UỶ BAN ĐỐI NGOẠI NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ

Phần thứ hai

MỘT SỐ TƯ LIỆU CỦA ỦY BAN ĐỐI NGOẠI QUA CÁC THỜI KỲ

 

QUỐC HỘI KHOÁ XI

Uỷ ban Đối ngoại

----------

Số: 797/UBĐN

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

---------------------------------

Hà Nội,  ngày 16 tháng 11 năm 2001

 

BÁO CÁO Ý KIẾN CỦA UỶ BAN ĐỐI NGOẠI

VỀ VIỆC PHÊ CHUẨN HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ

 

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước,

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội

Kính thưa các vị khách mời,

Theo sự phân công của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, ngày 8 tháng 10 năm 2001, Thường trực Uỷ ban Đối ngoại đã có cuộc họp với Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại, Bộ Tư pháp, Ban Đối ngoại Trung ương và các ban, ngành có liên quan để bàn bạc và thống nhất lịch trình làm việc, chuẩn bị cho việc Quốc hội phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Tại cuộc họp này, Thường trực Uỷ ban Đối ngoại và các đại diện các cơ quan hữu quan đã thảo luận và quán triệt yêu cầu cảu Báo cáo ý kiến của Uỷ ban Đối ngoại cùng những nội dung cơ bản cần thể hiện trong Báo cáo.

Ngày 18 táng 10 năm 2001, Thường trực Uỷ ban Đối ngoại đã họp đóng góp ý kiến cho bản Dự thảo lần thứ nhất được xây dựng trên cơ sở các tư liệu trong Thư mục trích dẫn.

Ngày 19 tháng 10 năm 2001, Uỷ ban Đối ngoại đã tổ chức họp phiên toàn thể với sự tham dự của Phó chủ tịch Quốc hội Mai Thúc Lân và đại diện Thường trực các Ủy ban Pháp luật, Kinh tế và Ngân sách, Quốc phòng và An ninh, Văn hoá Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng, Các vấn đề xã hội, Khoa học Công nghệ và Môi trường, Lãnh đạo Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại, Bộ Tư pháp và Ban Đối ngoại Trung ương để cho ý kiến về công tác chuẩn bị cho Quốc hội ta xem xét và phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Tại phiên họp này, sau khi nghe Báo cáo giải trình Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, do lãnh đạo Bộ Thương mại, thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày và Báo cáo của Uỷ ban Đối ngoại, các đại biểu đã thảo luận, phân tích và đóng góp ý kiến vào những nội dung cơ bản của hai Báo cáo trên.

Thay mặt các cơ quan của Quốc hội đã tham gia công tác chuẩn bị, tôi xin trình bày Báo cáo ý kiến của Uỷ ban Đối ngoại về việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ với Quốc hội.

Nội dung báo cáo

Xác định yêu cầu của Báo cáo của Uỷ ban Đối ngoại về Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là để Quốc hội phê chuẩn Hiệp định, Báo cáo này có những nội dung sau đây:

I. Bối cảnh

II. Mặt bằng của hai bên

III. Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, một thắng lợi của Việt Nam

IV. Kết quả thẩm tra Hiệp định

IV.1. Những điểm chi phối của Hiệp định

IV.2. Những thời cơ và thách thức của Hiệp định

IV.3. Những vấn đề song phương và quốc tế có liên quan đến Hiệp định.

V. Kiến nghị.

 

I. BỐI CẢNH

Bối cảnh kinh tế thế giới các năm đàm phán ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, có một số nét chủ yếu có liên quan đến Hiệp định như sau:

Sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao tháng 5 năm 1995, chúng ta đi vào đàm phán Hiệp định Thương mại năm 1996. Khi đó toàn cầu hoá kinh tế, một xu thế tất yếu, phát triển mạnh. Tổ chức GATT chuyển sang Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là một sự biến đổi về chất của sự tự do hoá thương mại thế giới. Khoa học công nghệ tiến nhanh chưa từng thấy. Kinh tế tri thức chi phối bởi Hiệp định về Quyển sở hữu trí tuệ có liên quan đến Thương mại (TRIPS) của WTO cũng vậy. Đối tượng của thương mại không chỉ có hàng hoá vật chất mà còn là các sản phẩm tri thức và các dịch vụ. Bối cảnh trên đây lại diễn ra trong lúc chủ nghĩa xã hội đang lúc thoái trào, chủ nghĩa tư bản hầu như không có đối trọng, sự chi phối kinh tế - chính trị của Mỹ ngày càng rõ nét.

