kiệm tiêu dùng, cần bảo đảm kế hoạch huy động lương thực, chú trọng tăng thêm dự trữ nhà nước, xây dựng dự trữ cho địa phương và hợp tác xã. Công tác phân phối lương thực, cần được quản lý chặt chẽ theo đúng chính sách, chống tham ô, lãng phí. Đi đôi với lương thực, thực phẩm là nhu cầu rất quan trọng cần đẩy mạnh thu mua, thực hiện tốt các chỉ tiêu về thịt, cá, rau, trứng, lạc, đỗ tương,… đồng thời đẩy mạnh việc khai thác và kinh doanh các loại thực phẩm khác. Mặt khác, chú ý làm tốt việc cung cấp chất đốt cho bộ đội, công trường, thành phố và khu công nghiệp.

Về các hàng tiêu dùng thiết yếu, chúng ta cố gắng bảo đảm cung cấp vải mặc, áo rét, chăn, chiếu; giải quyết nhu cầu về giấy viết, sách giáo khoa và các đồ dùng khác cho học sinh; tổ chức tốt việc cung cấp thuốc chữa bệnh để bảo vệ sức khỏe; đẩy mạnh việc sản xuất, thu mua và cung cấp tre, nứa, lá, tranh, gạch, ngói, xi măng cho hợp tác xã và nhân dân.

Để làm trọn các nhiệm vụ trên đây, phải tiếp tục mở rộng và củng cố thị trường xã hội chủ nghĩa thống nhất, tăng cường thương nghiệp quốc doanh trên các mặt còn yếu và ở các vùng trọng điểm. Hợp tác xã mua bán cần được củng cố và mở rộng, làm trợ thủ đắc lực cho mậu dịch quốc doanh ở thị trường nông thôn. Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với người buôn bán nhỏ. Chú trọng nghiên cứu tổ chức và lãnh đạo các chợ nông thôn thích hợp với tình hình mới.

Về ngoại thương, trước yêu cầu mới, để bảo đảm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, đồng thời tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải nhập khẩu và tiếp nhận viện trợ một khối lượng vật tư rất lớn. Ngành Ngoại thương phải tăng cường công tác nhập khẩu, cố gắng giải quyết kịp thời các nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, bảo vệ sản xuất và chiến đấu. Công tác xuất khẩu phải được hết sức coi trọng, hướng phấn đấu của chúng ta là cùng với các mặt hàng công nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản, nhất là nông sản đã qua chế biến, khai thác tốt khả năng hàng xuất khẩu của địa phương.

VI- LAO ĐỘNG, CÁN BỘ VÀ CÔNG NHÂN KỸ THUẬT

Về lao động, trong những năm tới, chúng ta phải đẩy mạnh tăng năng suất lao động, động viên có kế hoạch mọi lực lượng dự trữ về nhân lực, nhằm tập trung bảo đảm yêu cầu lao động cho sản xuất và chiến đấu. Kết hợp với việc động viên và phân phối sức lao động, cần tạo một sự chuyển biến lớn trong việc tổ chức và sử dụng lực lượng lao động xã hội để đạt tới một sự phân công lao động mới phù hợp với yêu cầu cách mạng trước mắt và sau này.

Để đáp ứng nhu cầu về lao động cho các nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu đang tăng lên rất lớn, việc tăng năng suất lao động trong các ngành kinh tế là một yêu cầu rất cấp thiết. Chúng ta cần tính toán chặt chẽ nhu cầu lao động của các ngành sản xuất và chiến đấu để số lao động rút khỏi sản xuất nông nghiệp hàng năm ở một mức độ hợp lý, giữ mức lao động cần thiết cho nông nghiệp thâm canh tăng năng suất và phát triển các ngành nghề. Cần tích cực trang bị rộng rãi các loại công cụ lao động cải tiến, công cụ cơ khí và nửa cơ khí cho các ngành. Cần phổ biến và tích cực áp dụng các sáng kiến hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật, cải tiến công cụ. Cần hết sức chú trọng việc tăng cường quản lý lao động ở các cấp, các ngành, các cơ sở.

Công tác đào tạo công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên nghiệp cần được đẩy mạnh, với quy mô lớn, bảo đảm yêu cầu của sản xuất và chiến đấu, cho yêu cầu trước mắt và yêu cầu sau này.

