BÁO CÁO CÔNG TÁC
CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
TẠI KỲ HỌP THỨ 4, QUỐC HỘI KHOÁ III
(*)
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc
hội,
Trong thời gian từ sau kỳ họp thứ
3 của Quốc hội khóa III (tháng 4-1966) đến nay, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã
họp 31 lần, thông qua 318 nghị quyết và giải quyết nhiều vấn đề thuộc quyền
hạn của mình. Dưới đây xin báo cáo cụ thể hoạt động của Uỷ ban trong thời
gian ấy:
I- VỀ VIỆC THI HÀNH NGHỊ QUYẾT NGÀY 10-4-1965
CỦA QUỐC HỘI TRAO CHO UỶ BAN THƯỜNG VỤ
QUỐC HỘI MỘT SỐ QUYỀN HẠN TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Trong kỳ họp thứ 2, tại phiên họp
ngày 10 tháng 4 năm 1965, Quốc hội đã ra nghị quyết giao cho Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội một số quyền hạn để cho hoạt động của Nhà nước được thích ứng
với tình hình mới.
Căn cứ vào Điều 1 của Nghị quyết
ngày 10-4-1965 của Quốc hội, trong các phiên họp vào những ngày 15-9-1966,
19-4-1967 và 10-10-1967, sau khi xem xét tình hình mọi mặt và tham khảo ý
kiến của Hội đồng Chính phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định hoãn kỳ
họp thứ 4 của Quốc hội khóa III.
Căn cứ vào Điều 2 của nghị quyết
đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra 10 nghị quyết sau đây:
1. Nghị quyết ngày 25-11-1965
thông qua dự toán ngân sách nhà nước năm 1965.
2. Nghị quyết ngày 7-11-1966 thông
qua những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1966.
3. Nghị quyết ngày 7-11-1966 thông
qua dự toán ngân sách nhà nước năm 1966.
4. Nghị quyết ngày 01-4-1967 phê
chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước năm 1965.
5. Nghị quyết ngày 09-5-1967 thông
qua phương hướng, nhiệm vụ và những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước
năm 1967.
6. Nghị quyết ngày 10-6-1967 phê
chuẩn việc sáp nhập xã Hán Đà và xã Đại Minh thuộc huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú
Thọ vào huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái và sáp nhập xóm Bình Giang thuộc xã
Minh Tâm, huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc vào xã Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh
Hải Dương.
7. Nghị quyết ngày 09-11-1967
thông qua dự toán ngân sách nhà nước năm 1967.
8. Nghị quyết ngày 26-01-1968 phê
chuẩn việc hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ thành một tỉnh lấy tên là
tỉnh Vĩnh Phú và việc hợp nhất hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành một tỉnh
lấy tên là tỉnh Hải Hưng.
9. Nghị quyết ngày 25-3-1968 thông
qua phương hướng, nhiệm vụ và những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước
năm 1968.
10. Nghị quyết ngày 18-4-1968 phê
chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 1966.
Trong kỳ họp này, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội xin trình Quốc hội xét và phê chuẩn những nghị quyết trên đây.
II- VỀ CÔNG TÁC PHÁP LUẬT
Trong thời gian qua, về công tác
pháp luật, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua các pháp lệnh sau đây:
1. Pháp
lệnh ngày 13-10-1966 quy định cấm nấu rượu trái phép.
Pháp lệnh này cấm nấu rượu trái
phép bằng gạo, ngô, khoai, sắn, đường và mật đường và cấm sản xuất trái phép
các loại men để nấu rượu, nhằm tiết kiệm lương thực, bảo vệ sức khỏe của
nhân dân, tăng cường quản lý lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp và
góp phần xây dựng nếp sống mới trong nhân dân, tiến tới xóa bỏ tệ nghiện
rượu và nấu rượu trái phép.
2. Pháp lệnh ngày 01-4-1967 quy
định một số điểm về bầu cử và tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban Hành chính
các cấp trong thời chiến.
Pháp lệnh
này bổ sung một số điểm của Pháp lệnh về thể lệ bầu cử Hội đồng nhân dân các
cấp và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban Hành chính các cấp cho phù
hợp với thời chiến: điều chỉnh thời gian tiến hành các bước công tác bầu cử,
bổ sung một số điểm về sinh hoạt của các Hội đồng nhân dân, về số lượng
thành viên và thể thức bổ sung thành viên của Uỷ ban Hành chính các cấp.
3. Pháp
lệnh ngày 30-10-1967 trừng trị các tội phản cách mạng.
Pháp lệnh này thay thế cho Sắc
lệnh số 133 ngày 20-1-1953 ban hành trong giai đoạn cách mạng dân tộc và dân
chủ và trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, không thích
hợp với tình hình và nhiệm vụ mới nữa.
Pháp lệnh ngày 30-10-1967 nhằm tăng cường nền chuyên chính dân chủ
nhân dân, bảo đảm giành thắng lợi hoàn toàn cho sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa, cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ miền Bắc, giải
phóng miền Nam, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà; nâng cao tinh thần
cảnh giác cách mạng của nhân dân, động viên toàn dân tích cực tham gia giữ
gìn trật tự, an ninh.
Ngoài các pháp lệnh nói trên, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua những nghị quyết sau đây:
1. Nghị quyết ngày 15-9-1966, tha
cho những phạm nhân đã được cải tạo tốt và giảm hạn tù cho những phạm nhân
thật thà cố gắng sửa chữa, nhân dịp lễ Quốc khánh lần thứ 21 của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
2. Nghị quyết ngày 18-5-1967 cho
phép Uỷ ban Hành chính khu vực Vĩnh Linh căn cứ vào điều kiện cụ thể ở địa
phương mà ấn định ngày bầu cử Hội đồng nhân dân của các xã Vĩnh Tường, Vĩnh
Ô, Vĩnh Thượng, Vĩnh Hà, Vĩnh Khê và Hướng Lập thuộc khu vực Vĩnh Linh.