Tuy nhiên, hó ngăn cách giàu nghèo, hố ngăn cách tri thức giữa các nước đã phát triển và các nước đang phát triển và trong lòng mỗi nước ngày càng sâu rộng. Trong tình hình đó, một bộ phận nhân dân trên thế giới nhận thức sự bất công và sự bóc lột mới, bắt đầu phản đối mặt trái của toàn cầu hoá kinh tế mà cuộc biểu tình ở Seattlle (Hoa Kỳ) vào tháng 11/1999 là một thể hiện khởi đầu. Hội nghị cấp cao Nhóm các nước đang phát triển G77, mà Việt Nam là một thành viên, tháng 4/2000, tìm cách tăng cường sự phối hợp hành động vì một trật tự kinh tế thế giới công bằng hơn. Các tổ chức hay hiệp hội các nước theo khu vực đẩy mạnh sự hợp tác để hạn chế mặt trái của toàn cầu hoá để cùng phát triển.

 

II. MẶT BẰNG CỦA HAI BÊN

Chúng tôi chỉ giới hạn trên những lĩnh vực trực tiếp liên quan tới Hiệp định Thương mại.

Về phía Hoa Kỳ

Về mặt kinh tế, về mặt khoa học và công nghệ, Hoa Kỳ ở trình độ phát triển thuộc loại cao, nếu không nói là cao nhất thế giới.

Đồng USD, tuy từ năm 1971 không được Hoa Kỳ bảo đảm bằng đồng vàng nữa, vẫn là đồng tiền dự trữ, đồng tiền thanh toán và đồng tiền chuyển đổi mạnh nhất, liên tục từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Hiện nay, trên thực tế đồng USD đang chi phối hoạt động mậu dịch thế giới và ở các mức độ khác nhau, nền tài chính tiền tệ của tất cả các nước.

Thị trường chứng khoán ở Hoa Kỳ có từ lâu đời và rất phát triển.

Hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ rất khác với hệ thống pháp luật của Việt Nam.

Về mặt văn hoá, xã hội ở Hoa Kỳ, sự tương phản giữa 1/5 giàu nhất và 1/5 nghèo nhất trong xã hội thuộc loại đậm nét nhất thế giới.

Về phía Việt Nam

Đi vào đàm phán, sau 21 năm chiến tranh chấm dứt, đất nước thống nhất, sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Việt Nam đã có nhiều đổi thay, nền kinh tế không ngừng tăng trưởng, chính trị ổn định được thế giới công nhận và đánh giá cao.

Tuy vậy, hạ tầng cơ sở kinh tế, xã hội còn rất thấp; nền kinh tế chủ yếu vẫn còn là nông nghiệp, mặt bằng công nghệ chế biến và chế tạo là của những năm 1970, 1980; thương mại và dịch vụ mới phát triển trong cơ chế thị trường từ vài năm trở lại. Tổng sản phẩm trong nước cũng như thu nhập bình quân đầu người thuộc loại thấp.

Thị trường chứng khoán đang trong giai đoạn thí điểm, chỉ giới hạn trong nước.

Theo Hiến pháp 1992, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội và mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Vai trò lập pháp và giám sát tối cao thuộc Quốc hội. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh.

Tuy hạ tầng cơ sở vật chất còn thấp, tuy bắt đầu có sự phân hoá giàu nghèo, nhưng về mặt văn hoá xã hội, Việt Nam vẫn giữ được những giá trị văn hoá riêng và lâu đời của mình mà hai đặc thù là đoàn kết dân tộc và ý chí bảo vệ độc lập thống nhất
đất nước.

 

III. HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ, MỘT THẮNG LỢI CỦA VIỆT NAM

Suốt 4 năm, việc đàm phán ký kết đã được Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trun ương Đảng chỉ đạo sát sao theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng: "Nhiệm vụ đối ngoại (...) là củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, (...) dẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới” và của Nghị quyết 04 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII) "chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp (...), tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán HĐTM với Hoa Kỳ, gia nhập APEC và WTO, (...)".