Đối với công nhân, chúng ta vừa đẩy mạnh việc đào tạo trong thời gian ngắn, vừa coi trọng việc đào tạo theo chương trình có hệ thống, dài ngày hơn; vừa tích cực đẩy mạnh việc đào tạo trong nước, vừa gửi công nhân ra đào tạo ở nước ngoài. Ngoài các trường công nhân, cần tổ chức một cách phổ biến các lớp đào tạo công nhân bên cạnh xí nghiệp và có kế hoạch nâng cao trình độ nghề nghiệp của công nhân đang sản xuất.

Trong việc đào tạo cán bộ kỹ thuật, cần chú trọng bậc đại học và các bậc cao hơn; đồng thời tăng nhanh việc đào tạo cán bộ ở bậc trung học chuyên nghiệp, vừa đáp ứng các nhu cầu cấp bách của việc phát triển nông nghiệp, công nghiệp địa phương và phục vụ quốc phòng, vừa bảo đảm lực lượng kỹ thuật nòng cốt cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội khi trở lại hòa bình kiến thiết.

VII- VĂN HÓA, GIÁO DỤC, Y TẾ

Trong tình hình mới, công tác văn hóa, thông tin phải được phát triển, nhằm phục vụ việc giáo dục chính trị, tư tưởng, phổ biến đường lối chính sách, phổ biến khoa học kỹ thuật, nâng cao lòng yêu nước, chí căm thù giặc của nhân dân, làm cho mọi người hăng hái sản xuất và chiến đấu. Công tác văn hóa cần chú trọng hướng mọi hoạt động phục vụ đơn vị cơ sở; đặc biệt chú ý đẩy mạnh công tác văn hóa quần chúng.

Sự nghiệp giáo dục phải được tiếp tục phát triển mạnh mẽ và vững chắc. Bổ túc văn hóa vẫn là công tác hàng đầu, để tiếp tục nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân lao động, trước hết là công nhân kỹ thuật, cán bộ xã và xã viên hợp tác xã, nhất là trong thanh niên. Về giáo dục phổ thông, chúng ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ mẫu giáo, vỡ lòng; trong hai năm tới, tiếp tục đẩy mạnh phổ cập cấp I cho thiếu niên miền xuôi và vùng thấp ở miền núi, phát triển vững chắc cấp II và cấp III, tích cực đưa trường cấp II về cho xã quản lý và trường cấp III về cho huyện quản lý. Chúng ta chú trọng tăng cường thiết bị cho các trường phổ thông, bảo đảm cung cấp đủ sách giáo khoa, tiếp tục nâng cao trình độ cho giáo viên.

Công tác y tế, bảo vệ sức khỏe phải được phát triển mạnh để phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Ngành Y tế cần ra sức phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, tinh thần hy sinh dũng cảm, phục vụ nhân dân, phục vụ quân đội, nắm vững phương châm phòng bệnh là chính, kết hợp chặt chẽ đông y và tây y. Cần chú ý tăng cường tuyến y tế ở huyện, xã và hợp tác xã. Để bảo đảm nhiệm vụ ấy cần đẩy mạnh hơn nữa phong trào vệ sinh phòng bệnh rộng rãi trong nhân dân. Tiếp tục củng cố và phát huy những thành quả đạt được trong công tác chống các bệnh lao, phong, sốt rét, mắt hột, tiến lên đạt những thành tựu mới. Đẩy mạnh công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ em, đẩy mạnh công tác bảo vệ sức khỏe cho cán bộ, công nhân, viên chức. Cần tăng cường công tác điều trị, cấp cứu ở các xã và các xí nghiệp, công trường, nông trường. Chúng ta phấn đấu để trong vài năm, tất cả các xã đều có trạm y tế - hộ sinh, và có y sĩ phụ trách; tất cả các huyện đều có bệnh viện. Cần làm tốt hơn nữa công tác sản xuất, phân phối, dự trữ thuốc và dụng cụ y tế, nhất là các loại thuốc cấp cứu chấn thương và thuốc chống dịch. Đẩy mạnh trồng cây thuốc, thu mua thuốc với giá thích hợp.

Phong trào thể dục thể thao cần được đẩy mạnh, lấy thể thao quốc phòng làm trọng tâm để không ngừng tăng cường sức khỏe của nhân dân, bảo đảm sản xuất và chiến đấu lâu dài.

