VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP III 1964 - 1971

BÁO CÁO CÔNG TÁC
CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI TẠI
KỲ HỌP THỨ 6, QUỐC HỘI KHÓA III, THÁNG 3-1971
(*)
 

Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,

Trong thời gian từ sau kỳ họp thứ 6 của Quốc hội khóa III (tháng 6-1970) đến nay, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã họp 10 lần thông qua 130 nghị quyết về các vấn đề thuộc quyền hạn của
Uỷ ban.

Sau đây, chúng tôi xin báo cáo về các mặt hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

I - VỀ VIỆC THI HÀNH NGHỊ QUYẾT NGÀY 10-4-1965
 CỦA QUỐC HỘI GIAO CHO UỶ BAN THƯỜNG VỤ
QUỐC HỘI MỘT SỐ QUYỀN HẠN TRONG
TÌNH HÌNH MỚI

Thi hành Nghị quyết ngày 10-4-1965 của Quốc hội giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội một số quyền hạn trong tình hình mới, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết ngày 09-01-1971 phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1969.

Trong kỳ họp này, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xét và phê chuẩn Nghị quyết nói trên.

II- VỀ VIỆC TỔ CHỨC CUỘC BẦU CỬ
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHÓA IV

Quốc hội khóa III được bầu ra ngày 26 tháng 4 năm 1964, đáng lẽ đã hết nhiệm kỳ từ ngày 26 tháng 4 năm 1968. Nhưng tình hình chiến tranh phá hoại lúc bấy giờ trở ngại cho việc chuẩn bị và thực hiện bầu cử Quốc hội, nên căn cứ vào Điều 45 của Hiến pháp, Quốc hội đã ra Nghị quyết ngày 22 tháng 5 năm 1968 kéo dài nhiệm kỳ khóa III và giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa IV khi nào tình hình cho phép.

Hiện nay, tuy cả nước vẫn ở trong tình thế có chiến tranh, nhưng đế quốc Mỹ đã phải chấm dứt chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Để đời sống chính trị của miền Bắc dần dần trở lại bình thường và bảo đảm đầy đủ sinh hoạt dân chủ của nhân dân khi đã có điều kiện, trong các phiên họp ngày 09 tháng 01 và ngày 08 tháng 02 năm 1971, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội khóa IV.

Sau đây là những việc mà Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã làm để chuẩn bị cho cuộc bầu cử:

1. Về việc ấn định ngày bầu cử

Theo kinh nghiệm các cuộc bầu cử trước và theo ý kiến của Chính phủ và các ngành có liên quan thì tổ chức bầu cử Quốc hội vào tháng 4 năm 1971 là thích hợp nhất. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ấn định ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa IV là ngày Chủ nhật 11 tháng 4 năm 1971.

2. Vấn đề lưu nhiệm đại biểu miền Nam

Xin xem tờ trình riêng về vấn đề này.

3. Về việc ấn định số đại biểu sẽ được bầu vào Quốc hội khóa IV

Trong Quốc hội khóa III, tổng số đại biểu là 455 người, trong đó có 366 đại biểu bầu ở miền Bắc và 89 đại biểu miền Nam lưu nhiệm (nay chỉ còn 83). Số đại biểu được bầu (366) ấn định cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa III là căn cứ vào dân số miền Bắc theo cuộc điều tra chính thức năm 1960. Từ đó đến nay dân số miền Bắc đã tăng lên, các khu công nghiệp tập trung cũng phát triển, nên việc tăng thêm số đại biểu được bầu vào Quốc hội khóa IV là cần thiết.

Sau khi tham khảo ý kiến Chính phủ và các ngành có liên quan, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong phiên họp ngày 08-02-1971 đã ấn định tổng số đại biểu được bầu vào Quốc hội khóa IV là 420. Con số này vừa đáp ứng được yêu cầu hoạt động của Quốc hội, vừa phù hợp với Luật bầu cử.

Vì tổng số đại biểu được bầu vào Quốc hội tăng lên, nên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã phân bổ lại số đại biểu cho các địa phương, như đã ghi trong bảng kê đính theo Nghị quyết số 1041-NQ/TVQH ngày 08-02-1971. Việc phân bổ này là căn cứ vào:

+ Mức độ tăng dân số: cứ tăng 10 vạn thì thêm một đại biểu, địa phương nào chỉ tăng dưới 10 cũng được thêm một đại biểu.