Hiệp định Thương mại đã chính thức được ký kết vào ngày 13/7/2000. Ngày 6/9/2001, Hạ viện Mỹ đã thông qua. Ngày 4/10/2001, Thượng nghị viện đã phê chuẩn và ngày 18/10/2001, Tổng thống Hoa Kỳ đã ký lệnh ban hành.

Sau hơn 20 năm Mỹ cấm vận về kinh tế và tìm mọi cách để cô lập Việt Nam về chính trị cũng như về kinh tế, trong bối cảnh quốc tế đã nêu và trên hai mặt bằng rất khác biệt nhau, Hiệp định là một thắng lợi lớn của nhân dân Việt Nam, nguyên tắc tôn trọng độc lập và chủ quyền của nhau được khẳng định ngay trong đoạn mở đầu của Hiệp định.

Mặc dù bị cấm vận, Việt Nam đã thiết lập bang giao với hầu hết các nước. Hiệp định Thương mại được ký kết càng khẳng định vị trí và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Sắp tới, với việc Quốc hội Việt Nam phê chuẩn, Hiệp định đi vào thực thi, hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, sẽ tạo những điều kiện mới để nền kinh tế nước ta phát triển và hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.

Tuy nhiên, chúng ta không mơ hồ về ý đồ không hề thay đổi và cũng không hề che dấu của những thế lực thù địch trong chính quyền Hoa Kỳ, đối với cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cách tốt nhất để vừa hợp tác vừa đấu tranh có hiệu quả, là nhận thức rõ ý đồ đó, các thời cơ và thách thức mà Hiệp định mở ra, quyết tâm biến thời cơ thành hiện thực, vượt qua các thách thức chuyển thành thuận lợi mới.

 

IV. KẾT QUẢ THẨM TRA HIỆP ĐỊNH

IV.1. Những điểm chi phối của Hiệp định

Hiệp định có bốn điểm chi phối:

(1) Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là một Hiệp định song phương, song nền tảng là đa phương vì, về cơ bản, là những quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới. Từ "thương mại" trong Hiệp định được hiểu theo nghĩa của Tổ chức này, bao gồm Thương mại hàng hoá, Quyền Sở hữu trí tuệ, Thương mại dịch vụ và phát triển quan hệ đầu tư. Phạm vi điều chỉnh của Hiệp định rộng hơn tất cả các Hiệp định song phương mà Việt Nam đã ký kết cho tới nay và là phạm vi mà Hoa Kỳ chủ trương đàm phán ký kết từ năm 1995, sau khi WTO được thành lập.

(2) Trong đoạn mở đầu của Hiệp định nêu rõ một nội dung có tính nguyên tắc là hai bên mong muốn thiết lập và phát triển quan hệ kinh tế và thương mại bình đẳng và cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng độc lập và chủ quyền của nhau; và một nội dung quan trọng khác là Hai bên ghi nhận rằng, Việt Nam là một nước đang phát triển và đang tiến tới trở thành thành viên của WTO.

Điểm (1) và vế thứ hai của điểm (2) tạo điều kiện thuận lợi cho việc Việt Nam tham gia WTO trong thời gian tới. Nội dung thứ hai có ý nghĩa quan trọng về thuế suất mà Hoa Kỳ áp dụng đối với hàng hoá của chúng ta xuất khẩu sang Hoa Kỳ.

(3) Hai bên dành cho nhau quy chế tối huệ quốc và quy chế đối xử quốc gia.

Tuy nhiên, theo nội dung ngầm hiểu của Điều 8, khoản 3, Chương VII, quy chế tối hệ quốc mà Hoa Kỳ dành cho Việt Nam là hàng năm cho đến khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và với điều kiện Nghị viện Hoa Kỳ đồng ý gia hạn miễn trừ điều khoản Kackson-Vanik đối với Việt Nam trong năm đó. Theo nguyên tắc có đi có lại, Việt Nam có quyền huỷ bỏ quy chế tối huệ quốc, nếu Hoa Kỳ huỷ bỏ.

(4) Báo cáo thẩm tra ghi nhận và nhấn mạnh nỗ lực lớn lao của Chính phủ trong đàm phán nhằm tranh thủ ghi được ở mức cao nhất các điều khoản thuận lợi, hạn chế tối đa các mặt yếu và hoặc chưa sẵn sàng về phía ta, không cam kết hoặc chưa cam kết hoặc có lộ trình trong những lĩnh vực nhạy cảm có liên quan đến an ninh và quốc phòng. Điều này đã được thể hiện rõ qua toàn văn Hiệp định và các Phụ lục, Bảng, Cam kết, Thư trao đổi, một bộ phận không thể tách rời của Hiệp định.