3. Nghị quyết ngày 24-8-1967 tha
cho những phạm nhân đã được cải tạo tốt và giảm hạn tù cho những phạm nhân
thật thà cố gắng sửa chữa, nhân dịp lễ Quốc khánh lần thứ 22 của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
4. Nghị quyết ngày 12-3-1968 cho
phép tỉnh Quảng Bình và khu vực Vĩnh Linh hoãn việc bầu cử Hội đồng nhân dân
đã được ấn định chung vào ngày 28-4-1968 cho các tỉnh, khu tự trị và thành
phố trực thuộc Trung ương.
5. Nghị quyết ngày 18-4-1968 phê
chuẩn Điều lệ của Hội đồng nhân dân khu tự trị Việt Bắc quy định việc thi
hành Luật hôn nhân và gia đình trong khu tự trị Việt Bắc. Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội đã quyết định phê chuẩn Điều lệ này sau khi nghe ý kiến của các vị
đại diện Uỷ ban Hành chính và Tòa án nhân dân khu tự trị Việt Bắc và sau khi
nghe Đoàn điều tra về vấn đề thi hành Luật hôn nhân và gia đình trong khu tự
trị Việt Bắc báo cáo kết quả công tác của Đoàn.
III- VỀ TỔ CHỨC CỦA NHÀ NƯỚC
Trong thời gian qua, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội đã có những quyết định về tổ chức bộ máy nhà nước và bổ nhiệm
các nhân viên cao cấp của Nhà nước:
A. Thành lập và bãi bỏ một số cơ quan cao cấp của Nhà nước.
Theo đề nghị của Hội đồng Chính
phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua những nghị quyết sau đây:
- Nghị quyết ngày 15-9-1966 về
việc giải thể Tổng cục Khai hoang. Nhiệm vụ của Tổng cục Khai hoang nay giao
cho Bộ Nông nghiệp phụ trách;
- Nghị quyết ngày 8-5-1967 về việc
tách Nha khí tượng ra khỏi Phủ Thủ tướng và đặt cơ quan này trực thuộc Hội
đồng Chính phủ;
- Nghị quyết ngày 19-7-1967 về
việc đổi tên Viện Khoa học Xã hội Việt Nam thành Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt
Nam.
B. Bổ nhiệm những chức vụ của Nhà nước.
a) Về Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và
các Uỷ ban của Quốc hội.
Trong phiên họp ngày 22-2-1967, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định:
- Đồng chí Trần Danh Tuyên được
thôi giữ chức Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và chức Chủ nhiệm Uỷ ban Kế
hoạch và Ngân sách của Quốc hội để nhận nhiệm vụ khác trong Hội đồng Chính
phủ;
- Đồng chí Bồ Xuân Luật, Uỷ viên
dự khuyết Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, được cử làm Uỷ viên chính thức của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội;
- Đồng chí Đoàn Trọng Truyến, Phó
Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội được cử giữ chức Quyền
Chủ nhiệm Uỷ ban này thay đồng chí Trần Danh Tuyên.
Trong kỳ họp này, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội đề nghị Quốc hội quyết định cử Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch và Ngân
sách của Quốc hội.
b) Về Hội đồng Chính phủ.
Theo đề nghị của Thủ tướng Chính
phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết nghị miễn nhiệm và bổ nhiệm một số
chức vụ trong bộ máy nhà nước như sau:
1. Theo Nghị quyết ngày 3-11-1966:
- Đồng chí Phạm Hùng, Phó Thủ
tướng Chính phủ, được thôi kiêm chức Chủ nhiệm Văn phòng Tài chính - Thương
nghiệp Phủ Thủ tướng và chức Chủ nhiệm Uỷ ban Vật giá Nhà nước;
- Đồng chí Nguyễn Thanh Bình được
thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương để giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng Tài
chính - Thương nghiệp Phủ Thủ tướng và kiêm chức Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá
Nhà nước.
2. Theo Nghị quyết ngày
22-02-1967:
- Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị được
thôi kiêm chức Chủ nhiệm Văn phòng Công nghiệp Phủ Thủ tướng để kiêm chức Bộ
trưởng Bộ Công nghiệp nặng;
- Đồng chí Trần Danh Tuyên được
giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng Công nghiệp Phủ Thủ tướng;
- Đồng chí Nguyễn Văn Trân được
thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng để nhận nhiệm vụ khác.
3. Theo Nghị quyết ngày
30-10-1967:
- Đồng chí Lê Thanh Nghị, Phó Thủ
tướng Chính phủ được thôi kiêm chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng;
- Đồng chí Nguyễn Côn, Chủ nhiệm
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, được giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm chức
Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước;
- Đồng chí Hoàng Anh, Chủ nhiệm
Văn phòng Nông nghiệp Phủ Thủ tướng, được thôi kiêm chức Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp;
- Đồng chí Nguyễn Hữu Mai được giữ
chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng;
- Đồng chí Nguyễn Văn Lộc được giữ
chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp.
- Đồng chí Nguyễn Thanh Bình, Chủ
nhiệm Văn phòng Tài chính - Thương nghiệp Phủ Thủ tướng, được thôi kiêm chức
Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước;
- Đồng chí Đỗ Mười được giữ chức
Chủ nhiệm Uỷ ban Vật giá Nhà nước;
- Đồng chí Hoàng Quốc Thịnh, quyền
Bộ trưởng Bộ Nội thương, được giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương.