+ Tình hình tập trung công nghiệp như Hà Nội, Hải Phòng, các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Thái, Nam Hà, v.v..

+ Vị trí quan trọng: thủ đô Hà Nội và cảng Hải Phòng.

Theo các căn cứ nói trên, ở địa phương nào số đại biểu cũng được tăng lên so với số đại biểu được bầu năm 1964, tăng từ một đại biểu (như Ninh Bình, Quảng Bình và một số tỉnh miền núi), đến 6 đại biểu như Hà Nội. Riêng khu vực Vĩnh Linh, mặc dù dân số giảm từ 65.500 xuống 27.500 (chủ yếu do sơ tán đi tỉnh khác, vì điều kiện chiến tranh ác liệt), vẫn giữ nguyên số đại biểu được bầu là ba như năm 1964.

4. Về việc ấn định số đại biểu dân tộc thiểu số trong Quốc hội khóa IV

Điều 12 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định số đại biểu Quốc hội dành cho các dân tộc thiểu số bằng khoảng 1/7 tổng số đại biểu Quốc hội. Trong Quốc hội khóa III, số đại biểu dân tộc là 58 người. Vì tổng số đại biểu được bầu vào Quốc hội khóa IV là 420, nên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ấn định số đại biểu dân tộc của khóa này là 60 người. Con số này là thích hợp để bảo đảm cho tất cả các dân tộc ở miền Bắc đều có người đại diện trong cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở nước ta.

5. Về việc sắp xếp lại các đơn vị bầu cử

Theo Luật bầu cử quy định thì địa phương nào dân số đông, số đại biểu có từ 10 người trở lên thì có thể chia thành nhiều đơn vị bầu cử. Vận dụng quy định này và trên cơ sở đề nghị của các Uỷ ban Hành chính tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định chia 12 tỉnh và 2 thành phố được bầu từ 10 đại biểu trở lên thành nhiều đơn vị bầu cử và ấn định tổng số đơn vị bầu cử là 80, trong đó có 62 đơn vị bầu từ 3 đến 6 đại biểu và 18 đơn vị bầu từ 7 đến 9 đại biểu. Trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa III, tổng số đơn vị bầu cử là 59, trong đó có 29 đơn vị từ 2 đến 6 đại biểu và 30 đơn vị từ 7 đến 9 đại biểu. Việc mỗi đơn vị bầu cử bầu một số đại biểu không quá ít và cũng không quá nhiều như lần này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức và lãnh đạo bầu cử, việc cử tri lựa chọn người để bầu và việc người ứng cử hay đại biểu tiếp xúc với cử tri.

6. Về việc kết hợp bầu cử Quốc hội với việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp

Năm 1971, Hội đồng nhân dân các cấp xã, huyện, tỉnh, khu đều hết nhiệm kỳ. Nếu kết hợp việc bầu cử đại biểu Quốc hội với việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp thì các tỉnh thuộc hai khu tự trị sẽ bầu 5 cấp trong một lúc, các tỉnh khác sẽ bầu 4 cấp trong một lúc và các thành phố trực thuộc Trung ương sẽ bầu 3 hoặc 4 cấp trong một lúc.

Như vậy, có thể sẽ gây khó khăn cho người đi bầu vì phải chọn nhiều đại biểu cho nhiều cấp trong một lúc; đồng thời sẽ gây khó khăn, phức tạp trong công tác tổ chức bầu cử. Do đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã giải quyết là chỉ nên kết hợp việc bầu cử đại biểu Quốc hội với việc bầu cử Hội đồng nhân dân cấp khu (Tây Bắc và Việt Bắc). Còn việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp khác thì sẽ làm vào thời gian khác và do Hội đồng Chính phủ quyết định.

7. Về việc thành lập Hội đồng bầu cử

Để phụ trách việc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa IV theo nhiệm vụ và quyền hạn ghi trong Luật bầu cử, ngày 08 tháng 02 năm 1971, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định thành lập Hội đồng bầu cử gồm 25 người, đại biểu cho các chính đảng, các đoàn thể nhân dân trong cả nước. Ngày 15 tháng 02 năm 1971, Hội đồng bầu cử trong phiên họp đầu tiên đã quyết định chương trình hoạt động của mình và đã bầu các vị phụ trách và bộ phận thường trực gồm các đồng chí sau đây:

Đồng chí Trường Chinh

Chủ tịch

Đồng chí Hoàng Văn Hoan

Phó Chủ tịch

Đồng chí Nguyễn Xiển

Phó Chủ tịch

Đồng chí Trần Đăng Khoa

Phó Chủ tịch

Đồng chí Nguyễn Thị Thập

Phó Chủ tịch

Đồng chí Trần Đình Tri

Thư ký

Đồng chí Trương Tấn Phát

Thư ký

Đồng chí Nguyễn Văn Chi

Thư ký

 Ngoài ra, để chuẩn bị cho cuộc bầu cử Quốc hội khóa IV, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phối hợp với Chính phủ tổ chức hội nghị với đại diện Uỷ ban Hành chính các khu tự trị, tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương và các ngành hữu quan chung quanh Trung ương để thảo luận các quyết định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc bầu cử, chỉ thị của Chính phủ phục vụ việc bầu cử và kế hoạch tuyên truyền bầu cử.

III- VỀ CÔNG TÁC PHÁP LUẬT

Trong thời gian qua, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua hai pháp lệnh quan trọng:

1. Pháp lệnh ngày 21-10-1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa

Pháp lệnh này thể hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với tài sản xã hội chủ nghĩa là kiên quyết và triệt để bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng, bảo vệ nền văn hóa dân tộc, nâng cao đời sống của nhân dân, bảo đảm giành thắng lợi hoàn toàn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

Toàn bộ Pháp lệnh này quán triệt nguyên tắc cơ bản được nêu trong Điều 2 của Hiến pháp: “Tài sản xã hội chủ nghĩa là thiêng liêng, tuyệt đối không ai được xâm phạm. Mọi người đều có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản đó”.

“Mọi hành động xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh”.

“Nghiêm cấm mọi hành động bao che kẻ phạm tội”.

Pháp lệnh này sẽ có tác dụng giáo dục sâu sắc, phát huy tinh thần làm chủ tập thể của cán bộ, công nhân, viên chức, bộ đội và toàn thể nhân dân, đề cao đạo đức xã hội chủ nghĩa và ý thức tôn trọng và bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, động viên mọi người ra sức đấu tranh chống những hành động xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, đồng thời bảo đảm xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa.

2. Pháp lệnh ngày 21-10-1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân

Việc ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân cùng một lúc với Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với việc bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân. Điều 1 của Pháp lệnh nêu rõ những tài sản riêng của công dân được Nhà nước bảo hộ: của cải do sức lao động của công dân làm ra, của cải thu nhập một cách hợp pháp hoặc để dành được, như tiền bạc, lương thực, quần áo, nhà ở, gia súc, xe cộ, tư trang, văn hóa phẩm và đồ dùng riêng khác và quy định: “Mọi hành động xâm phạm tài sản riêng của công dân phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh”.

Pháp lệnh bảo hộ tài sản riêng của công dân, nhằm tăng cường việc giữ gìn trật tự trị an, bảo đảm điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời đề cao đạo đức xã hội chủ nghĩa, chống những hành động xâm phạm tài sản riêng của công dân.

Hai pháp lệnh đã được mọi tầng lớp nhân dân nhiệt liệt hoan nghênh. Nhiều cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, hợp tác xã đã họp mít tinh hưởng ứng. Nhiều đoàn thể nhân dân đã ra nghị quyết kêu gọi mọi người ra sức phấn đấu chấp hành nghiêm chỉnh hai pháp lệnh này. Trong nhân dân, nhiều người đã gửi thư đến Văn phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoan nghênh và nói lên tâm tư tình cảm của mình đối với việc ban hành hai pháp lệnh trên. Trong nhiều cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã và trong các đoàn thể nhân dân đang có phong trào nghiên cứu học tập và thi hành hai pháp lệnh. Hiện nay, Hội đồng Chính phủ đang có kế hoạch nhằm đẩy mạnh việc phổ biến và học tập sâu rộng hai pháp lệnh, và bảo đảm cho cơ quan nhà nước và công dân nghiêm chỉnh chấp hành hai pháp lệnh, làm cho hai pháp lệnh thực sự là vũ khí sắc bén bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và bảo hộ tài sản riêng của công dân.

Việc ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân là một bước quan trọng trong việc xây dựng pháp luật hình sự của Nhà nước ta. Nó đáp ứng một đòi hỏi cấp thiết của cách mạng, và thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân ta hiện nay.