IV.2. Những thời cơ và thách thức của Hiệp định

IV.2.1. Những thời cơ

(1) Thời cơ tăng nhanh xuất khẩu và mở rộng thị trường

Thị trường Mỹ là một thị trường lớn. Cho tới nay, tỷ lệ tiết kiệm đầu người ơ Mỹ thấp, có những lúc âm. Hàng Việt Nam gần đây bắt đầu vào thị trường này, nhưng còn bị hạn chế vì thuế nhập khẩu quá cao. Sau khi Hiệp định có hiệu lực, thuế nhập khẩu đánh trên hàng hoá và dịch vụ Việt Nam giảm nhiều. Khả năng tăng nhanh xuất khẩu là hiện thực với điều kiện các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh trên các mặt chất lượng và giá thành và nhớ rằng mở cửa là hai chiều, sự cạnh tranh ngay tại thị trường Việt Nam, nhất là trên lĩnh vực dịch vụ, sẽ rất gay gắt.

(2) Thời cơ tăng tiếp nhận vốn đầu tư

Hiệp định, đặc biệt Chương IV, sẽ tạo lòng tin cho các nhà doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Việt Nam. Chúng ta đã liên tục cải tiến môi trường đầu tư ở Việt Nam. Một số yếu tố ảnh hưởng không tốt đến môi trường này, qua những ràng buộc của Hiệp định, sẽ phải tốt hơn (xem ở phần Những thách thức dưới đây). Trong những điều kiện đó và với triển vọng xuất khẩu hàng hoá sản xuất tại Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ, các nhà đầu tư các nước khác cũng sẽ đến đầu tư mới hay mở rộng đầu tư đã có tại Việt Nam.

(3) Thời cơ tiếp nhận công nghệ nguồn hiện đại

Cho tới nay các công nghệ được đưa vào Việt Nam phần lớn chưa phải là những công nghệ nguồn từ Mỹ hoặc Châu Âu. Với khả năng tăng tiếp nhận vốn đầu tư, khả năng tiếp nhận công nghệ nguồn hiện đại và hạ tầng cơ sở đi theo cũng sẽ tăng lên và hiện đại hơn. Tuy chưa hẳn là một ví dụ về tiếp nhận công nghệ nguồn, với sự có mặt ban đầu của Công ty Intel ở Việt Nam trong thời gian gần đây, chúng ta đã lắp ráp máy tính cá nhân xách tay ở Việt Nam với giá cả rất cạnh tranh so với các máy lắp ráp ngay tại Đài Loan.

(4) Thời cơ cho sử dụng lao động và đào tạo nhân lực

Cùng với những thời cơ trên là khả năng tạo ra công ăn việc làm mới và khả năng đào tạo nhân lực có nghiệp vụ và tay nghề, góp phần thực hiện những chỉ tiêu về đào tạo nguồn nhân lực theo Nghị quyết Đại họi IX.

(5) Thời cơ thuận lợi cho việc tham gia WTO và hội nhập kinh tế

Hiệp định Thương mại đã được đàm phán ký kết trên nền tảng các quy định của WTO. Việt Nam ký kết Hiệp định là một điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới và là một bước tiến tới việc WTO xem xét việc chấp nhận Việt Nam tham gia tổ chức này.

(6) Thời cơ cho cộng đồng người Việt tại Mỹ (hơn một triệu người) tham gia vào hoạt động thương mại với Việt Nam và góp phần xây dựng quê hương.

IV.2.2. Những thách thức

Không có nhiệm vụ mới nào không có những thách thức. Những thách thức nếu dưới đây không phải chỉ đối với các doanh nghiệp, mà còn đối với bộ máy nhà nước của chúng ta. Vượt qua được các thách thức này, hiệu năng của bộ máy nhà nước sẽ cao hơn, tạo điều kiện tốt hơn cho sự hội nhập chủ động; các doanh nghiệp sẽ làm ăn có hiệu quả hơn.

(1) Hệ thống luật pháp Việt Nam sẽ chịu nhiều tác động từ Hiệp định.

