Phần thứ hai
MỘT SỐ TƯ LIỆU CỦA ỦY BAN ĐỐI NGOẠI QUA CÁC THỜI KỲ
QUỐC HỘI KHOÁ XI
Uỷ ban Đối ngoại
-------
Số: 2410/UBĐN
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------------------------
Hà Nội, ngày 27 tháng 11 năm 2006
|
BÁO CÁO THẨM TRA NGHỊ ĐỊNH THƯ GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH
THÀNH LẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
CỦA CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Ngày 23 tháng 11 năm 2006, Uỷ ban Đối ngoại đã họp phiên toàn thể để thẩm tra Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Tờ trình số 05 TTr/CTN ngày 16 tháng 11 năm 2006 của Chủ tịch nước. Tham dự phiên họp có Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Phó Chủ tịch Quốc hội Trương Quang Được, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn Yểu, đại diện Thường trực Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Uông Chu Lưu, đại diện Bộ Ngoại giao và một số cơ quan, tổ chức hữu quan. Tham dự phiên họp còn có Đoàn đàm phán của Chính phủ, Đại sứ Ngô Quang Xuân, Trưởng phái đoàn đại diện nước ta bên cạnh các tổ chức quốc tế Giơ-ne-vơ, Thuỵ Sĩ.
Uỷ ban Đối ngoại xin báo cáo với Quốc hội một số vấn đề như sau:
Phần thứ nhất
SỰ CẦN THIẾT GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
VÀ PHÊ CHUẨN NGHỊ ĐỊNH THƯ GIA NHẬP
Ngày 7 tháng 11 năm 2006, tại phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Tổ chức thương mại thế giới, Việt Nam đã được kết nạp làm thành viên thứ 150 của Tổ chức này. Theo quy định của Tổ chức Thương mại thế giới, thủ tục pháp lý cuối cùng là Việt Nam phê chuẩn việc gia nhập và thông báo tới Tổ chức Thương mại thế giới.
Theo quy định của Hiến pháp và Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, xét ý nghĩa và tầm quan trọng của việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, Chủ tịch nước đã có Tờ trình đề nghị Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Uỷ ban Đối ngoại nhận thấy việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và thực hiện những cam kết với Tổ chức này sẽ có tác động tích cực và sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là một sự kiện quan trọng được nhân dân cả nước quan tâm. Thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, tại Kỳ họp này, Quốc hội xem xét và quyết định việc phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Báo cáo của Chính phủ đã nêu bối cảnh và sự cần thiết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Trong báo cáo thẩm tra này, chúng tôi xin nhấn mạnh một số điểm sau:
Toàn cầu hoá đã trở thành xu thế tất yếu khách quan, một hiện thực của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội thế giới hiện nay với đặc điểm nổi bật là sự lưu chuyển của tư bản, hàng hoá, dịch vụ diễn ra hết sức nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Hệ quả của quá trình này là tự do hoá thương mại ngày càng mở rộng thông qua các hiệp định song phương và đa phương mà Tổ chức Thương mại thế giới đóng vai trò quan trọng. Kinh nghiệm cho thấy nhiều nước khi tham gia WTO, nếu biết phát huy lợi thế thì đều có thể phát triển kinh tế cao hơn.
Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới của chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và thu được những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa. Một trong những chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta là phát huy mạnh mẽ nội lực, đồng thời tích cực tranh thủ và khai thác có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài, chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Chúng ta đã có những kinh nghiệm bước đầu và bài học từ việc tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) và các hiệp định thương mại song phương và đa phương khác. Sau 10 năm gia nhập ASEAN và thực thi các cam kết của AFTA, sau 4 năm thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, kim ngạch xuất khẩu đã tăng lên đáng kể, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng lớn, góp phần vào việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta. Điều đó cho thấy kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, mang lại những lợi ích thiết thực cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tích cực chủ động hội nhập hơn nữa đã trở thành một đòi hỏi khách quan để đáp ứng các yêu cầu về nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội.
Việc Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định WTO là dịp để các đại biểu Quốc hội thảo luận, phân tích và đánh giá kết quả đàm phán, làm rõ cơ hội và thách thức cũng như sự tương thích giữa các cam kết gia nhập với những quy định của pháp luật trong nước; trên cơ sở đó đưa ra những sửa đổi, bổ sung cần thiết. Đây cũng là một dịp để báo cáo với nhân dân cả nước biết cụ thể hơn về những nội dung cam kết của Việt Nam với Tổ chức Thương mại thế giới.
Phần thứ hai
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐÀM PHÁN GIA NHẬP
TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trong quá trình chuẩn bị Báo cáo thẩm tra, chúng tôi đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp. Có ý kiến cho rằng quá trình đàm phán đã diễn ra rồi, kết quả đàm phán đã có rồi, vì thế trong Báo cáo thẩm tra không cần nêu vấn đề này. Uỷ ban Đối ngoại đồng ý một phần với ý kiến đó, nên trong Báo cáo thẩm tra này không nhắc lại những nội dung đã trình bày trong Báo cáo của Chính phủ; mà chủ yếu rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết và điều quan trọng hơn là nêu lên những công việc cần phải làm chưa được đề cập đầy đủ trong Báo cáo của Chính phủ. Việc này cũng là thực hiện quy định tại Điều 34 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.
I. VỀ QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN
1. Về thời gian đàm phán
Trong báo cáo của Chính phủ có nêu: "Đàm phán chỉ thực sự được đẩy mạnh trong 3 năm cuối, khi ta có sự chuyển biến mạnh về nhận thức của xã hội đối với hội nhập kinh tế quốc tế căn cứ trên các thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, khi đội ngũ đàm phán dần được kiện toàn, năng lực xây dựng pháp luật được nâng cao".
Uỷ ban Đối ngoại nhận thấy, trong quá trình đàm phán, có lúc chúng ta đã đặt ra thời điểm phấn đấu gia nhập WTO nhưng không đạt được. Đây là một bài học kinh nghiệm.
2. Về sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan để phục vụ cho quá trình đàm phán
Trong báo cáo của Chính phủ, có đề cập về sự phối hợp trong công tác xây dựng pháp luật phục vụ đàm phán. Báo cáo nêu rõ: "Việc hoàn thành Chương trình xây dựng pháp luật đồ sộ là kết quả của sự chỉ đạo sát sao của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, sự ủng hộ tích cực và hoạt động khẩn trương của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Chính phủ với các cơ quan của Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tất cả các thành viên của Ban công tác đều đánh giá cao công tác xây dựng pháp luật của ta và coi đây là một trong những yếu tố quyết định cho việc Việt Nam sớm gia nhập WTO".
Uỷ ban Đối ngoại nhất trí với nhận định đó, tuy nhiên trong Báo cáo của Chính phủ chưa đề cập tới sự phối hợp của các cơ quan hữu quan về những nội dung phục vụ cho đàm phán. Qua giám sát, chúng tôi thấy trong quá trình đàm phán nếu có sự phối hợp tốt hơn giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan thì chúng ta có thể giảm bớt khó khăn, tạo thế chủ động hơn. Đề nghị Chính phủ cần có biện pháp cụ thể để làm tốt công tác này vì trong thời gian tới, với tư cách là thành viên WTO, chúng ta sẽ tham gia nhiều cuộc đàm phán, trong đó có đàm phán đa phương liên quan đến lợi ích thiết thân của các nước đang phát triển như vấn đề trợ cấp nông nghiệp trong vòng đàm phán Đô-ha. Do vậy, sự phối hợp giữa các cơ quan để xây dựng phương án tham gia đàm phán có hiệu quả là rất cần thiết.
3. Về thông tin tuyên truyền
Trong Báo cáo của Chính phủ không đề cập vấn đề này. Uỷ ban Đối ngoại nhận thấy rằng, việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới tác động sâu rộng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và an ninh của đất nước. Chính vì vậy, việc thông tin kịp thời những nội dung liên quan đến lợi ích của các tầng lớp nhân dân trong quá trình đàm phán là cần thiết. Chúng ta biết rằng, trong đàm phán có một số vấn đề nhậy cảm, nhưng nếu có nhận thức đúng thì có thể nghiên cứu, chọn lọc để thông tin và tham vấn, nhất là đối với các doanh nghiệp và các hiệp hội ngành nghề sẽ tạo được sự đồng thuận nhiều hơn trong xã hội.
II. VỀ MỘT SỐ CAM KẾT CỦA VIỆT NAM
Uỷ ban Đối ngoại nhất trí với Báo cáo của Chính phủ về kết quả đàm phán. Những thoả thuận đạt được trong các văn kiện gia nhập WTO là nằm trong các phương án đặt ra và có một số điểm thuận lợi hơn so với các nước đi trước. Ta cũng tận dụng được những ưu đãi mà WTO dành cho các nước đang phát triển, lùi được thời hạn thực hiện một số cam kết. Nhìn chung, các cam kết là hợp lý và phù hợp với trình độ phát triển của đất nước.
Uỷ ban Đối ngoại xin phân tích một số vấn đề quan trọng trong các cam kết đó.
1. Các cam kết về các chính sách chung
Uỷ ban Đối ngoại nhận thấy những cam kết về các chính sách chung của Việt Nam thông qua kết quả đàm phán đa phương là phù hợp với đường lối mới, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước, phù hợp với Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nước ta.
Uỷ ban Đối ngoại xin nêu một số nội dung cần quan tâm như sau:
1.1. Về các doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Các cam kết về nội dung này phù hợp với chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đòi hỏi các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo tiêu chí thương mại, xoá bỏ các trợ cấp của nhà nước trái với quy định của WTO. Như vậy, việc thực hiện các cam kết với WTO sẽ là một động lực tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
1.2. Về thuế nội địa: Uỷ ban Đối ngoại xin báo cáo, trong năm 2005, theo đề nghị của Chính phủ, Quốc hội đã sửa đổi Luật thuê tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng để phục vụ cho đàm phán gia nhập WTO. Riêng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia không được đề nghị sửa đổi. Theo Báo cáo của Chính phủ, điều này đã gây trở ngại cho đàm phán đến phút cuối và ta vẫn phải chấp nhận yêu cầu của các đối tác. Như vậy có thể hiểu là ta chưa thật linh hoạt trong quá trình đàm phán nội dung này. Đề nghị tiếp tục nghiên cứu để có giải pháp xử lý theo đúng lộ trình.
1.3. Về trợ cấp phi nông nghiệp: Uỷ ban Đối ngoại hoan nghênh cố gắng của Đoàn đàm phán đã đạt được thoả thuận về lộ trình 5 năm cho việc cắt giảm dần các ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu được cấp trước ngày ta gia nhập WTO. Việc ta không phải cam kết gì về trợ cấp đối với doanh nghiệp nhà nước là một thuận lợi so với một số nước có nền kinh tế chuyển đổi khác.
Chúng tôi cũng đồng ý với nhận định của Chính phủ: "Mặc dù đàm phán được thời gian chuyển đổi khá dài nhưng trong tương lai gần, để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, cũng phải tính tới việc điều chỉnh dần chính sách trợ cấp để tiến tới loại bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu đối với hàng phi nông sản". Đề nghị Chính phủ sớm có kế hoạch điều chỉnh chính sách trợ cấp với phương thức phù hợp đối với doanh nghiệp nhà nước.
1.4. Về trợ cấp nông nghiệp: Đây là vấn đề được đông đảo cử tri, nhất là cử tri ở nông thôn quan tâm. Uỷ ban Đối ngoại nhận thấy, các nước phát triển vẫn áp dụng những hình thức trợ cấp nông nghiệp. Vì vậy, đề nghị Chính phủ làm rõ những hình thức hỗ trợ theo quy định của WTO để có những chính sách, chương trình cụ thể hỗ trợ nông nghiệp và phát triển nông thôn, bảo đảm đời sống nông dân trong quá trình thực hiện các cam kết của Việt Nam với WTO.
1.5. Về khu thương mại tự do và đặc khu kinh tế: Uỷ ban Đối ngoại nhất trí với báo cáo của Chính phủ về việc áp sụng các chính sách và quy định liên quan đến "đặc khu kinh tế" phù hợp với các quy định của WTO. Đồng thời thấy rằng, thời gian gần đây nhiều địa phương được phép mở khu thương mại tự do, khu kinh tế mở, khi kinh tế... Bên cạnh mặt tích cực là phát huy được lợi thế so sánh và thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển thì đã ít nhiều xảy ra tình trạng một số quy định của địa phương trái với văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước. Uỷ ban Đối ngoại đề nghị Chính phủ có những biện pháp cần thiết để phòng ngừa khả năng các quy định của địa phương trái với các cam kết của Việt Nam với WTO.
1.6. Về dệt may: Uỷ ban Đối ngoại đề nghị Chính phủ giải thích rõ về cơ chế "áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt" trong dệt may. Cần phân tích mối quan hệ giữa cơ chế này với cơ chế theo dõi hàng dệt may nhập khẩu và tự khởi kiện chống bán phá giá của Hoa Kỳ được đề cập trong quá trình giới thiệu ra Quốc hội Dự án Luật về quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam. Cần phân tích rõ vai trò của Nhà nước và các doanh nghiệp dệt may phải chuẩn bị như thế nào để đối phó với tình hình này.
1.7. Về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: Uỷ ban Đối ngoại nhất trí với đề nghị của Chính phủ về việc áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam với WTO liên quan đến bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời đề nghị Chính phủ có những chính sách, biện pháp kịp thời để ngăn chặn việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
2. Về cam kết mở cửa thị trường hàng hoá
Cam kết mở cửa thị trường hàng hoá thực chất là các cam kết về cắt giảm thuế nhập khẩu. Uỷ ban Đối ngoại đồng ý với nguyên tắc cơ bản nêu trong Báo cáo của Chính phủ về thuế nhập khẩu là "không gây biến động lớn đối với sản xuất trong nước, bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn...".
Tuy nhiên, qua trao đổi với một số doanh nghiệp, chúng tôi thấy cam kết về mức thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng như xe tải nguyên chiếc vẫn còn khá cao mà lộ trình cắt giảm thuế tương đối dài; trong khi đó mức thuế nhập khẩu phụ tùng xe tải lại thấp. Ở đây cần xử lý tốt mối quan hệ giữa bảo hộ sản xuất trong nước với hàng nhập khẩu có chất lượng tốt, giá thành hạ và đảm bảo nguồn thu của ngân sách nhà nước. Đề nghị Chính phủ nghiên cứu để trong trường hợp cần thiết có thể điều chỉnh mức và lộ trình bảo hộ, tạo ra khả năng cạnh tranh cao hơn và có lợi cho người tiêu dùng.
3. Về cam kết mở cửa thị trường dịch vụ
Đây là vấn đề còn có những ý kiến khác nhau. Một số ý kiến cho rằng, chúng ta có ít lợi thế cạnh tranh nhưng đã cam kết đủ 11 ngành dịch vụ với trên 110 phân ngành, trong đó có các dịch vụ nhạy cảm như tài chính, viễn thông, giáo dục, văn hoá và giải trí; mức độ cam kết của ta cao hơn so với cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Một số ý kiến khác nhận thấy, ta còn nhiều hạn chế trong việc mở cửa thị trường dịch vụ. Việc bảo hộ một số ngành dịch vụ là cần thiết nhưng không nên lạm dụng, dễ gây trì trệ cho sự phát triển kinh tế trong nước. Đề nghị Chính phủ làm rõ vấn đề này.
Phần thứ ba
VỀ CƠ HỘI THÁCH THỨC KHI GIA NHẬP WTO
Việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới mang lại những cơ hội to lớn, đồng thời cũng chứa đựng nhiều thách thức không nhỏ. Uỷ ban Đối ngoại về cơ bản nhất trí với các nội dung trong Báo cáo của Chính phủ và phân tích thêm một số vấn đề sau:
I. VỀ CƠ HỘI
1. Về mở rộng thị trường
Uỷ ban Đối ngoại tán thành với Báo cáo của Chính phủ là gia nhập WTO, hàng hoá Việt Nam có điều kiện tiếp cận thị trường thế giới thuận lợi hơn.
Tuy nhiên, chúng tôi thấy trong báo cáo của Chính phủ chưa đề cập tới một số cơ hội của việc mở cửa thị trường Việt Nam như: Người tiêu dùng sẽ được mua hàng hoá và được cung cấp dịch vụ với giá cạnh tranh, chất lượng cao; chi phí đầu vào của sản xuất thấp (như nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị...), do đó giá thành sản phẩm hạ; các doanh nghiệp vừa có điều kiện nâng cao năng lực sản xuất hàng hoá với chất lượng cao, vừa buộc phải cạnh tranh với hàng ngoại, nhưng nếu không có những giải pháp hữu hiệu thì sẽ gặp không ít khó khăn.
2. Về tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài
Uỷ ban Đối ngoại nhất trí với nhận định của Chính phủ, việc gia hập WTO là một cơ hội để thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng thời, xin được nhấn mạnh thêm như sau:
Hiện nay, các nền kinh tế lớn có trình độ phát triển cao như Mỹ, Nhật Bản, EU đầu tư vào Việt Nam còn chưa tương xứng với tiềm năng của họ. Việc gia nhập WTO và nhất là sau Hội nghị cấp cao APEC tại Hà Nội, các doanh nghiệp từ các nền kinh tế lớn đã quan tâm đến thị trường Việt Nam. Do đó, đề nghị Chính phủ có kế hoạch và biện pháp cụ thể để đón nhận cơ hội này, tránh làm cho các nhà đầu tư ban đầu thì kỳ vọng rất lớn vào thị trường Việt Nam nhưng sau đó lại nản lòng về khả năng tiếp nhận đầu tư của ta.
3. Về sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ lợi ích quốc gia
Uỷ ban Đối ngoại đồng ý với đánh giá của Chính phủ: "Gia nhập WTO, ta sẽ có cơ hội sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để đấu tranh bình đẳng với các đối tác thương mại lớn, hạn chế được việc sử dụng các biện pháp phân biệt đối xử, trái quy định của WTO đối với hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu của ta". Để có thể tận dụng được cơ hội này, cần đầu tư nghiên cứu, vận dụng có hiệu quả những cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức Thương mại thế giới, giành thế chủ động khi có những tình huống tranh chấp xảy ra; đồng thời thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện để họ chủ động sử dụng những cơ chế của WTO bảo vệ lợi chính đáng của mình.
4. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong báo cáo của Chính phủ có đề cập về tác động của việc thực hiện các cam kết của WTO đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta nhưng chưa đầy đủ. Uỷ ban Đối ngoại đề nghị phân tích sâu hơn cơ hội của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế cạnh tranh của ta trên một số lĩnh vực như cơ cấu trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; cơ cấu sản phẩm; cơ cấu sản phẩm; cơ cấu thành phần kinh tế; cơ cấu lao động; cơ cấu vùng miền...
5. Về hoàn thiện cơ chế chính sách và pháp luật
Trong Báo cáo của Chính phủ đã đề cập tới quyết tâm, nỗ lực của Việt Nam trong việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều văn bản pháp lệnh để đáp ứng những yêu cầu của quá trình đàm phán cũng như các cam kết của WTO. Tuy nhiên Báo cáo chưa đề cập đến việc rà soát, sửa đổi, bổ sung những văn bản mang tính pháp quy của địa phương. Đây vừa là yêu cầu, vừa là cơ hội để chúng ta hoàn thiện hơn nữa tính thống nhất và thông suốt của nền hành chính nhà nước phù hợp với các quy định của WTO.
II. VỀ THÁCH THỨC
1. Về chính trị và an ninh quốc gia
Báo cáo của Chính phủ đã đề cập tới tác động của việc gia nhập WTO đối với chính trị và an ninh quốc gia. Uỷ ban Đối ngoại cho rằng những nhận định đó là phù hợp với những quan điểm về đổi mới và mở cửa của Đảng và Nhà nước ta.
Ngày nay, an ninh quốc gia được hiểu theo nghĩa rộng, thể hiện trên nhiều lĩnh vực như: chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh môi trường, tội phạm xuyên quốc gia, buôn bán người, khủng bố, dịch bệnh... Tự do hoá thương mại chắc chắn sẽ tác động đến những vấn đề trên.
Trong Báo cáo chưa phân tích rõ những thách thức và tác động tiêu cực của quá trình này và cũng chưa đề ra những biện pháp cụ thể để vượt qua những thách thức đó. Vì vậy, cần được phân tích, đánh giá sâu hơn và toàn diện hơn, đối với trước mắt cũng như lâu dài.
2. Về kinh tế và quản lý kinh tế
Uỷ ban Đối ngoại nhận thấy việc gia nhập WTO đặt ra nhiều thách thức đối với nền kinh tế và quản lý kinh tế, trong đó đáng chú ý hai vấn đề sau đây:
2.1. Năng lực cạnh tranh còn yếu cụ thể là: Các doanh nghiệp của ta chủ yếu vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên cần có những cơ chế tự bảo vệ trước những biến động của thị trường thế giới; chất lượng hàng hoá công nghiệp còn thấp, giá thành cao; hàng nông sản sẽ phải cạnh tranh với các sản phẩm tương ứng của các nước phát triển do tác động của chính sách trợ cấp nông nghiệp của các nước này; chất lượng dịch vụ, đặc biệt là khả năng cạnh tranh của hệ thống tài chính, ngân hàng của ta còn rất thấp.
Việc gia nhập WTO ví như chúng ta đã ra biển lớn, muốn tồn tại trên thị trường thế giới trước tiên phải nâng cao sức cạnh tranh. Cạnh tranh trong WTO bao hàm việc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế mà việc tuân thủ này đòi hỏi không ít đầu tư về máy móc, công nghệ và quản lý.
2.2. Năng lực quản lý kinh tế còn nhiều hạn chế trong các lĩnh vực như: Hoạch định, điều phối và thực hiện chính sách; khả năng cân đối ngân sách nhà nước trong điều kiện cắt giảm thuế quan; năng lực chuyên môn và kỹ thuật để thực hiện các cam kết quốc tế...; sự am hiểu và kỹ năng áp dụng luật pháp quốc tế để tự bảo vệ...; năng lực của các cơ quan tư pháp trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại.
3. Về các vấn đề xã hội
Tác động về mặt xã hội của việc gia nhập WTO là một vấn đề được dư luận rộng rãi trong nước rất quan tâm. Trong Báo cáo của Chính phủ có đề cập nhưng theo chúng tôi là chưa tương xứng so với việc phân tích các tác động khác. Đề nghị Chính phủ đánh giá tác động về vấn đề này trên một số mặt như:
3.1. Tình trạng thất nghiệp do một số doanh nghiệp bị phá sản trong sự cạnh tranh gay gắt, việc tăng thêm khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân, giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền trong cả nước và những biện pháp làm giảm nhẹ những tác động này. Trong đó cần lưu ý đến những biện pháp an sinh xã hội như giải quyết việc làm, xây dựng và phát triển các quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ hoạt động vì mục đích nhân đạo, từ thiện... để giảm nhẹ những tác động này.
3.2. Việc di dân từ nông thôn và thành thị và các khu công nghiệp để tìm kiếm việc làm do chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế sau khi Việt Nam trở thành thành viên WTO.
3.3. Tác động đến tâm lý xã hội, tâm lý tiêu dùng, đời sống văn hoá, lối sống của nhân dân...
Phần thứ tư
NHỮNG CÔNG VIỆC CẦN LÀM SAU KHI VIỆT NAM TRỞ THÀNH
THÀNH VIÊN CHÍNH THỨC CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Uỷ ban Đối ngoại nhận thấy, ngoài những công việc đã được đề cập trong Báo cáo của Chính phủ, có một khối lượng công việc rất lớn đòi hỏi cần phải triển khai đồng bộ sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Chúng tôi xin nhấn mạnh một số nhiệm vụ như sau:
1. Đối với Quốc hội
1.1. Tiếp tục rà soát các luật, pháp lệnh để sửa đổi, bổ sung cho tương thích với các quy định của WTO; xây dựng mới các luật, pháp lệnh phục vụ quá trình hội nhập.
1.2. Thực hiện quy trình xây dựng luật, pháp lệnh bảo đảm yêu cầu minh bạch hoá như đã cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới; lấy ý kiến của nhân dân về các dự thảo luật. Điều quan trọng là thể hiện sự minh bạch ngay trong nội dung của các luật, pháp lệnh. Đảm bảo luật ban hành được áp dụng trực tiếp vào cuộc sống, giảm thiểu các bản bản dưới luật như Nghị định, thông tư hướng dẫn...
1.3. Giám sát việc thực hiện các cam kết của ta khi gia nhập WTO, nhất là các văn bản pháp luật liên quan đến kinh tế đối ngoại như Luật thương mại, Luật cạnh tranh, Luật ngân sách, Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp...
1.4. Tăng cường năng lực cho các cơ quan Quốc hội, bộ máy giúp việc của Quốc hội để đảm bảo thực hiện tốt cá nhiệm vụ nêu trên.
2. Đối với Chính phủ, các Bộ, ngành và chính quyền địa phương
2.1. Phổ biến đến chính quyền các cấp các cam kết và quy định có liên quan của WTO.
2.2. Nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế bằng cách: Nâng cao chất lượng quy hoạch; đầu tư hạ tầng cơ sở giao thông, năng lượng, viễn thông, chống lãng phí, dàn trải, thất thoát vốn đầu tư...; điều chỉnh chiến lược phát triển, sắp xếp đổi mới các doanh nghiệp nhà nước; sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho khoa học công nghệ, chú ý đến các công nghệ cao; cải cách hành chính nhà nước; cải cách lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
2.3. Tạo môi trường thông thoáng, tập trung cải cách thủ tục hành chính, phan cấp mạnh cho địa phương đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của các cơ quan nhà nước cấp trên, trước hết là các hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm. Tiếp tục triển khai có hiệu quả chủ trương tách bạch chức năng quản lý sản xuất kinh doanh với chức năng quản lý nhà nước.
2.4. Thực hiện công khai minh bạch hoá bằng cách: văn bản quy phạm pháp luật phải rõ ràng, cụ thể; đăng công báo các văn bản pháp quy, các quyết định của Toà án có liên quan đến thương mại.
2.5. Hoàn chỉnh thể chế thị trường trong nước; rà soát cơ chế chính sách đối với các thị trường, đặc biệt về đất đai, lao động, khoa học công nghệ...
2.6. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục và dạy nghề.
2.7. Quan tâm giải quyết vấn đề lao động, việc làm bằng cách: Dự báo các biến động về lao động; đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; có kế hoạch đào tạo lại cho những người thất nghiệp hoặc cần thay đổi công việc do tác động của việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới; sử dụng nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài.
2.8. Cải thiện hệ thống an sinh xã hội, tiếp tục chương trình xoá đói giảm nghèo, giảm thiểu phân hoá xã hội, cần chú ý: Lồng ghép các chương trình mục tiêu để đạt hiệu quả cao, tránh tình trạng phân tán, cục bộ, bản vị, manh mún, sử dụng có hiệu quả vốn ODA cho xây dựng hạ tầng cơ sở; nghiên cứu, khai thác và tận dụng các quy định của WTO để đầu tư hạ tầng cơ sở cho các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
3. Đối với các cơ quan tư pháp
3.1. Tăng cường năng lực của các cơ quan tư pháp để đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp, nhất là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài sẽ nảy sinh nhiều hơn sau khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.
3.2. Đào tạo đội ngũ thẩm phán, luật sư; trang bị những kiến thức cần thiết để họ đủ bản lĩnh chính trị, khả năng giải quyết tranh chấp trong bối cảnh mới.
3.3. Nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước để đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định của pháp luật bảo vệ kinh tế của Việt Nam.
4. Đối với các doanh nghiệp và Hiệp hội ngành nghề
4.1. Tăng cường năng lực cạnh tranh bằng cách: Giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm; đổi mới công nghệ; tiếp nhận và làm chủ các công nghệ mới; nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp; tăng cường tiếp thị, xây dựng thương hiệu; hợp tác, liên kết các doanh nghiệp; thực hiện đúng Luật lao động, có kế hoạch đào tạo lại, chuyển nghề cho lao động dôi dư; tạo sự gắn bó của người lao động với doanh nghiệp.
4.2. Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật thương mại quốc tế để doanh nghiệp có thể tự đối phó với tranh chấp thương mại trên thị trường như bán phá giá, trợ cấp.
4.3. Củng cố và phát triển các Hiệp hội ngành nghề đủ sức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp các doanh nghiệp thành viên.
5. Đối với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân
5.1. Mặt trận Tổ quốc cùng các đoàn thể góp phần nâng cao hiểu biết của nhân dân về WTO để nhân dân thực sự là những người làm chủ trong quá trình thực hiện các cam kết.
5.2. Kết hợp minh bạch hoá với quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình.
5.3. Tăng cường vai trò của Công đoàn cơ sở, bảo vệ lợi ích của người lao động.
5.4. Hội Nông dân các cấp tích cực tham gia công tác khuyến nông, dạy nghề, vận động nhân khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ nông nghiệp để đạt được năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, giá thành hạ.
6. Công tác thông tin, tuyên truyền
Công tác thông tin tuyên truyền có vai trò rất quan trọng, một phần đã được nêu trong nhiệm vụ đối với các chủ thể ở trên. Uỷ ban Đối ngoại đề nghị Chính phủ cần có kế hoạch toàn diện đối với công tác này nhằm nâng cao nhận thức của toàn dân về những cơ hội và thách thức, khó khăn và thuận lợi để tạo sự đồng thuận trong xã hội khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Chính phủ và các Bộ, ngành lên kế hoạch triển khai công tác thông tin để nhân dân và đặc biệt là hệ thống cơ quan hành chính nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp nắm vững nội dung các cam kết.
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Việc Việt Nam được kết nạp làm thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới là thành quả của quá trình đổi mới đất nước theo đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước, sự phấn đấu của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và toàn thể nhân dân ta.
Sau khi nghe Báo cáo của Chính phủ và những phân tích về sự cần thiết của việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, về quá trình đàm phán và những cam kết, về thời cơ và thách thức, về những công việc trước mắt cần làm, Uỷ ban Đối ngoại trân trọng đề nghị Quốc hội:
1. Phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Cho phép áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam như Chính phủ đã đề nghị trong Phụ lục kèm theo.
3. Có kế hoạch sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện các quy định của WTO theo lộ trình đã cam kết.
Uỷ ban Đối ngoại kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Lưu HC, ĐN
|
TM. ỦY BAN ĐỐI NGOẠI
Chủ nhiệm
Vũ Mão
|