Ngoài các pháp lệnh trên, ngày 08-02-1971, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua những nghị quyết sau đây:

1. Nghị quyết ngày 19 tháng 8 năm 1970, tha cho những phạm nhân đã cải tạo tốt và giảm hạn tù cho những phạm nhân thật thà cố gắng sửa chữa, nhân dịp lễ Quốc khánh lần thứ 25 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

2. Nghị quyết ngày 08 tháng 02 năm 1971 giao cho Hội đồng Chính phủ xét và quyết định về những trường hợp cụ thể xin vào hoặc xin thôi quốc tịch Việt Nam.

IV- VỀ TỔ CHỨC CỦA NHÀ NƯỚC

1. Trong phiên họp ngày 09-01-1971, theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phê chuẩn việc chuyển Uỷ ban Thể dục thể thao Trung ương thành Tổng cục Thể dục thể thao trực thuộc Hội đồng Chính phủ.

2. Về việc bổ nhiệm các Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại các nước, trong thời gian qua, theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định:

- Ngày 01-8-1970, bổ nhiệm:

+ Đồng chí Lê Đông làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, thay đồng chí Bùi Đình Đổng về nước nhận công tác khác;

+ Đồng chí Nguyễn Ngọc Sơn làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại nước Cộng hòa Cuba, thay đồng chí Ngô Mậu về nước nhận công tác khác;

+ Đồng chí Hoàng Cương làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại nước Cộng hòa Nhân dân Hunggari, thay đồng chí Hoàng Lương về nước nhận công tác khác;

+ Đồng chí Đỗ Quốc Cường làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, thay đồng chí Nguyễn Huy Thu về nước nhận công tác khác;

+ Đồng chí Nguyễn Đức Thiệng, làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại nước Cộng hòa Angiêri Dân chủ và Nhân dân kiêm chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại nước Cộng hòa Xênêgan;

+ Đồng chí Lê Thanh Tâm làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại nước Cộng hòa Thống nhất Tandania, kiêm chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại nước Cộng hòa Xômali.

- Ngày 19-10-1970, bổ nhiệm:

+ Đồng chí Hoàn Đức Phong làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại nước Cộng hòa Ảrập Xyri, kiêm chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại nước Cộng hòa Irắc, thay đồng chí Phạm Ngọc Quế về nước nhận công tác khác;

+ Đồng chí Hoàng Thành Trai làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại nước Xâylan;

+ Đồng chí Nguyễn Đăng Hành làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Rumani, kiêm chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại nước Cộng hòa Liên bang xã hội chủ nghĩa Nam Tư.

- Ngày 09-01-1971, bổ nhiệm:

+ Đồng chí Đinh Thị Ngọc Tảo làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại nước Cộng hòa Nhân dân Bungari, thay đồng chí Lương Xướng về nước nhận công tác khác;

+ Đồng chí Nguyễn Văn Thụ làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại nước Cộng hòa Nhân dân Anbani, thay đồng chí Nguyễn Văn Hồng về nước nhận công tác khác.

V- VỀ VIỆC QUYẾT ĐỊNH PHÊ CHUẨN CÁC HIỆP ĐỊNH

1. Ngày 19-8-1970, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định phê chuẩn Hiệp định thương mại và Hiệp định thanh toán đã được ký kết ngày 31-12-1969 giữa Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ nước Cộng hòa Ảrập Xyri.

2. Ngày 06-11-1970, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định phê chuẩn Hiệp định lãnh sự đã được ký kết ngày 07-7-1970 giữa Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Mông cổ.

3. Ngày 02-02-1971, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định phê chuẩn Hiệp định thương mại và thanh toán đã được ký kết ngày 09-01-1970 giữa Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ nước Cộng hòa Angiêri Dân chủ và Nhân dân.

VI- VỀ VIỆC TẶNG THƯỞNG DANH HIỆU
 ANH HÙNG VÀ TẶNG THƯỞNG HUÂN CHƯƠNG

Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định tặng thưởng danh hiệu Anh hùng và tặng thưởng huân chương các loại cho nhiều đơn vị và cá nhân:

- Tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 55 đơn vị và 42 cán bộ và chiến sĩ thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và dân quân, tự vệ đã lập được nhiều thành tích rất xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

- Tặng thưởng 54 Huân chương Quân công và 6.398 Huân chương Chiến công cho 6.452 đơn vị, cán bộ và chiến sĩ trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và dân quân, tự vệ đã có nhiều thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

- Tặng thưởng 653 Huân chương Kháng chiến cho một số đơn vị đã có nhiều thành tích trong phong trào tòng quân và cho một số gia đình có nhiều người tham gia Quân đội nhân dân, Công an nhân dân chống Mỹ, cứu nước.

- Tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang cho nhiều cán bộ và chiến sĩ đã có thành tích phục vụ trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang từ ngày 20-7-1954.

- Tặng thưởng Huân chương Kháng chiến và Huân chương Lao động cho 219 địa phương, đơn vị và cá nhân đã có nhiều thành tích xuất sắc trong sản xuất, công tác, chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống Mỹ, cứu nước.

- Tặng thưởng Huân chương Chiến công và Huân chương Lao động cho 68 chuyên gia các nước xã hội chủ nghĩa anh em đã có công giúp Chính phủ và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

VII- VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT ĐƠN KHIẾU NẠI,
 TỐ CÁO KIẾN NGHỊ CỦA NHÂN DÂN

Từ sau kỳ họp thứ 6 của Quốc hội khóa III đến nay, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã nhận được 2.114 đơn do cán bộ và nhân dân gửi đến, đã tiếp 471 lần/người đến Văn phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trình bầy sự việc. Số đơn gửi tới Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong thời gian này tăng lên rất nhiều, chỉ trong 09 tháng, từ tháng 6-1970 đến tháng 02-1971, số đơn đã nhận được cũng nhiều hơn cả năm 1969 là 2.274 đơn, bình quân mỗi tháng có 558 đơn. Số người tới trực tiếp trình bầy sự việc và nguyện vọng cũng tăng lên rõ rệt. Có những vụ có hàng chục người cùng đi khiếu nại, tố cáo về một vấn đề và đi lại rất nhiều lần.

Các vấn đề nêu lên cũng phức tạp hơn năm trước và có quan hệ đến việc chấp hành nhiều chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Trong số đơn nhận được, loại tố cáo và khiếu nại chiếm tỷ lệ cao và trong loại đơn này, có nhiều đơn giấu tên và nhiều đơn tập thể ký tên. Qua báo cáo của các cơ quan và địa phương thì những sự việc nêu trong đơn giấu tên và đơn tập thể ký tên phần lớn là đúng sự thật.

Đối tượng bị tố cáo và khiếu nại có cả từ lãnh đạo ở cơ sở hợp tác xã, xã, đến một số cán bộ lãnh đạo và cán bộ thừa hành ở các cơ quan, xí nghiệp nhà nước đã phạm các sai lầm như quan liêu, hống hách, độc đoán, chuyên quyền, bè phái, thành kiến, vi phạm các chính sách, pháp luật của Nhà nước, ý thức tổ chức và kỷ luật, tinh thần trách nhiệm kém, tham ô, hủ hóa Có trường hợp nghiêm trọng làm thiệt hại đến đời sống tinh thần vật chất của cán bộ, nhân dân, đến tài sản của Nhà nước. Cá biệt có trường hợp vì thiếu tinh thần trách nhiệm gây thiệt hại đến tính mạng của nhân dân và cán bộ, công nhân.

Tất cả những thư từ khiếu nại, tố cáo, yêu cầu, ý kiến đóng góp của cán bộ và nhân dân gửi tới Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đều được nghiên cứu và giao cho các cơ quan có trách nhiệm giải quyết, đồng thời tin cho các đại biểu Quốc hội ở cơ quan và Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương hữu quan biết để theo dõi việc giải quyết.

Qua việc nghiên cứu đơn khiếu nại, tố cáo của nhân dân gửi tới Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và qua việc tiếp xúc với những người tới Văn phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nộp đơn và trình bày, thì thấy phần lớn những sự việc nêu lên là đúng. Các ngành, các cấp, các địa phương đã có người cố gắng hơn trước trong việc giải quyết thư khiếu tố của nhân dân, nhưng cố gắng đó không đều và không liên tục. Tuy vậy, vẫn còn hiện tượng kéo dài việc giải quyết, hoặc đơn chạy vòng quanh từ cơ quan này sang cơ quan khác, từ cấp trên xuống cấp dưới và cuối cùng đơn ấy lại đến tay cơ quan hoặc người bị khiếu tố, công việc không những không được giải quyết tốt mà người khiếu tố còn bị thù oán truy trù.

Để bảo đảm việc thi hành luật pháp, chính sách của Nhà nước, bảo đảm quyền khiếu nại và tố cáo của nhân dân, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã đề nghị với Chính phủ:

1. Tăng cường việc giáo dục, làm cho cán bộ tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước, đồng thời tăng cường kiểm tra, đôn đốc các cơ quan ở Trung ương và địa phương để khắc phục tình trạng buông lỏng, thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc giải quyết những khiếu nại, tố cáo, yêu cầu, kiến nghị của nhân dân.