Thực hiện sự phân công của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã chủ trì, làm đầu mối tổng hợp kết quả mà các Bộ ngành đã bước đầu ra soát, đối chiếu các quy định của Hiệp định với 130 văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Việt Nam. Từ công tác này đã thấy cần sửa đổi, bổ sung 24 văn bản trong đó có 8 Bộ luật và luật, 4 pháp lệnh; cần ban hành mới 29 văn bản trong đó dự kiến có 4 luật và 11 pháp lệnh; dự kiến huỷ bỏ 1 quyết định của TTCP và 5 quyết định cấp Bộ; cần tham gia 5 Điều ước quốc tế mới và sửa đổi bảo lưu một Điều ước đã ký kết. Lịch trình đối với các luật và pháp lệnh, theo đề xuất, cần làm xong từ năm 2002 đến 2004.

Nhiệm vụ còn nặng nề hơn bởi lẽ không phải chỉ là số lượngthời hạn mà còn là sửa đổi bổ sung trên cơ sở hiểu rõ nội hàm của các khái niệm, các thuật ngữ, để việc sửa đổi phù hợp với hệ thống pháp luật của Việt Nam đã được Hiến pháp quy định, với điều kiện khách quan của đất nước, giữ được sự chủ động của chúng ta trong quá trình hội nhập.

(2) Vấn đề giải quyết tranh chấp, quyền khiếu kiện và quyền được tham gia thủ tục tố tụng dân sự được quy định tại hầu hết các Chương.

Nổi lên là các quy định: (a) đối xử quốc gia trong việc tiếp cận tất cả các toà án và cơ quan hành chính có thẩm quyền tại lãnh thổ của Bên kia; (b) yêu cầu các Bên phải hoàn thiện pháp luật tố tụng, kể cả các biện pháp khẩn cấp tạm thời, các biện pháp biên giới và các thủ tục khiếu nại, khiếu kiện cần thiết và hiệu quả; (c) cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua toà án, trọng tài trong nước và trọng tài quốc tế; (d) nghĩa vụ của các bên phải có các cơ quan tài phán và thủ tục cần thiết để những người có lợi ích bị ảnh hưởng có thể khiếu nại và khiếu kiện[1].

Đối với hệ thống tư pháp của chúng ta, các yêu cầu trên đây có mặt mới, có mặt không mới, nhưng cần được triển khai đúng theo quy định. Cách giải quyết các khiếu nại, khiếu kiện của dân cho tới nay còn lòng vòng, kéo dài, không có kết luận, cần tìm ra các nguyên nhân và giải quyết các nguyên nhân đó thì việc chúng ta tuân thủ các quy định trên mới khả thi.

(3) Đối với hệ thống hành pháp, nhiệm vụ mà Hiệp định đặt ra gồm các mặt: (a) dự thảo các luật, pháp lệnh (sửa đổi bổ sung và mới) có liên quan đến Hiệp định trình Quốc hội để thông qua; (b) ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật và pháp lệnh kịp thời tính thống nhất của hệ thống luật pháp phải được bảo đảm; (c) công bố tất cả các quy định pháp luật trước khi có hiệu lực và các quy định pháp lệnh nào không được đăng sẽ không có hiệu lực thi hành; (d) phải xem xét và sửa đổi nhanh chóng theo yêu cầu của người bị ảnh hưởng các quyết định hành chính liên quan đến các vấn đề được quy định tại Hiệp định.

Nếu vi phạm các yêu cầu trên đây, các cơ quan hành chính sẽ bị khiếu nại và bước tiếp theo, có thể sẽ bị khiếu kiện lên một cơ quan tư pháp.

Đây là thách thức lớn bởi lẽ việc cải cách hành chính nhà nước, một nhiệm vụ quan trọng và bức xúc, đã được ghi trong nhiều nghị quyết của Đảng, của Quốc hội và của Chính phủ từ nhiều năm nay, chưa làm cho hiệu năng của bộ máy của nhà nước của chúng ta hiện nay cao hơn như mong muốn.

Trên một bình diện khác, đổi mới hệ thống tài chính ngân hàng càng nổi lên như là một nhiệm vụ cấp thiết và có ý nghĩa quyết định trong cuộc đọ sức về kinh tế sắp tới.

(4) Đối với việc thực hiện các lộ trình.