PHẦN THỨ BA

ĐỘNG VIÊN LỰC LƯỢNG TOÀN DÂN, ĐẨY MẠNH
CÁCH MẠNG KỸ THUẬT, CẢI TIẾN CÔNG TÁC QUẢN LÝ KINH TẾ, PHẤN ĐẤU THỰC HIỆN THẮNG LỢI NHIỆM VỤ KINH TẾ TRƯỚC MẮT


PHÁT HUY CAO ĐỘ CHỦ NGHĨA ANH HÙNG CÁCH MẠNG, TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH BẤT KHUẤT CỦA DÂN TỘC TA

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Nhân dân ta đang sống và đấu tranh trong một thời kỳ vẻ vang nhất của dân tộc ta. Đế quốc Mỹ ỷ vào đôla và vũ khí, định bắt nhân dân ta phải cúi đầu khuất phục chúng. Nhưng thời đại ngày nay đã là thời đại của nhân dân lao động đứng lên làm chủ. Nhân dân Việt Nam, ở cả hai miền Nam - Bắc đã ở thế tiến công liên tục, dám đánh và quyết đánh thắng đế quốc Mỹ, như Hồ Chủ tịch kính mến đã nói: “Một dân tộc đoàn kết chặt chẽ, đấu tranh kiên quyết, hoàn toàn có thể đánh bại bọn đế quốc xâm lược hung hãn, gian ác và có nhiều vũ khí”.

Sắp tới, do bản chất xâm lược và hiếu chiến của chúng, đế quốc Mỹ sẽ tăng cường chiến tranh ác liệt hơn, hòng cứu vãn thế thất bại của chúng. Chúng ta không thể lơ là cảnh giác, luôn luôn tỉnh táo đề phòng và sẵn sàng giáng cho chúng những đòn nặng nề hơn nữa. Nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và phát triển thế chủ động trên các chiến trường, có lực lượng và điều kiện để đánh bại mọi âm mưu của địch. Bất kể trong tình huống nào, đế quốc Mỹ cũng không thể lay chuyển được quyết tâm của nhân dân ta giành thắng lợi hoàn toàn.

Chúng ta bước vào cuộc kháng chiến cứu nước lần thứ hai với những cơ sở vững chắc hơn trước nhiều. Kết quả của 11 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc đã tạo cho chúng ta những nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi tất yếu của chúng ta trong thời gian tới. Qua một năm đương đầu với đế quốc Mỹ, điều làm cho chúng ta vô cùng phấn khởi là chiến tranh không hề ngăn cản chúng ta tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trái lại, chính trong chiến tranh, và để chiến thắng, mà chúng ta đã lớn mạnh thêm lên về mọi mặt.

Trong phong trào chống Mỹ, cứu nước, quần chúng nhân dân đã đem hết sức mình để sản xuất và chiến đấu, đã phát huy mạnh mẽ truyền thống yêu nước và đấu tranh bất khuất của dân tộc ta, nêu cao những tấm gương sáng chói của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Trước yêu cầu mới, chúng ta tiếp tục động viên mạnh mẽ lực lượng của toàn dân, đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua yêu nước lấy đó làm động cơ chủ yếu để thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước. Trong năm 1966, nhiệm vụ của phong trào thi đua là đẩy mạnh sản xuất, bảo vệ sản xuất, anh dũng chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, quyết tâm hoàn thành thắng lợi kế hoạch nhà nước trong bất cứ tình huống nào; qua phong trào thi đua, tăng cường việc rèn luyện và xây dựng con người mới, tập thể lao động mới, bồi dưỡng những phần tử ưu tú thành cán bộ quản lý, cán bộ lãnh đạo các cấp; và trong mọi hoàn cảnh, cần phải ra sức cải thiện điều kiện lao động, cố gắng tổ chức tốt đời sống của nhân dân.

