UỶ BAN ĐỐI NGOẠI NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ

Phần thứ hai

MỘT SỐ TƯ LIỆU CỦA ỦY BAN ĐỐI NGOẠI QUA CÁC THỜI KỲ

 

QUỐC HỘI KHOÁ XI

Uỷ ban Đối ngoại

----------

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

---------------------------------

Hà Nội,  ngày 03 tháng 11 năm 2003

 

BÁO CÁO TÓM TẮT KẾT QUẢ GIÁM SÁT VIỆC THU HÚT,

QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN

CHÍNH THỨC (ODA) TRONG 10 NĂM 1993-2002

 

Thực hiện chương trình giám sát về kinh tế đối ngoại 2003 của Uỷ ban Đối ngoại của Quốc hội, trên cơ sở Luật hoạt động giám sát của Quốc hội vừa được ban hành từ ngày trung tuần tháng 7/2003 đến cuối tháng 10/2003, một đoàn công tác liên Ủy ban gồm đại diện Uỷ ban Đối ngoại, Ủy ban Kinh tế Ngân sách, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường[1], do đồng trí Nguyễn Ngọc Trân, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Đối ngoại làm Trưởng đoàn đã làm việc với 10 bộ, 7 địa phương và phân tích báo cáo của 53 tỉnh, thành phố[2] để giám sát việc thu hút, sử dụng và quản lý nguồn vốn hỗ trợ chính thức phát triển (ODA) trong 10 năm qua. Đoàn cũng đã tiếp các nhà tài trợ WB, JBIC, AFD và EU trên chủ đề này.

 

I. KẾT QUẢ HUY ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ODA

1. Việc huy động trong 10 năm 1993-2002, đạt được kết quả sau:

+ Tổng nguồn vốn ODA đã được cam kết: 22,55 tỷ USD.

+ Tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã được ký kết: 19,5 tỷ USD (trong đó 15,5 tỷ USD vốn vay với 352 hiệp định vay, và 4 tỷ USD viện trợ không hoàn lại).

2. Cơ cấu phân theo lĩnh vực như sau:

 

 

Tổng

Vay

Viện trợ

Tỉ lệ (%)

Tổng số

18076,97

14430,23

3646,74

100

Giao thông vận tải (1)

4384,01

4112,09

271,92

24,25

Năng lượng (2)

3579,28

346,74

114,54

19,80

Nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản (3)

2974,16

2255,15

719,01

16,45

Cấp, thoát nước, hạ tầng đô thị (4)

1599,17

1176,50

422,67

8,85

Khoa học, giáo dục, môi trường (5)

1501,02

882,17

618,85

8,30

Y tế, văn hoá, xã hội (6)

1351,45

594,97

756,48

7,48

Tài chính – ngân hàng, hỗ trợ NS (7)

1274,66

1014,52

260,14

7,05

Công nghiệp, Bưu chính viễn thông (8)

677,19

604,25

72,94

3,75

Cải cách hành chính, quản lý nn (9)

471,17

233,33

237,84

2,61

Ngành khác (10)

264,86

92,51

172,35

1,47

 

3. Cơ cấu phân theo vùng (chỉ tính những dự án ODA do địa phương trực tiếp quản lý) như sau:

 

 

Từ 1993 đến cuối năm 1998

Từ 1993 đến 14/7/2003

 

Tổng số (triệu USD)

Tỷ lệ trên tổng (%)

Bình quân ODA/người (USD)

Tổng số (triệu USD)

Tỷ lệ trên tổng (%)

Bình quân ODA/người (USD)

Tổng số

1171,98

 

14,89

4064,01

 

53,86

Vùng 1

122,2

10,43

10,77

568,46

13,99

51,95

Vùng 2

621,14

53,00

36,02

1063,61

26,17

63,68

Vùng 3

138,05

11,78

13,55

547,58

13,47

55,16

Vùng 4

51,89

4,43

7,75

381,92

9,40

59,12

Vùng 5

28,14

2,40

6,50

184,76

4,55

47,11

Vùng 6

158,48

13,52

12,82

926,87

22,81

80,75

Vùng 7

52,08

4,44

3,15

390,81

9,62

24,39

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

4. Số dự án và vốn ODA mà một số cơ quan Nhà nước là chủ quản

 

Cơ quan Nhà nước

Tổng

Viện trợ

(1) (2) (%)

Số dự án

Bộ Giao thông vận tải

4160,09

273,47

6,6

141

Bộ Công nghiệp (kể cả năng lượng)

3790,39

143,30

3,8

108

Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn

1625,51

583,83

35,9

107

Ngân hàng Nhà nước

1241,10

60,09

4,8

37

Bộ Kế hoạch và Đầu tư

993,55

288,99

29,1

92

Bộ Giáo dục và Đào tạo

803,59

401,81

50,0

83

Bộ Y tế

709,23

445,10

62,8

102

Bộ Xây dựng

413,64

104,93

25,4

31

Bộ Tài chính

308,50

133,52

43,3

48

Bộ Lao động, Thương binh và xã hội

180,52

94,55

52,4

31

Bộ Khoa học và Công nghệ

47,61

47,61

100

18

Văn phòng Quốc hội

16,50

16,50

100

9

Văn phòng Chính phủ

8,70

8,70

100

5

Về tỷ lệ, các cơ quan đó có 100% vốn ODA là viện trợ không hoàn lại là Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ; trên 50% là Bộ Y tế (62.8%), Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (52,4%), Bộ Giáo dục và Đào tạo (50%). Tỷ lệ khá cao thuộc về Bộ Tài chính (43,3%), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (35,9%), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (29,1%) và Bộ Xây dựng (25,4%).

 

5. Kết quả giải ngân ODA thời kỳ 1993 - 2002 đạt được:

Đơn vị: Triệu USD

Năm

Tổng

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

11,067

413

725

737

900

1000

1242

1350

1650

1500

1550

 

6. Nợ ODA trong tổng nợ nước ngoài của Chính phủ

Chỉ tiêu (%)

1999

2000

2001

2002

Dư nợ ODA/dư nợ Chính phủ

46,5

54,8

62,0

72,2

Trả nợ ODA/trả nợ Chính phủ

31,7

36,2

42,6

49,2

 

7. Đánh giá một cách tổng thể

Qua các số liệu trên đây, qua báo cáo của 10 bộ ngành có nhiều dự án và sử dụng nhiều vốn ODA, và của 53 tỉnh thành cũng như qua khảo sát thực tế của đoàn giám sát, có thể kết luận rằng việc thu hút và sử dụng ODA trong 10 năm qua đã được thực hiện theo các quan điểm, chủ trương và đường lối chỉ đạo của Đảng tại các Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước: ưu tiên sử dụng nguồn lực này để hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân

Các nhà tài trợ cũng nhất trí đánh giá Việt Nam sử dụng ODA có hiệu quả

Tuy vậy, việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA còn nhiều mặt cần được làm tốt hơn, có một số trường hợp sử dụng ODA kém hiệu quả, lãng phí. Mặt khác, việc quản lý cũng còn nhiều vướng mắc đã hạn chế hiệu quả của việc sử dụng nguồn tài trợ từ bên ngoài này và nếu kéo dài, có thể ảnh hưởng đến việc vận động các nhà tài trợ.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới chưa tăng trưởng được ở mức như dự báo và còn nhiều bất trắc có thể xảy ra, nhiều nhà tài trợ đã cắt giảm ODA dành cho các nước đang phát triển, cần tích cực tháo gỡ các vướng mắc để tiếp tục tranh thủ và sử dụng có hiệu quả hơn nữa nguồn vốn hỗ trợ cần thiết này.

 

II. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ

1. Nhận thức đầy đủ hơn nữa về vốn ODA

(1) Trên phương diện vĩ mô, huy động và sử dụng vốn ODA phải tính đến chiến lược nợ quốc gia.

Nguồn vốn ODA với điều kiện vay ưu đã sẽ giảm dần với mức tăng trưởng GDP nên cần được sử dụng có hiệu quả nhất. Không vay ODA để thực hiện những dự án mà trong nước có thể tự lực làm được, hoặc nếu điều kiện vay triệt tiêu hay làm giảm đáng kể tính ưu đãi của lãi suất;

(2) Trên cơ sở chiến lược này, các bộ, ngành và các địa phương xây dựng quy hoạch sử dụng vốn ODA trong chiến lược phát triển ngành và địa phương.

(3) Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tài chính phối hợp lập danh mục các dự án do các Bộ, ngành và các địa phương quản lý, trong đó nêu rõ vấn đề vốn đối ứng, Bên vay, điều kiện vay, thời hạn và lộ trình trả nợ đối với từng dự án. Danh mục này được thông báo đến từng Bộ, ngành và địa phương để các đơn vị hưởng thụ ODA và các cơ quan quản lý chuyên ngành có liên quan có kế hoạch trả nợ và lãi phần vốn ODA vay.

2. Quy hoạch sử dụng vốn ODA cần được tăng cường

(4) Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương thiết lập quy hoạch sử dụng nguồn vốn ODA trong chiến lược phát triển của ngành và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Quy hoạch của Bộ ngành và quy hoạch của địa phương phải hài hoà và lồng ghép vào nhau và phải thể hiện định hướng đầu tư để phát triển các vùng, lãnh thổ.

(5) Quy hoạch sử dụng ODA để đầu tư xây dựng cơ bản phải nằm trong quy hoạch tổng thể phát triển không gian, quản lý sử dụng đất đai ổn định và bền vững.

3. Quy trình và thủ tục vẫn còn là một vướng mắc quan trọng trong tiến trình của các dự án

(6) Chính phủ đã có nhiều nỗ lực nhằm hài hoà các thủ tục với các nhà tài trợ và những nỗ lực này là đúng hướng, cần tiếp tục tích cực triển khai.

(7) Đoàn giám sát kiến nghị Nhà nước cần hệ thống hoá, cập nhật, bổ sung các văn bản pháp quy về đầu tư xây dựng, về đấu thầu và về giải toả đền bù, tái định cư. Cụ thể:

(a) Hợp nhất các Nghị định 52, 12, 07 về đầu tư và xây dựng và luật hoá tối đa vào Luật Xây dựng ngay trong kỳ họp lần thứ 4 sắp tới của Quốc hội;

(b) Hợp nhất các Nghị định 88, 14, 66 về đấu thầu và đưa các quy định vào Pháp lệnh Đấu thầu mà Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đang xem xét để thông qua.

(c) Đưa các quy định các chính sách về đền bù giải toả, tái định cư (sửa đổi, bổ sung các Nghị định 22, Nghị định 04, Nghị định 38 và các thông tư hướng dẫn), luật hoá tối đa vào Luật Đất đai ngay trong kỳ họp lần thứ 4 sắp tới của Quốc hội.

(8) Để rút ngắn thời gian phê duyệt các dự án, cần phân cấp nhiều hơn và sự phối hợp giữa các cơ quan có chức năng phải nhịp nhàng, nhanh chóng, tránh tình trạng "ai cũng có tiếng nói, nhưng không ai quyết".

Các địa phương đề nghị Chính phủ nghiên cứu giao cho các địa phương thẩm định và chịu trách nhiệm thực hiện các dự án đầu tư nói chung, trong lĩnh vực ODA nói riêng. Trong trường hợp kỹ thuật phức tạp và không đủ khả năng thì báo cáo các bộ liên quan thẩm định; cho phép địa phương được thuê chuyên gia trong nước và tư vấn nước ngoài tham gia thẩm định đối với các dự án có công nghệ mới và hiện đại. 

4. Đền bù, giải toả và tái định cư đang là một khó khăn lớn cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị cấp, thoát nước, cải tạo môi trường

(9) Thời điểm bắt đầu triển khai công tác GPMB TĐC và nhất là giá cả đền bù và công tác tái định cư ảnh hưởng rất lớn đến việc giải quyết vấn đề giải phóng mặt bằng và tái định cư. Cần được xác định một cách thoả đáng, hợp tình hợp lý, vì lợi ích của toàn xã hội.

(1) Cần quy định trong Luật Đất đai những nguyên tắc rõ ràng để tính giá đất, sát với giá thị trường nhưng không mang tính đầu cơ, thể hiện sự quản lý của nhà nước. Giá này được áp dụng như nhau cho các loại dự án với nguồn vốn trong nước. ODA hay FDI.

(11) Cần xem lại cơ sở pháp lý của quy định về loại đất thổ cư chưa hợp pháp trong đền bù giải toả. Xác định giới hạn cưỡng chế và biện pháp chế tài khi vi phạm luật. Công khai hoá giới hạn cưỡng chế, các biện pháp chế tài và thực thi.

(12) Quy định trong Luật Xây dựng các điều khoản chế tài đối với mọi tổ chức, cá nhân xây dựng vi phạm hành lang lộ giới hay phạm vi quy hoạch đã được ban hành. Thực thi chế tài nghiêm minh khi có vi phạm.

(13) Chuyên môn hoá bộ máy chuyên trách công tác đền bù, giải toả, tái định cư từ trung ương đến cơ sở. Đối với những dự án do các Bộ làm chủ đầu tư, khi dự án được triển khai trên địa bàn của một địa phương, quy định công tác này như một tiểu dự án do UBND địa phương chủ trì tổ chức thực hiện (điều chỉnh Điều 35, Nghị định 52/CP).

(14) Để thực hiện đúng theo quy định tại Điều 45, Nghị định 52/CP (điều kiện khởi công công trình), cho phép chủ đầu tư, sau khi có quyết định đầu tư, phối hợp với UBND địa phương triển khai ngay công tác đền bù, giải toả, đặc biệt quy hoạch và xây dựng các khu tái định cư trước.

(15) Chính phủ thảo luận với các nhà tài trợ, đặc biệt với WB, nhằm hài hoà chính sách đền bù đất đai, tài sản trên đất, áp dụng trên phạm vi toàn quốc phù hợp với điều kiện và luật pháp của Việt Nam.

5. Đấu thầu: hài hoà các quy chế với các nhà tài trợ để tăng hiệu quả của ODA

(16) Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đang xem xét để thông qua Pháp lệnh Đấu thầu. Pháp lệnh này cần quy định về ba vấn đề: giá sản trong đấu thầu trong nước, giá trần trong đấu thầu quốc tế và tạo khung pháp lý để hài hoà các thủ tục về đấu thầu với các nhà tài trợ trong vấn đề này.

6. Vốn đối ứng: cần có đủ và kịp thời

(17) Cần tăng cường sự phối hợp trong công tác quản lý nguồn vốn (ODA) với hai yếu tố đi kèm là vốn đối ứngđiều kiện vay, trả nợ ODA giữa hai Bộ Tài chính và Kế hoạch và Đầu tư, đảm bảo theo dõi, quản lý và tổng hợp tình hình và hiệu quả sử dụng vốn theo đúng quy định của Luật Ngân sách Nhà nước mới được ban hành và đạt hiệu quả cao.

(18) Bộ Tài chính xem xét điều chỉnh thủ tục thanh toán cho phù hợp với thông lệ quốc tế, và phân cấp cho các cơ sở quản lý chuyên ngành của địa phương trong kiểm tra, thẩm duyệt thanh toán nhất là đối với những tiểu dự án thành phần (dự án nhánh) do địa phương được hưởng thụ trực tiếp quản lý.

7. Giải ngân và quyết toán dự án nhanh hơn để tận dụng vốn ODA

(19) Cần giải quyết tốt các khâu thủ tục, vốn đối ứng, đền bù tái định cư, giải phóng mặt bằng cho thi công để tăng tốc độ giải ngân. Mặt khác, cần chỉ đạo rà soát lại chu trình giải ngân cho tất cả các loại hình dự án ODA, giảm thiểu cơ quan trung gian trong phê duyệt, chuyển tiền giải ngân dự án ODA đồng thời tăng cường vai trò trách nhiệm quản lý thanh, quyết toán vốn cũng như các chế tài xử lý sai phạm khi thực hiện công tác này.

(20) Chỉ đạo các bộ, ngành và các địa phương rà soát các dự án đã hoàn thành mà chưa quyết toán, xác định nhà nước và có giải pháp xử lý.

8. Chính sách cho vay lại vốn ODA cần được thống nhất, minh bạch, đảm bảo khả năng trả được nợ vay và đặt trong chiến lược vay trả nợ nước ngoài

(21) Cho vay lại để đảm bảo khả năng trả nợ cho các nhà tài trợ là một trọng trách của Chính phủ mà trực tiếp là của Bộ Tài chính. Chính sách cho vay lại vốn vay ODA ưu đãi cần được Bộ Tài chính công bố công khai sau khi được Chính phủ duyệt, đảm bảo công bằng và minh bạch trong việc cho vay lại vốn ODA.

(22) Cần rà soát lại tình hình các chương trình, dự án vay vốn ODA của Chính phủ gặp khó khăn trong trả nợ, đánh giá tình hình cho vay lại và trả nợ, tìm nhà nước của việc không được nợ, từ đó có quy định thống nhất về cơ chế, chính sách cho vay lại thích hợp áp dụng trên phạm vi cả nước.

(23) Theo đoàn giám sát, chính sách cho vay lại phải được tính sao cho bên vay hoạt động có hiệu quả để có khả năng trả được nợ vay. Các biện pháp cho gia hạn nợ, xem xét hạ mức lãi suất cho vay lại, chuyển thành vốn ngân sách cấp phát, xoá một phần hoặc khoanh nợ các trường hợp có khó khăn sẽ dẫn đến tình trạng ỷ lại và bao cấp vốn ODA.

(24) Việc vay ODA, cho vay lại và trả nợ cần được đặt trong một chiến lược vay trả nợ nước ngoài mà Chính phủ cần sớm trình Quốc hội, đảm bảo việc huy động được nguồn vốn từ bên ngoài, đồng thời đảm bảo khả năng trả nợ một cách an toàn và bền vững. Quyền hạn và trách nhiệm giữa các bộ, trước tiên giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước cần làm rõ hơn nữa theo chức năng hiến định.

9. Cải cách thủ tục, tránh quan liêu phiền hà

(25) Bộ Tài chính cần cho biết thời gian biểu thực hiện những vấn đề tài chính trọng tâm cần phải tập trung cải cách trong lĩnh vực ODA thuộc chức năng quyền hạn của Bộ và trình Chính phủ những nội dung có liên quan đến các Bộ khác hoặc thuộc thẩm quyền của Chính phủ như Bộ đã nêu trong báo cáo số 9464/TC-TCĐN, ngày 11/9/2003.

(26) Dưới góc độ đối ngoại, chính sách thuế đối với các nhà tài trợ nên quy định và áp dụng thống nhất, nhất quán, công khai, minh bạch phù hợp với thông lệ quốc tế.

(27) Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần sớm trình Chính phủ những biện pháp nhằm loại bỏ những thủ tục phức tạp rườm rà trong quy trình phê duyệt dự án, đấu thầu và xét thầu thuộc thẩm quyền của Bộ như đã nêu trong báo cáo số 5927 BKH/KTĐN ngày 11/9/2003.

10. Hiệu quả của dự án ODA: khoa học và công nghệ chưa được chú ý đúng mức

(28) Các Bộ ngành có liên quan trong quản lý và sử dụng ODA cần tăng cường quản lý, thanh tra các dự án ODA mà mình chủ quản; sớm trình Chính phủ các tiêu chí đánh giá hiệu quả, trên các mặt kinh tế, xã hội, khoa học và công nghệ.

(29) Trong mỗi dự án ODA, trình độ khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ là những tiêu chí để chọn lựa dự án, để lựa chọn nhà thầu, trong đấu thầu và cuối cùng là tiêu chí đánh giá hiệu quả khi hoàn thành dự án.

Thành công của một dự án ODA sẽ được nhân lên nếu sau dự án, chúng ta có thể nhân nó ra với sự tham gia của bên Việt Nam nhiều hơn hoặc tự lực được càng tốt.

(30) Sự quan tâm của các Bộ, ngành, của Bộ Khoa học và Công nghệ cần được tăng cường trên mặt khoa học và công nghệ trong các chương trình và dự án ODA, từ khâu ban đầu cho đến khi kết thúc. Điều này phải được thể hiện rõ trong các văn bản pháp quy về ODA.

11. Quan hệ trung ương - địa phương trong các "dự án dù"

(31) Sau mười năm sử dụng vốn ODA, các bộ nên giới thiệu các nhà tài trợ trực tiếp ký với các địa phương, bộ chỉ quản lý và theo dõi việc thực hiện.

Thực hiện trực tiếp các dự án sẽ làm cho địa phương thấy lợi ích của dự án và trách nhiệm của mình hơn.

