ĐBQH NGUYỄN THỊ THU DUNG: GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP ĐÓNG VAI TRÒ QUAN TRỌNG TRONG THỰC HIỆN MỤC TIÊU GIẢM NGHÈO

26/02/2021

Tham gia thảo luận ý kiến tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV, đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Thu Dung, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Bình đề nghị Quốc hội và Chính phủ quan tâm chỉ đạo để giáo dục nghề nghiệp phát huy tốt nhất vai trò góp phần quan trọng vào thực hiện thành công mục tiêu giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững trong giai đoạn tới.

Đại biểu Nguyễn Thị Thu Dung, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Bình phát biểu tại phiên họp

Tham gia ý kiến về Báo cáo của Chính phủ về kết quả 6 năm thực hiện Nghị quyết số 76 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đến năm 2020 cho thấy giai đoạn 2016-2020, đại biểu Nguyễn Thị Thu Dung, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Bình khẳng định kết quả thực hiện mục tiêu giảm nghèo của Chính phủ đã đạt những con số ấn tượng, vượt mục tiêu Nghị quyết 76 đề ra với tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn dưới 5%. Trung bình, mỗi năm tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,42%, ước năm 2020 còn khoảng 2,75%. Tỷ lệ hộ nghèo ở 64 huyện nghèo trung bình mỗi năm giảm 5,28%, ước cuối năm 2020 còn khoảng 24%, đạt mục tiêu Nghị quyết số 142 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo đến hết năm 2019 và dự báo cuối năm 2020 chưa bền vững, còn có sự chênh lệch giữa các vùng miền. Phát biểu trước Quốc hội, đại biểu Nguyễn Thị Thu Dung đề cập đến sự phù hợp cần thiết của việc thiết kế đào tạo nghề trong chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững.

Theo đại biểu, ILO từ năm 1999 đã nhấn mạnh vai trò của đào tạo nghề cho người nghèo với tổng kết rằng: “Đặc điểm nổi bật của hầu hết các chương trình, các chiến lược giảm nghèo của các chính phủ và các nhà tài trợ ở các nước đang phát triển là hầu như không có vai trò của giáo dục nghề nghiệp”. Chứng minh từ các nghiên cứu lớn cho thấy, rõ ràng nghèo đói có tương quan trực tiếp với trình độ, năng lực của con người, do đó, kỹ năng và khả năng làm việc là những đóng góp quan trọng vào việc giảm nghèo, gắn kết xã hội tốt hơn và tăng cường ổn định chính trị. Ở Việt Nam, các chính sách giáo dục nghề nghiệp nhắm vào người nghèo dường như chỉ tập trung vào giáo dục cơ bản hoặc đào tạo ngắn hạn, giáo dục nghề nghiệp vẫn chưa được công nhận rộng rãi là một công cụ thiết yếu để giảm nghèo. Theo đại biểu, quan điểm này phải được thay đổi. Thông thường các chương trình giải quyết tình trạng nghèo đói bao gồm tập huấn ngắn hạn thay vì các chương trình đào tạo nghề, đây là một cách tiếp cận chưa phù hợp để giảm nghèo bền vững. Đào tạo không chính thức có thể giúp giảm nghèo trong ngắn hạn, tuy nhiên, đối với một nền kinh tế đang hướng tới việc giúp người dân thoát nghèo một cách bền vững và chính thức hóa việc làm phi chính thức thì việc đào tạo ngắn hạn sẽ không đủ. Đặc biệt là ngày nay, với mức độ thay đổi đang diễn ra trên thị trường lao động Việt Nam, mở rộng khả năng tiếp cận giáo dục nghề nghiệp có thể giúp Việt Nam phá vỡ vòng luẩn quẩn: Nghèo không đi học, không có nghề nghiệp lại càng nghèo cho người dân.

Giáo dục nghề nghiệp có thể rất hiệu quả trong việc giúp các cá nhân và hộ gia đình thoát nghèo một cách bền vững. Việc đào tạo ngắn hạn không mang lại hiệu quả thay đổi tương đối, giáo dục nghề nghiệp cũng có thể giúp quá trình chính thức hóa thị trường lao động. Bởi vì, các cá nhân được đào tạo chính quy tương đối có nhiều khả năng tìm được việc làm chính thức hơn. ILO đã khuyến nghị các chính phủ thiết kế các chương trình giảm nghèo nên xem xét tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục nghề nghiệp, mặt khác là thúc đẩy các cơ hội kinh tế cho sinh viên tốt nghiệp giáo dục nghề nghiệp. Trong bối cảnh của một chương trình bao gồm 1 gói các luật hỗ trợ, khuyến khích giáo dục nghề nghiệp sẽ phát huy hết tiềm năng giảm nghèo.

Bài học kinh nghiệm tại một số nước như Bangladesh, Philippines, Hàn Quốc đã thấy thành công trong việc gắn giáo dục nghề nghiệp với giảm nghèo bền vững. Đối với Việt Nam, nhiều báo cáo nghiên cứu cũng cho thấy, giáo dục nghề nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm và thu nhập của các hộ gia đình, ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của các hộ gia đình. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều có tương quan mạnh mẽ với trình độ giáo dục của chủ hộ, tỷ lệ nghèo đa chiều của nhóm các chủ hộ tốt nghiệp cao đẳng hoặc đại học chỉ dưới 1%, trong khi đó, nhóm có chủ hộ chưa học xong tiểu học 26,6%. Trong giai đoạn 2012 - 2016, tỷ lệ nghèo đều giảm ở các hộ có chủ hộ có các trình độ học vấn cao hơn, tốc độ giảm nghèo của các nhóm hộ có chủ hộ lao động không có kỹ năng nghề thấp hơn các nhóm hộ khác. Mặt khác, tình trạng trẻ bỏ học khi mới học hết lớp 9 ở các hộ nghèo còn xảy ra nhiều, việc phân luồng và dạy nghề là giải pháp phù hợp để khắc phục tình trạng này,

Trong bối cảnh hiện nay ở nước ta, với những thách thức của già hóa dân số, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, biến đổi khí hậu và nước biển dâng, thiên tai, dịch bệnh, nhất là phòng, chống dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do virus Corona chủng mới gây ra. Cần tiếp tục kế thừa quan điểm của Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, xác định chính sách xã hội rất quan trọng trong phát triển bền vững đất nước. Một trong các nội dung quan trọng là: Xây dựng, đề xuất chương trình, mục tiêu quốc gia về giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững giai đoạn tới theo hướng tiếp nối chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 với tư duy mới về giảm nghèo bền vững.

Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 24 về đẩy mạnh phát triển nhân lực có kỹ năng nghề, góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới. Theo đó, yêu cầu của các bộ, ngành, địa phương tiếp tục triển khai có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát triển giáo dục nghề nghiệp, phát triển nhân lực có kỹ năng nghề, tăng cường chuyển đổi số và đào tạo trực tuyến, chú trọng đào tạo lại và đào tạo thường xuyên lực lượng lao động để tạo chuyển biến mạnh mẽ về quy mô, chất lượng và hiệu quả của giáo dục nghề nghiệp, bảo đảm người học có kỹ năng chuyên môn, kỹ năng số, kỹ năng mềm, kỹ năng khởi nghiệp và ngoại ngữ, thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động. Phấn đấu đến năm 2030 giáo dục nghề nghiệp Việt Nam tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4, đến năm 2045 tiếp cận trình độ của các nước G20. Đồng thời, yêu cầu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức tổng kết, đánh giá các chương trình, dự án phát triển giáo dục nghề nghiệp, phát triển nhân lực có kỹ năng nghề thuộc chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020, đề xuất cho các giai đoạn tiếp theo.

Để giảm nghèo bền vững, chống nguy cơ trở thành hộ nghèo, nguy cơ tái nghèo, cận nghèo thì đào tạo việc làm là giải pháp căn cơ và có hiệu quả nhất. Phát triển giáo dục nghề nghiệp sẽ thúc đẩy tăng năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả trên cơ sở chiến lược tăng trưởng cân bằng, an toàn, bao trùm, bền vững và sáng tạo để người lao động có tiền lương, thu nhập đảm bảo đời sống của bản thân và gia đình từ mức trung bình của lao động xã hội trở lên. Đồng thời, giáo dục nghề nghiệp là một dịch vụ xã hội cơ bản trong hệ thống an sinh xã hội mà Hiến pháp 2013 đã hiến định, công dân có quyền được đảm bảo an sinh xã hội. Việt Nam cần xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng, đa dạng, linh hoạt, tập trung vào các trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, trong đó có thể nói giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò quan trọng.

Từ những lý do trên, có thể cho rằng giảm nghèo bền vững và phát triển giáo dục nghề nghiệp có mối quan hệ gắn bó với nhau chặt chẽ. Do đó, việc đề xuất chủ trương đầu tư dự án phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thuộc chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2025 là hết sức phù hợp và cần thiết. Đại biểu Nguyễn Thị Thu Dung đề nghị Quốc hội và Chính phủ quan tâm chỉ đạo để giáo dục nghề nghiệp phát huy tốt nhất vai trò góp phần quan trọng vào thực hiện thành công mục tiêu giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững trong giai đoạn tới./.

Minh Hùng