4. Theo Nghị quyết ngày 15-4-1968:
- Đồng chí Xuân Thủy được giữ chức
Bộ trưởng của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa;
- Đồng chí Trần Quang Huy được giữ
chức Chủ nhiệm Văn phòng Văn giáo Phủ Thủ tướng.
c) Về các đại sứ đặc mệnh toàn
quyền.
Theo đề nghị của Hội đồng Chính
phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định bổ nhiệm các Đại sứ đặc mệnh
toàn quyền của nước ta như sau:
- Ngày 15-6-1966, bổ nhiệm đồng
chí Nguyễn Văn Phát làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Angiêri Dân chủ và Nhân
dân; đồng chí Nguyễn Đức Thiệng làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Ghinê kiêm Đại
sứ tại nước Cộng hòa Cônggô (Brazzaville); đồng chí Nguyễn Ngọc Vũ, Đại sứ
tại nước Cộng hòa Mali kiêm Đại sứ tại nước Cộng hòa hồi giáo Môritani; đồng
chí Nguyễn Xuân, Đại sứ tại nước Cộng hòa Ảrập thống nhất kiêm Đại sứ tại
nước Cộng hòa Ảrập Yêmen.
- Ngày 16-8-1966, bổ nhiệm đồng
chí Nguyễn Việt Dũng làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Dân chủ Đức.
- Ngày 3-11-1966, bổ nhiệm đồng
chí Nguyễn Thọ Chân làm Đại sứ tại Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô
Viết.
- Ngày 22-2-1967, bổ nhiệm đồng
chí Ngô Minh Loan làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; đồng chí
Phạm Ngọc Quế làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Nhân dân Bungari.
- Ngày 24-6-1967, bổ nhiệm đồng
chí Phạm Ngọc Quế, Đại sứ tại nước Cộng hòa Nhân dân Bungari kiêm Đại sứ tại
nước Cộng hòa Ảrập Xyri; đồng chí Nguyễn Văn Hồng làm Đại sứ tại nước Cộng
hòa Nhân dân Anbani.
- Ngày 26-6-1967, bổ nhiệm đồng
chí Nguyễn Thương làm Đại sứ tại Vương quốc Campuchia.
- Ngày 9-11-1967, bổ nhiệm đồng
chí Lương Xướng làm Đại sứ tại nước Cộng hòa Ảrập Xyri thay đồng chí Phạm
Ngọc Quế được thôi kiêm nhiệm chức vụ này.
d) Về Tòa án nhân dân tối cao.
Theo đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã bổ nhiệm các nhân viên cao
cấp sau đây thuộc Tòa án nhân dân tối cao:
- Ngày 15-6-1966, bổ nhiệm đồng
chí Vũ Dư làm thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
- Ngày 4-11-1966, bổ nhiệm đồng
chí Đào Duy Khánh làm thẩm phán dự khuyết Tòa án nhân dân tối cao;
- Ngày 8-5-1967, bổ nhiệm đồng chí
Lương Hồng Quyến, tức Lê Phương Hằng, làm thẩm phán dự khuyết Tòa án nhân
dân tối cao;
- Ngày 30-10-1967, bổ nhiệm đại tá
Nguyễn Đình Tùng giữ chức Chánh án Tòa án quân sự Trung ương, đồng thời giữ
chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
- Ngày 12-3-1968, bổ nhiệm đồng
chí Ngô Xuân Hàm làm Uỷ viên Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
đ) Về Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
Theo đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã bổ nhiệm các nhân viên cao
cấp sau đây thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao:
- Ngày 16-3-1967, bổ nhiệm đồng
chí Bùi Lâm làm Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Ngày 30-10-1967, bổ nhiệm đại tá
Nguyễn Văn Nam, tức Phạm Luân, giữ chức Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự
Trung ương, đồng thời giữ chức Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
IV- VỀ VIỆC TẶNG THƯỞNG HUÂN CHƯƠNG
Trong thời gian qua, theo đề nghị
của Hội đồng Chính phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định tặng thưởng
huân chương và danh hiệu vinh dự cho một số đơn vị và cá nhân.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết
định truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh hạng nhất và Huân chương Quân công
hạng nhất cho đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, đã
có nhiều cống hiến vẻ vang cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đã lập được
nhiều công tích trong quân đội, nêu gương quyết chiến, quyết thắng cho quân
và dân ta noi theo.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết
định tặng thưởng Huân chương Độc lập cho 6 đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam
và Công an nhân dân vũ trang đã lập được nhiều chiến công vẻ vang và hoàn
thành tốt nhiệm vụ; cho quân và dân 9 tỉnh và thành phố đã lập nhiều chiến
công vẻ vang và lập nhiều thành tích xuất sắc trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước; cho 4 đơn vị thuộc ngành giao thông vận tải đã lập được nhiều thành
tích xuất sắc trong việc bảo đảm giao thông vận tải năm 1967; và truy tặng
Huân chương Độc lập cho 3 cán bộ đã có những cống hiến xứng đáng cho sự
nghiệp cách mạng của dân tộc.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết
định tặng thưởng danh hiệu Anh hùng cho 45 đơn vị đã liên tục lập được nhiều
chiến công oanh liệt hoặc đã lập được nhiều thành tích rất xuất sắc trong
sản xuất, bảo vệ sản xuất và trong công tác; tặng thưởng danh hiệu Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân cho 43 cán bộ và chiến sĩ trong các lực lượng vũ
trang nhân dân đã lập được những thành tích xuất sắc trong chiến đấu và công
tác; tặng thưởng danh hiệu Anh hùng lao động cho 69 người lao động sản xuất,
làm công tác văn hóa, khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ, đã lập được những
thành tích xuất sắc trong lao động sản xuất và trong công tác.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết
định tặng thưởng 155 Huân chương Quân công và 11.330 Huân chương Chiến công
cho các đơn vị, địa phương, cán bộ và chiến sĩ trong Quân đội nhân dân, Công
an nhân dân và dân quân tự vệ đã có nhiều thành tích trong chiến đấu và phục
vụ chiến đấu.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết
định tặng thưởng 2.440 Huân chương Lao động cho các đơn vị và địa phương đã
có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua thực hiện kế hoạch nhà nước,
xây dựng và phát triển các ngành, các phong trào "ba sẵn sàng" của thanh
niên, "ba đảm đang" của phụ nữ, v.v..; cho các cán bộ đã nêu cao quyết tâm
khắc phục khó khăn, lập nhiều thành tích trong sản xuất và công tác.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết
định tặng thưởng Huân chương Độc lập và Huân chương Lao động cho 240 chuyên
gia Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã có công giúp
Chính phủ và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tiếp tục khen thưởng thành tích
kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết
định tặng thưởng 694 Huân chương Kháng chiến cho các cán bộ, công nhân, viên
chức, gia đình và cá nhân đã có công trong cuộc kháng chiến trường kỳ và anh
dũng của dân tộc ta trước đây.