Các lộ trình là sự triển hạn việc áp dụng Hiệp định trên một số mặt, trong một thời gian nhất định. Khi lộ trình đã kết thúc, việc áp dụng quy chế là bắt buộc (đã vào ngàm). Tất cả vấn đề là sự chạy đua với thời gian của các lộ trình mà sự thành công hay không tuỳ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có, và trước tiên là sự nỗ lực của bộ máy nhà nước trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháptư pháp.

Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, Hiệp định mở ra những thời cơ hết sức thuận lợi như đã nói ở trên. Nhưng bên cạnh là những thách thức rất cụ thể đối với các doanh nghiệp Việt Nam về chất lượng, về giá cả, về hiểu biết thị trường, về sự chủ động và về chữ tín trong kinh doanh; là sự cạnh tranh gay gắt ngay tại thị trường Việt Nam. Các doanh nghiệp nhà nước phải chạy đua với thời gian bởi lẽ những ưu đãi của nhà nước về vốn, về thị phần và những bảo hộ của nhà nước bằng các biện pháp phi thuế quan sẽ bị loại bỏ dần theo lộ trình.

(5) Cuối cùng là thách thức về nhân lực, trong rất nhiều lĩnh vực, khoa học công nghệ, luật pháp, kinh doanh, hành chính nhà nước, v.v... Đào tạo về số lượng có lẽ không khó lắm. Quan trọng là chất lượng và sự tiếp thu có chọn lọc, đặc biệt trong một số lĩnh vực.

(6) Thách thức cuối cùng mang tính tổng hợp, là phải thực hiện thắng lợi Hiệp định thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đồng thời giữ vững độc lập chủ quyền của đất nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.

IV.3. Những quan hệ song phương, quốc tế có liên quan đến Hiệp định

Việc thực hiện Hiệp định còn phải tính đến một số yếu tố trong quan hệ song phương và quốc tế, có thể trở thành thời cơ hoặc thách thức.

(1) Trong quan hệ song phương với Hoa Kỳ, đó là điều khoản Jackson - Vanik đối với Việt Nam và vấn đề "nhân quyền". Đây sẽ là hai lá bài mà Bên kia sẽ dùng vào những lúc thích hợp để gây sức ép đối với chúng ta.

(2) Việc thực hiện Hiệp định không phải chỉ liên quan đến Việt Nam và Hoa Kỳ. Hiệp định sẽ có tác động dây chuyền đến các Hiệp định hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các nước và các khu vực khác. Các nước khác, Liên Hiệp Châu Âu, v.v... rồi sẽ yêu cầu Việt Nam áp dụng quy chế đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia với họ, nhất là những nước đã từng ủng hộ, đã từng hợp tác với Việt Nam trong những năm Hoa Kỳ tiến hành chiến tranh với Việt Nam, cấm vận Việt Nam. Đáp ứng các yêu cầu này có thể là một thách thức nhưng cũng là thời cơ để chúng ta đa phương hoá, đa dạng hoá hoạt động trao đổi mậu dịch.

(3) Sau sự kiện ngày 11/9/2001, tình hình thế giới, tình hình Hoa Kỳ, chính sách đối nội và đối ngoại của nước này, sẽ có những thay đổi nhất định, một số mặt có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến Hiệp định. Trong bối cảnh đó, cần theo dõi sát sao, nắm bắt các thời cơ, phát hiện các thách thức mới để ứng xử phù hợp với đường lối của Đảng mà Đại hội IX đã nghị quyết.

(4) Những quy định của WTO không bất biến. Các quy định của TRIPS có xu hướng đồng nhất sở hữu trí tuệ với sở hữu vật chất, đang làm tăng thêm gánh nặng cho các nước đang phát triển trong việc tiếp thu khoa học và công nghệ mới; các tiêu chuẩn về môi trường, lao động và vệ sinh, đang là những rào cản trên thực tế trong trao đổi mậu dịch trong chiều Nam - Bắc, mà các nước đã phát triển muốn đưa thành quy định của WTO, là những ví dụ cụ thể. Chiều hướng thay đổi sẽ tuỳ thuộc vào diễn biến của toàn cầu hoá kinh tế hiện nay và những hệ quả của nó. Các mặt trái của toàn cầu hoá, các hố ngăn cách và phản ứng của các nước đang phát triển, của nhân dân lao động và yêu chuộng công lý trên thế giới chắc chắn sẽ có tác động đến các quy định của WTO. Vì Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ dựa trên nền các quy định của WTO, cho nên Nhà nước ta cần theo dõi sát diễn biến này và ủng hộ những yêu sách cho một toàn cầu hoá kinh tế công bằng hơn đối với các nước đang phát triển.