12. Thông tin về ODA: một nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu

(32) Cần tăng cường thông tin về ODA kịp thời và chi tiết hơn. Thông tin về ODA không chỉ có từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư mà phải còn từ Bộ Tài chính và các bộ ngành. Trên cơ sở các bộ ngành có sự chủ động cung cấp các thông tin cần thiết, Chính phủ
chỉ định một đầu mối tập trung thông tin và đưa lên mạng của Chính phủ.

13. Năng lực của đội ngũ cán bộ: một yếu tố quyết định

(33) Việc chăm lo xây dựng một đội ngũ cán bộ công tác ODA sử dụng cho lâu dài là hết sức cần thiết và quan trọng, từ quy hoạch đào tạo đến chính sách cán bộ giúp cho họ yên tâm công tác. Nguồn nhân lực này sẽ ngày càng cần thiết theo quá trình hội nhập kinh tế chủ động của nước ta với khu vực và thế giới. 

14. Kiện toàn môi trường pháp lý để nâng cao hiệu quả sử dụng ODA

(34) Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quan tâm hơn nữa đến vốn ODA; tăng cường công tác giám sát ODA thường xuyên hơn; dành thời gian nhiều hơn để nghe Chính phủ báo cáo kỹ hơn về ODA trong chiến lược tổng thể vay, trả nợ nước ngoài của Chính phủ trong đó vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và chính quyền địa phương cần được làm rõ theo đúng chức năng.

(35) Chiến lược vay phải gắn với chiến lược về đầu tư phát triển (vào mục tiêu nào, lúc nào và với nguồn vốn nào) thì vốn vay mới có thể được sử dụng có hiệu quả cao.

(36) Quốc hội và Chính phủ cần chăm lo đến môi trường pháp lý về ODA hơn nữa. Cụ thể:

(a) Luật Đất đai, Luật Xây dựng và Pháp lệnh Đấu thầu phải góp phần giải quyết các vướng mắc trong quy chế quản lý đầu tư xây dựng, quy chế đấu thầu, các quy định có liên quan đến giải phóng mặt bằng tái định cư;

(b) Cần ban hành pháp lệnh về ODA trên cơ sở pháp điển hoá các văn bản hiện hành có sửa đổi bổ sung. Đó là cách làm căn cơ nhất để thu hút tốt và sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả hơn nữa.

 

TM. ĐOÀN GIÁM SÁT

GS. TSKH. Nguyễn Ngọc Trân

Phó Chủ nhiệm
Uỷ ban Đối ngoại của Quốc hội


 
 

[1] Tham gia đoàn giám sát có:

A. Các đại biểu Quốc hội: Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Ngọc Đào, Hoàng Thanh Khiết, Huỳnh Thị Nga, Nguyễn Văn Phát, Phạm Phương Thảo, Đinh La Thăng, Võ Quốc Thắng, Phạm Văn Thọ, Nguyễn Ngọc Trân (Uỷ ban Đối ngoại), Nguyễn Xuân Thiết (Ủy ban Kinh tế và Ngân sách), Nghiêm Vũ Khải, Tô Thị Toàn, Nguyễn Minh Thuyết (Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường), Nguyễn Tài Lương (Hà Nội), Trương Hoà Bình, Nguyễn Thị Nghĩa (TP. Hồ Chí Minh), Lê Văn Tâm (Cần Thơ), Nguyễn Thị Thanh Hưng (Đà Nẵng), Lê Thanh Châu, Phan Đức Nhạn (Quảng Nam), Nguyễn Ngọc Minh (Ninh Thuận).

B. Các chuyên viên và thư ký các đoàn đại biểu Quốc hội: Đỗ Ngọc Trung, Đào Ngọc Cường, Phạm Thị Hải Yến (Văn phòng Quốc hội), Nguyễn Thu Lâm (Hà Nội), Lê Xuân Thanh (TP. Hồ Chí Minh), Lê Quốc Trung (Cần Thơ), Hồ Ngọc Hùng (Đà Nẵng), Ngô Văn Minh (Quảng Nam), Nguyễn Hồng Thắng (Ninh Thuận).

[2] Đến ngày 15/10/2003, còn thiếu báo cáo của các tỉnh Bình Dương, Cao Bằng, Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình, Phú Thọ, Sơn La và Hưng Yên.