Tiếp tục khen thưởng thành tích
xây dựng Quân đội và Công an nhân dân vũ trang, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã
quyết định tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang cho nhiều cán bộ và
chiến sĩ trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang đã có thành
tích phục vụ trong các lực lượng vũ trang nhân dân từ ngày 20-7-1954.
Ngoài ra, trong phiên họp ngày
10-6-1967, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định tuyên dương công trạng
quân và dân miền Bắc nhân dịp bắn rơi 2.000 máy bay giặc Mỹ.
V- VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT NHỮNG THƯ
KHIẾU TỐ CỦA NHÂN DÂN
Trong thời gian qua, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội đã nhận được 1.855 thư do nhân dân và cán bộ gửi đến và tiếp 286
người đến Văn phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đưa thư và trình bày nguyện
vọng.
Phần lớn số thư nhận được là những
đơn khiếu nại, tố cáo; một số ít phản ánh tình hình, nêu những đề nghị về
chính sách cụ thể. Trong hầu hết các thư từ, nhân dân đều bày tỏ sự nhất trí
với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời khiếu nại hoặc tố
cáo những hành động sai trái trong việc thi hành đường lối, chính sách đó.
Nội dung khiếu nại và tố cáo nhằm vào những lệch lạc trong việc khoanh vùng
đổi ruộng, thu mua, cung cấp lương thực, đăng ký hộ khẩu, và nêu nhiều hành
động vi phạm pháp luật như đánh người, bắt giam người trái phép, tham ô của
công, quản lý hợp tác xã thiếu dân chủ; cán bộ, công nhân khiếu nại về việc
thi hành kỷ luật oan; sinh viên, học sinh khiếu nại về việc địa phương vì
thành kiến với gia đình, gây khó khăn cho việc học tập; thương binh khiếu
nại về việc thi hành không đúng chính sách thương binh, gia đình liệt sĩ;
những người có thân nhân bị tập trung giáo dục cải tạo thì xin tha hoặc giảm
hạn cho người bị tập trung, v.v..
Tất cả những thư từ do cán bộ và
nhân dân gửi đến Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đều được Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội xét và giao cho các cơ quan có trách nhiệm giải quyết, đồng thời tin cho
các đại biểu Quốc hội ở cơ quan và các Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội ở địa
phương hữu quan biết để nhắc nhở việc giải quyết.
Trong thời gian qua, các ngành,
các địa phương đã có cố gắng hơn trước trong việc giải quyết thư khiếu tố
của nhân dân, nhưng cố gắng đó chưa đều và không liên tục.
VI- VỀ QUAN HỆ VỚI CÁC ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
VÀ VỚI NHÂN DÂN
Sau kỳ họp lần thứ 3 của Quốc hội,
các đoàn và các đại biểu Quốc hội đã đi về các địa phương, xí nghiệp, công
trường, nông trường, đơn vị bộ đội để báo cáo với cử tri về nội dung và kết
quả của kỳ họp. Đợt báo cáo này có kết quả tốt, góp phần động viên chiến sĩ,
cán bộ và đồng bào hăng hái thi đua đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu và phục vụ
chiến đấu.
Đối với các vấn đề do các đại biểu
Quốc hội nêu lên trong kỳ họp thứ 3, Văn phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã
xếp thành từng loại và chuyển qua Phủ Thủ tướng nghiên cứu và giải quyết.
Đầu năm 1967, Văn phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã tổng hợp các ý kiến
giải quyết của Chính phủ làm thành bản báo cáo gửi đến các vị đại biểu Quốc
hội.
Một số đại biểu Quốc hội đã tham
gia hội nghị Hội đồng nhân dân các cấp để nắm tình hình hoạt động của các
Hội đồng nhân dân và góp ý kiến xây dựng với địa phương. Theo ý kiến của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội, nhiều đại biểu Quốc hội đã tích cực tham gia các
cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân tiến hành vào tháng 4 năm 1967 và tháng 4 năm
1968 và đã góp phần làm cho các cuộc bầu cử đạt kết quả tốt.
