MỘT SỐ NỘI DUNG GIẢI TRÌNH, TIẾP THU, CHỈNH LÝ DỰ ÁN LUẬT ĐẦU TƯ THEO PHƯƠNG THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ (PPP)

20/04/2020

Tại Phiên họp thứ 44 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh đã báo cáo một số nội dung giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP).

 

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh báo cáo một số nội dung

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh, trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 43, ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội chuyên trách, ý kiến các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan hữu quan, Thường trực Ủy ban Kinh tế đã phối hợp cùng Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật. Cụ thể, một số nội dung chủ yếu, còn có ý kiến khác nhau như sau:

Về áp dụng luật và điều ước quốc tế (Điều 3), Dự án Luật gửi xin ý kiến đại biểu Quốc hội chuyên trách đề xuất 2 phương án: Phương án 1, Quy định nội dung khoản 2 Điều 3 tại dự thảo Luật nhằm tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để bảo đảm các bên tham gia thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng, ổn định lâu dài trong thời hạn hợp đồng dự án PPP. Phương án 2, Không quy định nội dung khoản 2 Điều 3 vì không phù hợp với nguyên tắc áp dụng pháp luật đã được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo báo cáo tổng hợp ý kiến các đại biểu Quốc hội chuyên trách, có 8 ý kiến nhất trí phương án 1, 7 ý kiến nhất trí phương án 2.

Về lĩnh vực đầu tư dự án PPP (khoản 1 Điều 5), Thường trực Ủy ban Kinh tế đã tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng thu hẹp lĩnh vực, chỉ tập trung đầu tư PPP ở những lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm, quan tâm đến các dự án lớn có tính liên kết vùng miền, tính lan toả đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của ngành, địa phương. Để phù hợp với thực tiễn, dự thảo Luật quy định nguyên tắc chung, chỉ rõ 5 nhóm lĩnh vực thể hiện tại khoản 1 Điều 5 với các lý do lựa chọn các lĩnh vực này như trong bản đầy đủ của dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật. Đồng thời, nhằm bảo đảm tính linh hoạt trong triển khai trên thực tế, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 5 để xử lý tình huống phát sinh dự án ngoài lĩnh vực quy định tại khoản 1 Điều 5 nhưng cần thiết, đáp ứng 4 điều kiện và có khả năng thực hiện đầu tư theo phương thức PPP, cơ quan có thẩm quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện đầu tư theo phương thức PPP.

Về quy mô đầu tư dự án PPP (khoản 3 Điều 5), Dự án Luật gửi xin ý kiến đại biểu Quốc hội chuyên trách đề xuất 2 phương án: Phương án 1, Chính phủ quy định chi tiết quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án PPP đối với từng lĩnh vực quy định tại khoản 1 Điều 5, nhưng không thấp hơn 200 tỷ đồng. Quy định này thống nhất với định hướng thu hẹp lĩnh vực đầu tư dự án PPP như đã nêu ở trên, xác định quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án PPP nhằm bảo đảm có sự tập trung đầu tư lớn vào các dự án PPP quan trọng cần khuyến khích, ưu tiên thu hút nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân. Phương án 2, Chính phủ quy định chi tiết quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án PPP không thấp hơn 100 tỷ đồng đối với từng lĩnh vực như đầu tư cơ sở hạ tầng, giáo dục - đào tạo, y tế... hoặc theo địa bàn như đô thị, đồng bằng, miền núi, vùng sâu vùng xa. Theo báo cáo tổng hợp ý kiến các đại biểu Quốc hội chuyên trách, có 9 ý kiến nhất trí phương án 1, có 7 ý kiến nhất trí phương án 2.

Về điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án PPP (Điều 19), Dự án Luật gửi xin ý kiến đại biểu Quốc hội chuyên trách đề xuất 2 phương án: Phương án 1, khi tổng mức đầu tư dự án PPP tăng so với tổng mức đầu tư đã được quyết định tại bước chủ trương đầu tư dự án thì phải thực hiện điều chỉnh chủ trương đầu tư vì cho rằng việc tăng tổng mức đầu tư sẽ làm thay đổi phương án tài chính cũng như hiệu quả của dự án PPP. Khi điều chỉnh báo cáo nghiên cứu khả thi cũng không được phép làm tăng tổng mức đầu tư. Phương án 2, để hạn chế việc phải điều chỉnh chủ trương đầu tư nhiều lần và tránh thủ tục phức tạp, kéo dài, dự thảo Luật quy định trường hợp thay đổi tăng tổng mức đầu tư từ 10% trở lên thì mới phải điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án PPP. Theo báo cáo tổng hợp ý kiến các đại biểu Quốc hội chuyên trách, có 7 ý kiến nhất trí phương án 1, 7 ý kiến nhất trí phương án 2.

Toàn cảnh Phiên họp

Về cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu (Điều 83), đối với căn cứ, điều kiện áp dụng cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu, tiếp thu sửa đổi, bổ sung quy định tại các Điều 51, Điều 52 và Điều 83 xác định không phải trong mọi trường hợp đều được áp dụng cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng quy định như dự thảo Luật quá chặt chẽ, không tạo cơ chế khuyến khích, thu hút nhà đầu tư. Đối với việc áp dụng cơ chế chia sẻ khi dự án giảm doanh thu mà không áp dụng cơ chế chia sẻ khi nhà đầu tư dự án PPP thua lỗ, mất vốn, với bản chất dài hạn, thời điểm hoàn vốn của dự án PPP có thể lên đến hàng chục năm kể từ thời điểm ký kết hợp đồng dự án. Do đó, dự thảo Luật PPP không tiếp cận theo hướng chia sẻ khi nhà đầu tư dự án PPP thua lỗ, mất vốn, mà chỉ xem xét việc áp dụng chia sẻ khi doanh thu của dự án bị sụt giảm do lỗi từ phía Nhà nước. Đối với xác định nguồn chi trả cho cơ chế chia sẻ phần giảm doanh thu, Thường trực Ủy ban Kinh tế xin báo cáo 02 phương án: Phương án 1, Giữ như quy định của dự thảo Luật, sử dụng nguồn dự phòng vốn đầu tư công trung hạn để chi trả phần giảm doanh thu (khoản 4 Điều 75). Phương án 2, Sử dụng chi thường xuyên để chi trả phần giảm doanh thu, tương tự chi trả nợ ngân sách nhà nước (khoản 3 Điều 76). Đối với cơ sở xác định các mốc giá trị trong cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu, về giá trị 50% - 50%, hồ sơ dự án Luật do Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, cơ chế này được đề xuất theo hướng Nhà nước chia sẻ không quá 50% phần hụt thu và nhà đầu tư chia sẻ không thấp hơn 50% phần tăng thu. Một số ý kiến đại biểu Quốc hội cho rằng quy định như vậy không bảo đảm sự bình đằng trong mối quan hệ Nhà nước và tư nhân, do đó, xin tiếp thu theo hướng cố định tỷ lệ 50% - 50%. Về mức doanh thu bắt đầu chia sẻ rủi ro, hồ sơ dự án Luật do Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8 không đề xuất giá trị này. Một số ý kiến đại biểu Quốc hội yêu cầu phải quy định mức cụ thể, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm một số nước và tìm hiểu thực tiễn một số dự án BOT giao thông.

Về hoạt động kiểm toán Nhà nước trong đầu tư theo phương thức PPP (Điều 86), Thường trực Ủy ban Kinh tế thấy rằng cơ chế, chính sách pháp luật vừa phải bảo đảm chất lượng dịch vụ công nhưng đồng thời phải tạo điều kiện thu hút, huy động tối đa nguồn vốn từ khu vực tư nhân đầu tư vào các dự án PPP. Mặt khác, Hiến pháp và pháp luật về kiểm toán Nhà nước quy định Kiểm toán Nhà nước chỉ thực hiện kiểm toán tài chính công, tài sản công. Do đó, xin tiếp thu, sửa đổi, bổ sung quy định về hoạt động kiểm toán Nhà nước như sau: Kiểm toán tuân thủ về quá trình chuẩn bị dự án, kết quả lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án PPP; Kiểm toán việc sử dụng vốn nhà nước bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư, hỗ trợ xây dựng công trình tạm (nếu có) quy định tại Điều 73 của Luật này, hỗ trợ xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng khi tách thành một dự án thành phần quy định tại điểm a khoản 5 Điều 71 của Luật này, sử dụng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư thực hiện dự án BT quy định tại khoản 3 Điều 45 của Luật này; Kiểm toán hoạt động để đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trên cơ sở các chỉ số đánh giá chất lượng sản phẩm, dịch vụ của dự án PPP; Khi chuyển giao cho Nhà nước, thực hiện kiểm toán toàn bộ giá trị tài sản của dự án PPP.

Về vốn nhà nước trong dự án PPP (mục 1 Chương VI), trong quá trình thảo luận, lấy ý kiến về dự án Luật, có ý kiến đề nghị bổ sung chức năng cho Quỹ tích lũy trả nợ quy định tại Luật Quản lý nợ công để thực hiện nhiệm vụ xử lý rủi ro phần giảm doanh thu thay cho việc sử dụng vốn nhà nước, tuy nhiên việc bổ sung chức năng cho Quỹ tích lũy trả nợ chưa được đánh giá tác động chính sách kỹ lưỡng, ngoài ra chưa được Chính phủ thống nhất trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8.

Về các quy định đối với hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT), Thường trực Uỷ ban Kinh tế đã tiếp thu, sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến dự án BT theo phương thức mới theo hướng chặt chẽ hơn tại dự thảo Luật, tạo lập cơ sở pháp lý thống nhất để điều chỉnh dự án BT nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc phát sinh trong thời gian qua, bảo đảm thống nhất với quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, pháp luật về ngân sách nhà nước. Đồng thời, kiến nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung tại các luật có liên quan nhằm minh bạch hơn nữa trong quản lý, bảo đảm xử lý được các vấn đề tiêu cực có thể xảy ra đối với việc triển khai thực hiện dự án áp dụng loại hợp đồng BT. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng hợp đồng BT về bản chất không phải là hợp đồng PPP, đề nghị không quy định trong dự thảo Luật.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nêu rõ, ngoài một số nội dung chủ yếu nêu trên, Thường trực Ủy ban Kinh tế đã phối hợp cùng Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu tiếp thu, giải trình chi tiết và đầy đủ nhiều nội dung khác của dự án Luật tại dự thảo Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật; tiếp thu, chỉnh lý về kỹ thuật văn bản, kính trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến chỉ đạo./.

Hồ Hương

Các bài viết khác