Công tác lãnh đạo phong trào thi đua cần được tăng cường, cần thống nhất việc lãnh đạo thi đua ở các cấp, gắn liền công tác chỉ đạo thi đua với công tác chỉ đạo sản xuất và chiến đấu, làm cho mọi người cống hiến được phần lớn nhất cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

ĐẨY MẠNH CUỘC CÁCH MẠNG KỸ THUẬT
TRONG CÁC NGÀNH, PHẤN ĐẤU NÂNG CAO
NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG, HẾT SỨC ĐỀ CAO TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ, THAM Ô

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Đặc điểm mới nổi bật của cuộc chiến tranh yêu nước lần này là nhân dân ta đã kết hợp chặt chẽ sản xuất và chiến đấu; và trong sản xuất, chiến đấu, đã kết hợp chặt chẽ chí quyết tâm, lòng dũng cảm với những hiểu biết ngày càng nâng cao về kỹ thuật. Để đẩy mạnh sản xuất, chúng ta thường xuyên xúc tiến ba cuộc cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật và cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng kỹ thuật là then chốt, là cái chìa khóa để tăng năng suất lao động, mở đường cho sản xuất phát triển và đưa cách mạng về quan hệ sản xuất, về tư tưởng và văn hóa tiếp tục tiến lên.

Tình hình và nhiệm vụ mới càng đòi hỏi chúng ta phải đi sâu vào khoa học - kỹ thuật, đẩy mạnh hơn nữa cuộc cách mạng kỹ thuật trong các ngành. Chúng ta đang phải hoàn thành những khối lượng sản xuất và xây dựng lớn gấp bội so với thời bình, và có những việc phải hoàn thành trong một thời gian gấp rút. Rõ ràng là yêu cầu tăng năng suất lao động đã trở nên hết sức cấp bách. Chúng ta cần đẩy mạnh phong trào hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật; phải nắm chắc các khâu có ý nghĩa quyết định là trang bị và cải tiến công cụ sản xuất, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến. Đó chính là nội dung của cuộc cách mạng kỹ thuật mà chúng ta cần đẩy mạnh.

Trong nông nghiệp, cần đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, đưa nông nghiệp đi dần vào quy trình sản xuất và tiêu chuẩn kỹ thuật để tăng năng suất lao động và tăng năng suất cây trồng. Cần thực hiện tốt những yêu cầu của phong trào làm thủy lợi hai năm 1966 - 1967, tăng cường phân bón, v.v., để đạt được những vùng rộng lớn có năng suất cao và ổn định, đồng thời phải cải tiến kỹ thuật chăn nuôi để phát triển đàn gia súc. Vấn đề có ý nghĩa cơ bản và lâu dài là cải tiến công cụ lao động nông nghiệp. Trong tình hình phần lớn công việc ở nông thôn còn làm bằng tay, chân, với những công cụ thô sơ, năng suất lao động thấp, chúng ta phải tích cực cải tiến công cụ thô sơ để làm cho lao động thủ công chuyển dần thành lao động dùng máy móc có năng suất cao, kết hợp việc dùng công cụ thô sơ cải tiến với công cụ nửa cơ khí và cơ khí.

Trong các ngành công nghiệp (bao gồm cả xây dựng cơ bản và vận tải), cần tích cực đẩy mạnh hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật, trang bị công cụ sản xuất có năng suất cao, áp dụng kỹ thuật tiến tiến đi đôi với cải tiến tổ chức sản xuất và tổ chức lao động phù hợp với tình hình mới. Cần thực hiện đúng các quy trình kỹ thuật, ra sức nâng cao hiệu suất sử dụng thiết bị, thực hiện nửa cơ khí hóa và cơ khí hóa các bộ phận sản xuất thủ công. Cần đẩy mạnh việc nghiên cứu khoa học, chú ý nghiên cứu các nguyên liệu, vật liệu thay thế, nguyên liệu, vật liệu địa phương, lợi dụng tổng hợp, sản xuất mặt hàng mới. Đặc biệt, trên các công trường, cần đẩy mạnh việc trang bị công cụ cải tiến, nửa cơ khí và cơ khí, tạo điều kiện nhanh chóng khắc phục tình trạng lãng phí lao động.

Đi đôi với việc đẩy mạnh cách mạng kỹ thuật, tăng năng suất lao động, phải hết sức đề cao tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô. Trình độ sản xuất của ta còn thấp, khả năng kinh tế chưa được dồi dào; trong tình hình chiến tranh, nhu cầu các mặt lại càng tăng thêm nhiều. Do đó, các ngành, các địa phương, các cơ sở sản xuất và kinh doanh phải tính toán chặt chẽ các nhu cầu, triệt để tiết kiệm lao động, vật tư, tiền vốn. Các ngành quản lý phải nắm sát nhu cầu và khả năng, tập trung sức giải quyết các nhu cầu quan trọng và cấp bách, phát huy tốt hiệu quả lao động, vật tư và tiền vốn đã bỏ ra, giữ vững các mặt cân đối chủ yếu của nền kinh tế.

Cần hết sức chú trọng việc cải tiến tổ chức và quản lý lao động. Phải đề cao tinh thần quý trọng sức lao động, triệt để tiết kiệm lao động trong mọi hoàn cảnh. Phải quán triệt tinh thần: cố gắng sử dụng lao động ít, bảo đảm được khối lượng công việc nhiều, hoàn thành trong thời gian ngắn.

Cần quản lý chặt chẽ các khâu phân phối, sử dụng và dự trữ vật tư, ra sức thực hiện các tiêu chuẩn, định mức vật tư, kỹ thuật đã ban hành, phấn đấu hạ thấp mức tiêu hao vật tư.

CẢI TIẾN VÀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ
KINH TẾ CHO PHÙ HỢP VỚI TÌNH HÌNH MỚI

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Để bảo đảm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế hai năm 1966 - 1967, chuyển nền kinh tế phát triển phù hợp với điều kiện chiến tranh và đưa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội tiếp tục tiến lên, việc cải tiến và tăng cường công tác quản lý kinh tế của Nhà nước trở nên rất cấp thiết.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, các ngành kinh tế ngày càng đi sâu vào chuyên môn hóa, kinh tế địa phương ngày càng phát triển. Việc quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có kế hoạch và cân đối phải tạo điều kiện thúc đẩy cuộc cách mạng kỹ thuật và phân công lao động mới, điều kiện then chốt hiện nay để tăng năng suất lao động, phát triển sản xuất. Tình hình đó yêu cầu phải có phương pháp quản lý kinh tế theo ngành và theo địa phương thích hợp.

Do đó, công tác quản lý kinh tế, một mặt, cần tăng cường tính tập trung, thống nhất, đi sâu vào quản lý kinh tế và kỹ thuật theo sự phát triển của khu vực kinh tế toàn dân; phải quản lý và kế hoạch hóa theo ngành một cách tập trung, đi sâu vào chuyên môn hóa, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế của sản xuất và xây dựng. Mặt khác, trong điều kiện khu vực kinh tế tập thể còn chiếm tỷ trọng lớn, nhất là trong khi hợp tác xã nông nghiệp ngày càng được củng cố, kinh tế địa phương đang có đà phát triển mới, cần phát huy dân chủ, mở rộng quyền chủ động linh hoạt cho cấp dưới và cơ sở, hết sức phát huy sáng kiến của các địa phương, cơ sở, khai thác đầy đủ khả năng tiềm tàng của địa phương, cơ sở, đưa nền kinh tế địa phương phát triển một cách toàn diện và ngày càng phong phú.

Trong tình hình mới, chiến tranh không hề làm thay đổi những yêu cầu khách quan trên đây, ngược lại, yêu cầu cần thiết của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước lại đòi hỏi công tác quản lý kinh tế và quản lý kế hoạch càng phải hết sức nhạy bén, kịp thời và có hiệu quả. Một mặt, có yêu cầu tập trung cao độ việc quản lý và sử dụng nhân lực, vật lực, tài lực, thích hợp với thời chiến; mặt khác, lại có yêu cầu phân cấp hợp lý, phát huy cao độ khả năng của các ngành, các địa phương, các cơ sở, để họ có thể chủ động giải quyết các nhu cầu về sản xuất, chiến đấu và đời sống nhân dân ở từng nơi.

Cho nên, trong thời gian tới, chúng ta phải tích cực cải tiến và tăng cường công tác quản lý kinh tế nhằm mục đích:

- Đẩy mạnh sản xuất phát triển, đặc biệt là kinh tế địa phương bao gồm nông nghiệp, công nghiệp địa phương, giao thông vận tải, thương nghiệp… nhằm phát triển mạnh nền kinh tế địa phương, vừa giải quyết tốt hậu cần tại chỗ, đáp ứng yêu cầu của thời chiến, vừa phù hợp với yêu cầu lâu dài của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội;

- Tạo điều kiện thúc đẩy cuộc cách mạng kỹ thuật trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, chú trọng hướng phát triển trước mắt và lâu dài, đưa các ngành đi dần vào tập trung, chuyên môn hóa, áp dụng nhanh chóng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, hết sức chú trọng nâng cao hiệu quả của sản xuất và xây dựng, ra sức tiết kiệm lao động, vật tư, tiền vốn;

- Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường sự lãnh đạo tập trung của Trung ương thể hiện trên kế hoạch thống nhất, trên chế độ, chính sách, quy định thống nhất, đồng thời mở rộng quyền cho các ngành, các địa phương chủ động hơn nữa trong việc hoàn thành kế hoạch nhà nước.