Để góp phần thắt chặt hơn nữa quan
hệ giữa Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, một số đồng
chí trong Ban thư ký của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã tham dự các kỳ họp của
Hội đồng nhân dân ở các tỉnh, thành phố và khu tự trị.
Trong các dịp bầu cử Hội đồng nhân
dân huyện và xã tháng
4-1967 và bầu cử Hội đồng nhân dân khu tự trị, tỉnh và thành phố trực thuộc
Trung ương tháng 4-1968, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã cử nhiều đoàn đại biểu
của Uỷ ban đi một số địa phương xem xét việc tiến hành bầu cử và động viên
các cử tri.
Nhiều đại biểu Quốc hội đã quan
tâm theo dõi tình hình sinh hoạt của nhân dân, tình hình thực hiện các chính
sách ở địa phương và đã phản ánh với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc trực
tiếp hoặc bằng thư từ những vấn đề cần được các cơ quan hữu quan nghiên cứu
và giải quyết, như vấn đề phân phối hàng hóa, thu mua lương thực và thực
phẩm, quản lý hàng viện trợ v.v.. Đối với những vấn đề do các đại biểu Quốc
hội nêu ra, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã giao cho các cơ quan hữu quan
nghiên cứu. Các cơ quan này đã báo cáo với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, và Văn
phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông báo cho các vị đại biểu Quốc hội
biết kết quả giải quyết các vấn đề đó.
Trong thời gian qua, giặc Mỹ không
ngừng leo thang trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta, đã cho máy
bay bắn phá nhiều vùng dân cư, nhiều cơ sở kinh tế và văn hóa, nhiều vùng
tôn giáo, gây cho ta một số tổn thất. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã cử đại
diện tham gia nhiều đoàn đại biểu Đảng, Quốc hội, Chính phủ đi thăm hỏi và
úy lạo đồng bào những nơi bị thiệt hại. Đồng bào các nơi nói trên tỏ lòng
căm thù sâu sắc đế quốc Mỹ dã man và rất cảm động trước sự ân cần chăm sóc
và giúp đỡ của Đảng, Quốc hội và Chính phủ. Ai nấy đều quyết tâm ra sức thi
đua lập nhiều thành tích hơn nữa trong sản xuất chiến đấu và phục vụ chiến
đấu.
Đầu tháng 2
năm 1967, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã giới thiệu với các đoàn đại biểu Quốc
hội một số kinh nghiệm về hoạt động của các đại biểu Quốc hội giữa hai kỳ
họp, về quan hệ với nhân dân, với Hội đồng nhân dân và Uỷ ban Hành chính,
với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ. Một số đoàn đã họp,
trao đổi ý kiến về những kinh nghiệm đó và vạch kế hoạch hoạt động để làm
tốt nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội trong tình hình mới. Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội mong rằng với số kinh nghiệm này và kinh nghiệm riêng của mỗi đoàn,
mối quan hệ giữa các đại biểu Quốc hội với nhân dân và các đoàn thể nhân
dân, với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Hành chính và các cơ quan khác của Nhà
nước ở các cấp, với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sẽ được tăng cường và được mật
thiết thường xuyên hơn nữa, góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước và
nhân dân, nâng cao vai trò làm chủ của nhân dân, củng cố sự nhất trí giữa
Nhà nước và nhân dân.
VII- VỀ QUAN HỆ VỚI HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Hội đồng Chính phủ đã tạo mọi điều
kiện thuận tiện để Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo dõi kịp thời và đầy đủ
tình hình thực hiện các nghị quyết của Quốc hội.
Chính phủ thường xuyên gửi đến Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội các nghị quyết, nghị định, chỉ thị của Hội đồng Chính
phủ, các thông báo thường kỳ về các hoạt động của Hội đồng Chính phủ, về
tình hình các mặt.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã trực
tiếp nghe các vị đại diện Hội đồng Chính phủ trình bày về kế hoạch và ngân
sách của Nhà nước, về thay đổi địa giới một số địa phương, về công tác pháp
luật, về thay đổi trong tổ chức bộ máy nhà nước và bổ nhiệm các nhân viên
cao cấp của Nhà nước, về tặng thưởng huân chương và danh hiệu anh hùng v.v..
Ngày 12-11-1966 và 09-11-1967, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội đã nghe Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị, Trưởng đoàn đại
biểu kinh tế của Chính phủ ta báo cáo về kết quả các cuộc đi thăm hữu nghị
và đàm phán, ký kết về viện trợ kinh tế, quân sự và kỹ thuật với Liên Xô,
Trung Quốc và các nước anh em khác trong phe xã hội chủ nghĩa.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhận
định rằng những hiệp nghị ký kết giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa
anh em thể hiện sự đồng tình sâu sắc, sự ủng hộ kiên quyết và sự giúp đỡ
ngày càng to lớn của các nước anh em đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và
xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Thay mặt nhân dân Việt Nam và
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã chân
thành cảm ơn sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ to lớn đó.