2. Xúc tiến việc nghiên cứu xây dựng dự án pháp lệnh quy định trách nhiệm cụ thể của các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết những khiếu nại, tố cáo của nhân dân theo Điều 29 của Hiến pháp.

Trong khi chờ đợi việc ban hành pháp lệnh này, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã đề nghị Chính phủ xét càng sớm càng tốt đến việc ra chỉ thị hay thông tư cần thiết để:

+ Tuyệt đối cấm chuyển đơn khiếu tố cho cơ quan hay người bị khiếu tố xét.

+ Ngăn ngừa và khi cần, có kỷ luật thích đáng đối với những hành động ngăn cản việc khiếu nại, tố cáo, truy trù người khiếu nại, tố cáo.

+ Nghiên cứu xúc tiến việc thành lập Ban Thanh tra ở những tỉnh, thành chưa thành lập, kiện toàn các tổ chức xét đơn dân nguyện ở các ngành, các cấp.

VIII- VỀ QUAN HỆ VỚI CÁC ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
 VÀ VỚI NHÂN DÂN

Tại kỳ họp thứ 6 của Quốc hội khóa III (tháng 6 năm 1970), nhiều đồng chí đại biểu đã nêu tại hội trường hoặc trong các cuộc họp Tổ nhiều vấn đề về quốc kế dân sinh. Văn phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã chuyển đến Phủ Thủ tướng, các Bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao nghiên cứu. Văn phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã gửi đến các đại biểu Quốc hội ý kiến trả lời của các cơ quan trên.

Sau kỳ họp thứ 6, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu đã về báo cáo với cử tri ở các địa phương, các cơ quan nhà nước, xí nghiệp, nông trường, lâm trường, hải cảng, hợp tác xã về nội dung và kết quả của kỳ họp, góp phần động viên nhân dân nâng cao ý thức trách nhiệm và vai trò làm chủ tập thể của mình, ra sức đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước.

Các cử tri đã tỏ ra rất tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, rất phấn khởi trước những thắng lợi to lớn của quân dân cả nước và thắng lợi của nhân dân hai nước anh em Campuchia và Lào.

Sau các cuộc tiếp xúc với đại biểu Quốc hội, nhiều địa phương, nhiều đơn vị đã gửi điện văn, quyết tâm thư lên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, nguyện ra sức thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, chấp hành nghiêm chỉnh Nghị quyết của Quốc hội bằng hành động cách mạng thực tế.

Nhiều Đoàn đại biểu Quốc hội như Đoàn Vĩnh Phú, Đoàn Cao Bằng, Đoàn Hải Phòng, Đoàn Quảng Bình, v.v., đã xây dựng được nền nếp báo cáo đều đặn và tương đối rộng rãi đối với cử tri.

Một số đại biểu đã đến một số hợp tác xã nông nghiệp, ra đồng ruộng thăm bà con xã viên làm ăn, thăm hỏi một số gia đình liệt sĩ, thương binh, gia đình quân nhân tại ngũ v.v.. Các đại biểu đã trực tiếp nghe phản ánh tình hình chấp hành chính sách của Đảng và Nhà nước, góp ý kiến với chính quyền địa phương và đề đạt nguyện vọng chính đáng của cử tri lên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Một số đại biểu đã đến thăm một số các nhà máy, các xí nghiệp, góp phần nâng cao khí thế lao động, động viên anh chị em công nhân tăng năng suất lao động và hoàn thành kế hoạch của đơn vị mình.

Một số đại biểu đã gửi thư phản ánh với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tình hình tham gia tổ chức tuyên truyền phổ biến hai Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân, tình hình thi hành luật pháp và chấp hành chính sách ở địa phương, đồng thời kiến nghị một số vấn đề cụ thể. Sau khi nghiên cứu, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã giao cho các cơ quan hữu quan giải quyết các vấn đề đó và trả lời cho các đại biểu.

Nhiều đại biểu đã tham dự Hội nghị Hội đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử của mình. Một số ủy viên trong Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã đi dự Hội nghị Hội đồng nhân dân một số nơi và nhân dịp này đã góp ý kiến với Hội đồng nhân dân đã tìm hiểu tình hình hoạt động của các đại biểu Quốc hội ở địa phương, tình hình giải quyết đơn khiếu tố của nhân dân mà Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã giao cho địa phương xét.