 

V. KIẾN NGHỊ

(1) Uỷ ban Đối ngoại kiến nghị với Quốc hội phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đồng thời làm cho nhân dân trong cả nước nhận thức rằng đây là một thắng lợi mới và quá trình thực hiện Hiệp định sẽ là một cuộc đọ sức kinh tế - chính trị mà nhân dân ta phải dành phần thắng.

(2) Sau khi Hiệp định được hai Bên chuẩn, chúng ta vào một sân chơi mới với luật chơi mới với thời gian biểu rõ ràng. Cần hiểu thống nhất Hiệp định, phối hợp nhịp nhàng và khẩn trương giữa các lĩnh vực, các ngành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cần làm cho cán bộ và nhân dân thấy rõ Hiệp định có nhiều mặt thuận lợi nhưng không ít khó khăn và thách thức. Giữ vững ổn định chính trị là yếu tố quyết định để chúng ta vượt qua thách thức, thực thi thành công Hiệp định, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.

(3) Nhà nước cần sớm có một chương trình hành động với kế hoạch và chương trình cụ thể, khẩn trương cho các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp có phối hợp, nhằm thực hiện Hiệp định.

Trong chương trình này, công tác sửa đổi bổ sung và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật là rất nặng. Tăng cường lĩnh vực tư pháp đủ sức giải quyết các khiếu kiện và giải quyết các tranh chấp là một mảng quan trọng và cấp bách của chương trình hành động. Ban hành kịp thời, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống các văn bản pháp quy của Chính phủ, là một nhiệm vụ bức xúc của hệ thống hành pháp.

Đổi mới hệ thống tài chính tiền tệ; có những chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh; phát động phong trào nhân dân dùng hàng trong nước để ủng hộ các doanh nghiệp cũng là những nhiệm vụ của chương trình.

(4) HĐ không ở trạng thái tĩnh tại, bởi lẽ những quy định của WTO thay đổi, quan hệ giữa hai nước và quá trình thực hiện Hiệp định, có lúc có lĩnh vực sẽ có phần phức tạp. Để thực hiện thắng lợi Hiệp định cần tiếp tục nắm vững các nguyên tắc đã chỉ đạo
giai đoạn đàm phán ký kết và đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

(5) Cho dù hoạt động mậu dịch với Hoa Kỳ có quan trọng như thế nào, đó cũng không thể là luồng trào duy nhất. Cần nhiều tiếp tục đa dạng hoá, đa phương hoá trao đổi mậu dịch trong khi thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.

(6) Uỷ ban Đối ngoại kiến nghị với Quốc hội có một nghị quyết về việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, bao gồm các nội dung trên đây.

Trên đây là Báo cáo của Uỷ ban Đối ngoại Quốc hội. Xin trình Quốc hội xem xét quyết định.

 

T/M ỦY BAN ĐỐI NGOẠI

Chủ nhiệm

Đỗ Văn Tài


 
 

[1] Điều 7 Chương VI quy định: "Các Bên duy trì các cơ quan tài phán và thủ tục hành chính và tư pháp nhằm mục đích, ngoài những điều khác, xem xét và sửa đổi nhanh chóng theo yêu cầu của người bị ảnh hưởng các quyết định hành chính liên quan đến các vấn đề được quy định tại Hiệp định này. Các thủ tục này cần bao gồm cơ hội khiếu kiện mà không bị trừng phạt cho người bị ảnh hưởng bởi quyết định có liên quan. Nếu như quyền khiếu kiện ban đầu là quyền khiếu nại lên một cơ quan hành chính thì phải có cơ hội để khiếu nại quyết định của cơ quan hành chính đó lên một cơ quan tư pháp. Kết quả giải quyết khiếu kiện phải được trao cho người khiếu kiện và các lý do của quyết định đó phải được cung cấp bằng văn bản. Người khiếu kiện cũng phải được thông báo về quyền được khiếu kiện tiếp".