Trong quá trình xem xét các vấn đề
do Hội đồng Chính phủ trình bày, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã góp nhiều ý
kiến xây dựng và đã kiến nghị nhiều vấn đề để Hội đồng Chính phủ nghiên cứu
và thực hiện. Hội đồng Chính phủ đã nghiên cứu một cách nghiêm túc các vấn
đề đó. Phần lớn các vấn đề đó đã được Chính phủ giải quyết hoặc đẩy mạnh
việc thực hiện, như:
- Các vấn đề
về kinh tế, tài chính: xây dựng và phát triển kinh tế địa phương; phân cấp
quản lý kinh tế, tài chính; tăng cường quản lý kinh tế, tài chính; đề cao
chế độ tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, đầu cơ tích trữ; động viên tiền
nhàn rỗi trong nhân dân; v.v..;
- Các vấn đề về nội chính, pháp
luật: tăng cường quản lý trị an, trấn áp phản cách mạng; hệ thống hóa các
văn bản pháp luật ở một số ngành; tăng cường công tác xem xét và giải quyết
các đơn khiếu tố của nhân dân (thành lập Uỷ ban Trung ương xét khiếu tố);
khôi phục lại Ban Thanh tra Chính phủ (vấn đề này Chính phủ đang nghiên
cứu), v.v..;
- Các vấn đề về chính sách dân
tộc: theo kiến nghị của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Phủ Thủ tướng đã mở hội
nghị các ngành nghiên cứu và đề ra biện pháp giải quyết các kiến nghị của
nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền Tây Thanh Hóa nói riêng và ở toàn miền
Bắc nói chung;
- Các vấn đề về chính sách cán bộ:
giảm nhẹ biên chế của các ngành hành chính sự nghiệp; điều chỉnh chế độ tăng
lương cho cán bộ và nhân viên các ngành hành chính, sự nghiệp, v.v..
Mối quan hệ chặt chẽ giữa Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội và Chính phủ thể hiện sự nhất trí giữa một bên là cơ quan
thường trực và một bên là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất. Nó cũng thể hiện sự nhất trí giữa Nhà nước và nhân dân ta, dưới sự
lãnh đạo thống nhất của Đảng.
VIII- VỀ QUAN HỆ VỚI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
Trong thời gian qua, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội đã giữ quan hệ chặt chẽ với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm
sát nhân dân tối cao. Các đại diện Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đã tham dự đều đặn các phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội. Trong nhiều phiên họp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã xét một số vấn đề
cụ thể về công tác xét xử của ngành Tòa án.
Ngày 19-7-1967 và 20-7-1967, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội đã nghe các vị đại diện Tòa án nhân dân tối cao và
Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo công tác năm 1966 và nhiệm vụ công
tác năm 1967 của hai ngành này.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhất trí
nhận định rằng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, trật tự, trị an ở miền
Bắc vẫn được giữ vững, kỷ luật của thời chiến vẫn được bảo đảm ngay cả ở
những nơi bị giặc Mỹ đánh phá ác liệt nhất. Đó là thành tích to lớn của nhân
dân và Nhà nước ta, trong đó có phần đóng góp xứng đáng của các ngành Tòa án
nhân dân, Kiểm sát nhân dân và Công an nhân dân. Thành tích đó thể hiện tính
chất ưu việt của chế độ ta và ý thức giác ngộ chính trị sâu sắc của nhân dân
ta.
Ngành Tòa án nhân dân đã tích cực
dựa vào quần chúng, nghiêm trị bọn phản cách mạng và trừng trị thích đáng
bọn phạm tội khác, kết hợp tốt trừng trị với giáo dục, làm tốt các việc xét
xử, hòa giải và tuyên truyền, giải thích pháp luật, giải quyết tốt những vụ
tranh chấp trong nội bộ nhân dân.
Ngành Kiểm sát nhân dân, với ý
thức bảo vệ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đã dựa vào lực lượng
của nhân dân, kiên trì đấu tranh, phát hiện các tội phạm và các hành vi phạm
pháp, đã vận dụng đúng đắn chính sách trừng trị kết hợp với phòng ngừa, và
đã có nhiều cố gắng bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân.
IX- VỀ QUAN HỆ VỚI PHÁI ĐOÀN ĐẠI DIỆN
THƯỜNG TRÚ CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC
GIẢI PHÓNG MIỀN NAM
Từ ngày Phái đoàn đại diện thường
trú của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đặt ở miền Bắc, Chủ
tịch, các Phó Chủ tịch, nhiều Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã nhiều lần
tiếp Phái đoàn, hoặc đến thăm Phái đoàn. Trong các cuộc tiếp xúc này, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội đã nói lên sự quan tâm sâu sắc của Quốc hội đối với cuộc
chiến đấu anh dũng của đồng bào miền Nam, sự gắn bó ruột thịt của 17 triệu
đồng bào miền Bắc đối với 14 triệu đồng bào miền Nam anh hùng, sự quyết tâm
của hậu phương lớn hết lòng hết sức làm tròn nhiệm vụ đối với tiền tuyến
lớn. Ông Trưởng phái đoàn và các vị trong Phái đoàn rất vui mừng được thay
mặt cho đồng bào miền Nam và Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam bày tỏ sự biết ơn đối với sự chăm sóc của đồng bào miền
Bắc, đối với Quốc hội, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hồ Chủ
tịch, và hứa luôn luôn xứng đáng với sự chăm sóc đó.
X- VỀ QUAN HỆ VỚI NƯỚC NGOÀI
a) Quan hệ với Quốc hội các
nước.
Trong thời gian qua, quan hệ hữu
nghị sẵn có giữa Quốc hội ta và Quốc hội
các nước anh em không ngừng được củng cố, góp phần tăng cường tình đoàn kết
chiến đấu trong phe xã hội chủ nghĩa. Qua các văn kiện trao đổi nhân dịp
công bố lời kêu gọi ngày 17-7-1966 của Hồ Chủ tịch, nhân dịp Quốc
khánh và trong nhiều dịp khác, Quốc hội các nước anh em đã nói lên sự đồng
tình sâu sắc và sự ủng hộ tích cực về chính trị, tinh thần cũng như về vật
chất đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đồng thời
biểu thị lòng tin tưởng vững chắc ở thắng lợi cuối cùng của đồng bào cả nước
ta.