Các hoạt động trên đây đã góp phần tăng cường sự liên hệ giữa Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, giữa các đại biểu Quốc hội với đại biểu Hội đồng nhân dân và nhân dân các địa phương.

IX- VỀ QUAN HỆ VỚI HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ

Mối quan hệ giữa Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ luôn luôn chặt chẽ, các nghị quyết, nghị định, chỉ thị của Hội đồng Chính phủ, các thông báo thường kỳ về các mặt hoạt động của Hội đồng Chính phủ vẫn được gửi tới Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, qua đó mà Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có thể theo dõi kịp thời tình hình chung và tình hình thực hiện các nghị quyết của Quốc hội.

Các đại diện của Hội đồng Chính phủ thường xuyên tham dự các phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, trình những đề nghị, dự án cần được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xét và thông qua, báo cáo về những vấn đề cần thiết với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Trong thời gian qua, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã kiến nghị với Hội đồng Chính phủ một số vấn đề về xây dựng pháp luật:

- Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cho nên trong việc xây dựng pháp luật, Chính phủ cùng với các Bộ chủ quản cần chủ động trong việc nghiên cứu xây dựng các dự án luật và pháp lệnh về các vấn đề có liên quan đến công tác quản lý của Chính phủ, đệ trình Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ nghiên cứu việc thành lập một cơ quan giúp Chính phủ trong việc nghiên cứu giải quyết các vấn đề pháp luật, khởi thảo các dự luật, dự án pháp lệnh cần thiết, nhằm tăng cường hơn nữa pháp chế xã hội chủ nghĩa của Nhà nước.

- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ sớm cho thành lập Trường Đào tạo cán bộ pháp lý.

X- VỀ QUAN HỆ VỚI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

Trong thời gian qua, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội luôn luôn giữ quan hệ chặt chẽ với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã cử đại diện tham dự đều đặn các phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Tòa án nhân dân tối cao đã gửi đến Uỷ ban Thường vụ Quốc hội báo cáo công tác năm 1970 và phương hướng công tác năm 1971 của ngành Tòa án và báo cáo tổng kết công tác 4 năm chống chiến tranh phá hoại của ngành Tòa án; Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã gửi báo cáo công
tác năm 1970 và phương hướng công tác năm 1971 của ngành Kiểm sát.

Ngoài ra, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã gửi đến Uỷ ban Thường vụ Quốc hội các chỉ thị và báo cáo chuyên đề về một số công tác cụ thể của ngành mình. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, trong nhiều phiên họp, đã xét một số vấn đề cụ thể về công tác xét xử của ngành Tòa án.

Tại kỳ họp này của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo công tác trước Quốc hội; đến nay Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã hết nhiệm kỳ; Quốc hội sẽ bầu lại vào các chức vụ đó.

XI- VỀ QUAN HỆ VỚI QUỐC HỘI CÁC NƯỚC

Năm 1965, Đoàn đại biểu Quốc hội nước ta đã đi thăm hữu nghị bốn nước xã hội chủ nghĩa anh em: Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ và Liên Xô. Sau đó vì tình hình thời chiến, ta chưa có điều kiện thuận tiện để đi thăm các nước anh em khác.

Năm 1970, trong hoàn cảnh miền Bắc nước ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ và trong tình hình cuộc đấu tranh của nhân dân ba nước Đông Dương đang phát triển mạnh trên đà thắng lợi, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đáp lại lời mời của Quốc hội các nước anh em, đã cử một đoàn đại biểu gồm 07 đồng chí do đồng chí Hoàng Văn Hoan, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, làm Trưởng đoàn, tiếp tục đi thăm các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.

Mục đích cuộc đi thăm lần này của Đoàn đại biểu Quốc hội ta cũng như lần trước đây, là để thắt chặt hơn nữa tình hữu nghị sẵn có từ lâu, tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác và tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ta và nhân dân các nước anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.

Cuộc đi thăm lần này còn là dịp để Quốc hội ta giới thiệu tình hình đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đặc biệt là tình hình phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ba nước Đông Dương gần đây và nói lên quyết tâm của nhân dân ta là đoàn kết chặt chẽ với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia anh em, đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới.

Từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 8, Đoàn đại biểu ta đã đi thăm bốn nước xã hội chủ nghĩa anh em: Bungari, Cộng hòa Dân chủ Đức, Anbani và Hunggari.