Chúng ta cần thực hiện việc phân cấp quản lý kinh tế mạnh dạn và hợp lý. Bộ và địa phương (tỉnh, thành) phải được giao quyền hạn, nhiệm vụ và phương tiện để có khả năng xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện kế hoạch một cách chủ động hơn. Cần cải tiến tổ chức quản lý của bộ, đi sâu hơn nữa vào mặt quản lý kinh tế và kỹ thuật, tăng cường thích đáng tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh, kỹ thuật, tổ chức nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản. Tỉnh là đơn vị hành chính và kinh tế rất trọng yếu hiện nay. Cần tăng cường tác dụng lãnh đạo kinh tế của các ủy ban hành chính tỉnh, thành phố, làm cho tỉnh, thành phố trở thành cấp quản lý toàn diện nền kinh tế trong địa phương, chủ động sắp xếp các mặt cân đối của địa phương. Cần tăng cường thích đáng vai trò của cấp huyện. Xác định rõ vai trò của cấp xã trong việc quản lý kinh tế ở cơ sở.

Cần cải tiến phương pháp kế hoạch hóa và các chế độ quản lý kinh tế cho phù hợp với đặc điểm nền kinh tế đang có nhiều biến động, nhằm tăng cường tính pháp lệnh của các chỉ tiêu mà Nhà nước cần quản lý chặt chẽ, đồng thời mở rộng quyền linh hoạt của các cấp đối với các chỉ tiêu kế hoạch có tính chất hướng dẫn. Cần tăng cường tính chất chính xác, khoa học, cân đối, toàn diện của kế hoạch, làm cho kế hoạch thật sự trở thành công cụ sắc bén để chỉ đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Cần cải tiến và tăng cường tổ chức chỉ đạo thực hiện, quy định rõ chức năng của các cấp trong việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch, gắn chặt hơn nữa công tác lập kế hoạch với việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch. Cần tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “ba xây, ba chống” trong các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan nhà nước, tạo điều kiện đẩy mạnh sản xuất và cải tiến công tác quản lý. Trong tình hình mới, công tác kiểm tra hết sức quan trọng; ở các cấp, các ngành, các cơ sở, cần tăng cường công tác kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch, phát hiện kịp thời để giải quyết đúng lúc các khâu mất cân đối. Phải tăng cường ý thức tổ chức, ý thức kỷ luật thời chiến, xây dựng lề lối làm việc cụ thể, khẩn trương, linh hoạt,

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Cuộc chiến tranh yêu nước chống Mỹ hiện nay là sự nghiệp vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, trong lịch sử mấy nghìn năm chống ngoại xâm của dân tộc ta. Đánh đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân ta đang hoàn thành nhiệm vụ cứu nước thiêng liêng của dân tộc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Là hậu phương lớn, miền Bắc có vị trí rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng vĩ đại của cả dân tộc ta. Những nhiệm vụ trong kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế hai năm 1966 - 1967 đều thấu suốt tinh thần bảo đảm nghĩa vụ hậu phương lớn của miền Bắc để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Đó là một kế hoạch chống Mỹ, cứu nước và tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trước mắt còn nặng nề, con đường đi tới thắng lợi còn phải vượt qua nhiều khó khăn, trở ngại. Nhưng chúng ta bước vào kế hoạch mới với lòng tin tưởng và phấn khởi vô hạn. Những thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong năm qua đã chứng minh hùng hồn rằng nhân dân miền Bắc nhất định vừa đánh giặc thắng lợi, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Nhân dân ta hãy phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đạp bằng mọi trở ngại, ra sức thi đua “mỗi người làm việc bằng hai”, tiến lên thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước hai năm 1966 - 1967 trước mắt là kế hoạch nhà nước năm 1966, tích cực xây dựng và bảo vệ miền Bắc, cùng đồng bào miền Nam đánh bại đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.