Quốc hội nhiều nước dân tộc chủ
nghĩa ở châu Á, châu Phi, nhiều nghị sĩ thuộc nhiều tầng lớp, chính kiến
khác nhau trên thế giới đã theo dõi với một mối cảm tình đặc biệt những
thắng lợi của nhân dân hai miền nước ta và đã lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ cuộc
đấu tranh chính nghĩa của ta. Quốc hội Campuchia trong phiên họp tháng 8 năm
1967 và Quốc hội nước Cộng hòa Ả Rập thống nhất trong phiên họp tháng 2 năm
1968 đã ra nghị quyết nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta và kiên quyết lên án cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ đối với nước ta.
Ngày 22-4-1968, Chủ tịch Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội nước ta đã gửi điện đến Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa
Dân chủ Đức nhiệt liệt chúc mừng nhân dân, Quốc hội và Chính phủ nước Cộng
hòa Dân chủ Đức nhân dịp công bố bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của
nước Cộng hòa Dân chủ Đức.
b) Tham gia các Phái đoàn ra
ngoài nước.
- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã cử
đồng chí Hoàng Văn Hoan, Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, tham gia
đoàn đại biểu Đảng, Quốc hội và Chính phủ đi dự lễ Quốc khánh của nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa (01-10-1967).
- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã cử
đồng chí Chu Văn Tấn, Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, tham gia đoàn
đại biểu Đảng, Quốc hội và Chính phủ dự lễ kỷ niệm lần thứ 50 Cách mạng
tháng Mười vĩ đại tại Liên Xô (07-11-1967).
c) Tiếp khách quốc tế.
Trong thời gian qua, đồng chí Chủ
tịch và một số đồng chí trong Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp một số nghị
sĩ, nhà hoạt động chính trị, hoạt động công đoàn, nhà văn, nhà báo, nhà điện
ảnh, v.v., thuộc nhiều nước trên thế giới. Đồng chí Chủ tịch đã giới thiệu
với các vị khách quốc tế những thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng
thời cũng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với nhân dân các
nước đã tích cực ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của ta.
XI- HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC UỶ BAN CỦA QUỐC HỘI
Trong thời gian qua, sinh hoạt của
các Uỷ ban của Quốc hội nói chung vẫn được đều đặn. Các vấn đề do Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội giao cho các Uỷ ban thẩm tra và nghiên cứu đều được các
Uỷ ban tiến hành chu đáo, cho nên đã giúp cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thảo
luận và quyết định được nhanh chóng về các vấn
đề này.
Uỷ ban
Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội đã họp bảy lần để:
- Thẩm tra dự toán ngân sách nhà
nước năm 1966;
- Thẩm tra phương hướng, nhiệm vụ
và những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1966 và tình hình thực
hiện kế hoạch nhà nước năm 1966;
- Thẩm tra quyết toán ngân sách
nhà nước năm 1965;
- Thẩm tra phương hướng, nhiệm vụ
và những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1967;
- Thẩm tra dự toán ngân sách nhà
nước năm 1967;
- Thẩm tra phương hướng, nhiệm vụ
và những chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước năm 1968;
- Thẩm tra quyết toán ngân sách
nhà nước năm 1966.
Uỷ ban Dân tộc của Quốc hội đã
họp ba lần để:
- Thành lập một Đoàn đại biểu của
Uỷ ban đi thăm đồng bào các dân tộc thiểu số miền Tây tỉnh Thanh Hóa;
- Nghe Đoàn đại biểu của Uỷ ban đi
thăm các vùng dân tộc miền Tây tỉnh Thanh Hóa báo cáo về tình hình các mặt
mà Đoàn đã nắm được và đề nghị với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ
giải quyết những nguyện vọng chính đáng của nhân dân các dân tộc và các cấp
chính quyền miền Tây tỉnh Thanh Hóa.
- Góp ý kiến về dự thảo Điều lệ
quy định việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình thuộc khu tự trị Việt Bắc
(họp liên tịch
với Uỷ ban Dự án pháp luật và Uỷ ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội).
Uỷ ban Thống nhất của Quốc hội
đã tổ chức bảy cuộc họp để:
- Ra tuyên bố nhân dịp kỷ niệm lần
thứ 12 và lần thứ 13 ngày ký kết Hiệp định Giơnevơ (20 tháng 7 năm 1954);
- Ra tuyên bố phản đối đế quốc Mỹ
đưa quân ồ ạt trái phép vào vùng phi quân sự hồi tháng 5 năm 1967;
- Ra tuyên bố nhiệt liệt hoan
nghênh và kiên quyết ủng hộ bản Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam;
- Kỷ niệm lần thứ 6 và lần thứ 7
ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (20 tháng 12 năm 1960);
- Hoan nghênh chiến thắng rực rỡ
đầu xuân năm 1968 của quân và dân miền Nam nước ta.
Ngoài ra, có 7 cuộc họp giữa Uỷ
ban thống nhất của Quốc hội và các vị đại biểu miền Nam trong Quốc hội để
nghe báo cáo và trao đổi về tình hình miền Nam và tình hình đấu tranh thống
nhất nước nhà.
Uỷ ban Văn hóa và Xã hội của
Quốc hội đã họp sáu lần để:
- Góp ý kiến về dự thảo Điều lệ
quy định việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình trong khu tự trị Việt Bắc.
(Họp liên tịch với Uỷ ban Dự án Pháp luật và Uỷ ban Dân tộc của Quốc hội);
- Nghe Đoàn đại biểu Bộ Nội vụ đi
tham quan các nước xã hội chủ nghĩa giới thiệu về cách giải quyết vấn đề an
toàn xã hội ở các nước đó;
- Nghe đồng chí Bộ trưởng Bộ Đại
học và Trung học chuyên nghiệp giới thiệu tình hình công tác đào tạo cán bộ
khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý kinh tế trong hai năm chống chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ và góp ý kiến về một số vấn đề trước
mắt và lâu dài nhằm đưa công tác đào tạo cán bộ tiến lên một
bước mới.
Uỷ ban Dự án pháp luật của Quốc
hội đã họp năm lần để:
- Thẩm tra dự án Pháp lệnh quy
định cấm nấu rượu trái phép;
- Thẩm tra bản Điều lệ về việc thi
hành Luật hôn nhân và gia đình trong khu tự trị Việt Bắc (họp liên tịch với
Uỷ ban Dân tộc và Uỷ ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội);
- Thẩm tra dự án pháp lệnh đặt
danh hiệu vinh dự của Nhà nước "Anh hùng Lao động và Anh hùng Các lực lượng
vũ trang";
- Thẩm tra dự án Pháp lệnh quy
định một số điểm về bầu cử và tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính
các cấp trong thời chiến;
- Thẩm tra dự án Pháp lệnh trừng
trị các tội phản cách mạng.
*
* *
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc
hội,
Từ kỳ họp thứ 3 của Quốc hội đến
nay, đã qua hai năm. Đó là hai năm chiến đấu anh dũng và thắng lợi vẻ vang
của nhân dân ta ở cả hai miền.
Trong thời gian đó, Nhà nước ta
thi hành đường lối chuyển hướng về tổ chức của Đảng, đã phát huy vai trò
tích cực của mình, động viên và tổ chức nhân dân ta giành những thắng lợi to
lớn về mọi mặt, bảo vệ miền Bắc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
đồng thời hết lòng hết sức ủng hộ cuộc chiến tranh giải phóng của đồng bào
miền Nam, làm tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.
Như đã thể hiện trên các mặt công
tác của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trên đây, trong thời gian Quốc hội không
họp, hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, của các Uỷ ban của Quốc hội và
của các đại biểu Quốc hội đã phát huy tác dụng tích cực trong thời chiến.
Sử dụng
những quyền hạn quy định trong Hiến pháp và những quyền hạn do Quốc hội giao
cho trong Nghị quyết ngày 10-4-1965, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quan hệ
chặt chẽ với Chính phủ, và căn cứ vào báo cáo và đề nghị của Chính phủ, đã
quyết định kịp thời những vấn đề lớn về xây dựng kinh tế và văn hóa, giữ
vững trật tự, an ninh, củng cố quốc phòng, bảo đảm đời sống của nhân dân,
v.v., đúng với những trọng tâm từng thời kỳ của đường lối chống Mỹ, cứu nước
và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng. Đồng thời, phản ánh ý kiến và nguyện
vọng của nhân dân, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã đề xuất với Chính phủ nhiều
vấn đề quan trọng về quốc kế, dân sinh nhằm tạo thêm điều kiện thuận lợi
thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên mạnh mẽ hơn nữa.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quan
hệ chặt chẽ với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
đã có những quyết định về công tác của hai ngành Tòa án và Kiểm sát, để hai
ngành tích cực thực hiện chức năng và nhiệm vụ quan trọng của mình nhằm bảo
đảm tôn trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững trật tự, an ninh, bảo vệ
tài sản xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền dân chủ của nhân dân, những vấn
đề đặc biệt quan trọng trong thời chiến.
Các Uỷ ban của Quốc hội và các đại
biểu Quốc hội đã tăng cường hoạt động của mình. Các Uỷ ban của Quốc hội đã
tiến hành tốt việc thẩm tra các dự án pháp lệnh, các kế hoạch và ngân sách
của Nhà nước và các dự án khác do các cơ quan hữu quan đưa trình Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội. Các Uỷ ban của Quốc hội và nhiều đại biểu Quốc hội đã
theo dõi tìm hiểu về những vấn đề kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội, đấu
tranh thống nhất nước nhà, ngoại giao…, và đã trực tiếp hoặc thông qua Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội, lưu ý các cơ quan của Chính phủ ra sức cải tiến công
tác để phục vụ đắc lực hơn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống
Mỹ, cứu nước.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã nhiều
lần biểu dương công trạng của toàn dân, khen thưởng những địa phương, đơn vị
và cá nhân đã có nhiều cống hiến trong sản xuất và chiến đấu, và đã biểu
dương thành tích của Chính phủ và của hai ngành Tòa án nhân dân và Viện kiểm
sát nhân dân.
Đặc điểm nổi bật của Nhà nước ta
là sự nhất trí hoàn toàn giữa cơ quan đại biểu của nhân dân và các cơ quan
hành chính, Tòa án và Kiểm sát, thể hiện sự đoàn kết thành một khối vững
chắc, không gì lay chuyển nổi, của toàn dân, chung quanh Đảng Lao động Việt
Nam đứng đầu là Hồ Chủ tịch. Đó là tính ưu việt, là nguồn sức mạnh vô địch
của chế độ ta, là nguyên nhân của mọi thắng lợi của nhân dân ta.
Trong khói lửa chiến tranh, Nhà
nước ta được củng cố và tăng cường hơn bao giờ hết. Dưới sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng và Hồ Chủ tịch kính mến, Nhà nước ta và nhân dân ta nhất định
sẽ đẩy mạnh hơn nữa mọi mặt công tác sản xuất và chiến đấu, kiên quyết dốc
sức để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược, giành thắng lợi hoàn toàn trong sự
nghiệp bảo vệ miền Bắc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng
miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.