Đoàn đã trao đổi ý kiến thân mật với các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đã đi thăm nhiều nhà máy, hợp tác xã nông nghiệp, cơ quan văn hóa, doanh trại bộ đội, trại hè thiếu nhi, đã dự nhiều cuộc mít tinh quần chúng chào đón Đoàn và tiếp xúc rộng rãi với các tầng lớp nhân dân của các nước anh em.

Trên đất nước anh em, ở bất cứ nơi nào mà Đoàn đến thăm, Đoàn cũng được các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đông đảo nhân dân đón tiếp rất nhiệt tình, trọng thể và được coi như những người đồng chí, những người bạn chiến đấu từ tiền tuyến thắng lợi trở về.

Trong tất cả các buổi gặp gỡ, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước các nước anh em đều ca ngợi cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân ta, ủng hộ lập trường đúng đắn của Chính phủ ta và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đồng thời bày tỏ quyết tâm tiếp tục giành cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta sự ủng hộ và giúp đỡ trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản.

Đoàn đã thay mặt Quốc hội và nhân dân ta bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đối với sự ủng hộ đầy nhiệt tình và sự giúp đỡ quý báu của Đảng, Nhà nước và nhân dân các nước anh em.

Đoàn cũng đã tỏ lòng khâm phục truyền thống đấu tranh bất khuất của nhân dân các nước anh em, những thắng lợi to lớn đã thu được trong sự nghiệp xây dựng đất nước và đời sống và coi đó là những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp chung của chúng ta.

Nhìn chung lại các mặt, chuyến đi thăm hữu nghị của Đoàn đại biểu Quốc hội ta tại bốn nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã thành công tốt đẹp. Được kết quả như thế, trước hết là do sự lãnh đạo tài tình của Đảng và cuộc chiến đấu thắng lợi của toàn thể đồng bào ta và cũng là do tình hữu nghị sẵn có và sự giúp đỡ chí tình của Quốc hội và của nhân dân các nước anh em.

XII- VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI

1. Uỷ ban Kế hoạch và Ngân sách đã nghiên cứu, thẩm tra và thuyết trình trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về quyết toán ngân sách nhà nước năm 1969 do Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

2. Uỷ ban Văn hóa và Xã hội đã nghe báo cáo của Bộ Y tế về tình hình công tác y tế và bảo vệ sức khỏe của nhân dân và cán bộ ta trong 25 năm qua, nhất là trong bốn năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và phương hướng nhiệm vụ của ngành Y tế trong thời gian tới.

3. Uỷ ban Thống nhất họp nhiều lần, có các đại biểu miền Nam trong Quốc hội tham dự, để:

- Hưởng ứng Lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 10-12-1970.

- Ủng hộ giải pháp toàn bộ mười điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và tám điểm bổ sung của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, do Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình, Trưởng Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố trong phiên họp thứ 84 ngày 17-9-1970 của Hội nghị Pari về Việt Nam.

- Ra tuyên bố phản đối đế quốc Mỹ liên tiếp vi phạm Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam nhân dịp kỷ niệm lần thứ 16 ngày ký kết Hiệp định đó.

- Ra tuyên bố phản đối đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, mở rộng xâm lược Lào.

- Kỷ niệm lần thứ 10 ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, kỷ niệm một năm ngày lễ chính thức của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và kỷ niệm lần thứ 10 ngày thống nhất các lực lượng vũ trang nhân dân Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Ngoài ra, Uỷ ban Thống nhất còn tổ chức một số cuộc họp để thông báo về tình hình miền Nam và tình hình đấu tranh thống nhất nước nhà với các đại biểu miền Nam trong Quốc hội.

4. Uỷ ban Dân tộc đã nghe Uỷ ban Dân tộc của Chính phủ báo cáo về công tác ở miền núi của Chính phủ và cùng với Uỷ ban Dân tộc của Chính phủ chuẩn bị xong việc báo cáo tình hình công tác dân tộc trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

5. Uỷ ban Dự án Pháp luật đã họp ngày 17-10-1970 để thẩm tra Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.

Trên đây là những công tác của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các Uỷ ban của Quốc hội trong thời gian từ kỳ họp thứ 6 đến nay. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội xét và phê chuẩn Nghị quyết về tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1969 mà Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua theo sự ủy nhiệm của Quốc hội.


 


(*) Báo cáo này được phát cho các vị đại biểu Quốc hội, không trình bày trước Quốc hội (BT).

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội.