11. BỘ Y TẾ
Tại Công văn số 3767/BYT-VPB1, ngày 20/6/2016 của Bộ Y Tế về việc trả lời kiến nghị cử tri tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII như sau.
1. Cử tri tỉnh An Giang, Cao Bằng kiến nghị: Để nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh phục vụ nhân dân ở tuyến cơ sở, hiện nay nhiều Bệnh viện tuyến huyện, xã, phường đã được trang bị máy móc tương đối hiện đại; tuy nhiên, do thiếu bác sỹ và trình độ chuyên môn của đội ngũ tuyến này còn yếu nên chưa phát huy hết hiệu quả của các trang thiết bị đã có. Đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu có chính sách đột phá nhằm thu hút được đội ngũ bác sỹ giỏi, có chuyên môn cao về công tác tại tuyến huyện, tuyến xã, phường nhằm phát huy hết hiệu quả của các trang thiết bị trong chăm sóc, khám chữa bệnh cho nhân dân.
Trả lời:
Để nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh phục vụ nhân dân ở tuyến cơ sở, trong thời gian qua Bộ Y tế đã chú trọng, triển khai nhiều giải pháp để đảm bảo nguồn nhân lực phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, cụ thể:
a) Về tổ chức
- Tham mưu, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 117/2014/NĐ-CP ngày 08/12/2014 quy định trạm y tế xã, phường, thị trấn là đơn vị y tế thuộc Trung tâm Y tế huyện. Thực hiện Nghị định 117 của Chính phủ, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 33/2015/TT-BYT ngày 27/10/2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ của Trạm y tế xã, phường, thị trấn. Với quy định trên, y tế cơ sở sẽ tạo thành một thể thống nhất nhằm phát huy hiệu quả việc thực hiện các hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân.
- Bộ trưởng Bộ Y tế đã có Quyết định số 4667/QĐ-BYT ngày 07/11/2014 ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn đến năm 2020 quy định chi tiết các tiêu chí về chỉ đạo, điều hành công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân; nhân lực y tế; cơ sở hạ tầng trạm y tế xã; trang thiết bị, thuốc và phương tiện khác để triển khai có hiệu quả các hoạt động y tế tại tuyến xã, phường, thị trấn.
- Liên Bộ Y tế - Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 51/2015/TTLT-BYT-BNV ngày 11/12/2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Y tế thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Phòng Y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Điểm mới của Thông tư liên tịch số 51 là hoàn thiện hệ thống tổ chức y tế ở địa phương theo hướng đổi mô hình tổ chức đơn vị sự nghiệp y tế bảo đảm Tinh gọn - Hiệu lực - Hiệu quả và thực hiện cơ chế quản lý theo ngành, theo đó tại tuyến tỉnh thực hiện mô hình Trung tâm Kiểm soát bệnh tật, tại tuyến huyện thực hiện mô hình Trung tâm y tế thực hiện 2 chức năng, khám bệnh chữa bệnh và y tế dự phòng.
b) Về nhân lực
- Tham mưu, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 117/2014/NĐ-CP quy định cán bộ y tế làm việc tại Trạm y tế là viên chức, do Trung tâm y tế huyện quản lý. Giám đốc Trung tâm y tế huyện có thể điều động, luân chuyển viên chức công tác tại các Trạm y tế xã, đảm bảo hoạt động chuyên môn tại các Trạm Y tế xã.
- Tham mưu, trình Thủ tướng ban hành Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 về việc thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và Thông tư số 18/2014/TT-BYT ngày 02/06/2014 của Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, trong đó hướng dẫn thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với bác sỹ, điều dưỡng, hộ sinh từ tuyến Trung ương xuống tỉnh, tỉnh xuống huyện, huyện xuống xã, từ vùng không khó khăn đến vùng khó khăn.
- Bộ Y tế đã thực hiện tốt Đề án 1816, bệnh viện vệ tinh, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới, qua đó tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên môn tay nghề giỏi tại tuyến cơ sở để cung cấp các dịch vụ y tế có chất lượng, gần dân hơn, hiệu quả hơn. Nhiều địa phương đã tổ chức các đội y tế lưu động, khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa.
- Tăng cường đào tạo:
+ Đào tạo nhân lực tại chỗ: Đối với các tỉnh còn khó khăn về nhân lực, đề nghị tiếp tục tăng cường công tác đào tạo cán bộ y-dược dưới nhiều loại hình đào tạo (chính quy, cử tuyển, liên thông, đào tạo theo địa chỉ) với quy mô hợp lý cho đối tượng là người địa phương, sau khi tốt nghiệp trở về công tác tại địa phương nhằm giúp các tỉnh tháo gỡ khó khăn về nhân lực. Giảm dần quy mô đào tạo cử tuyển khi đã có đủ cán bộ.
+ Đào tạo liên tục (hỗ trợ của các dự án, đề án 1816, bệnh viện vệ tinh, bệnh viện hạt nhân…): Cán bộ y tế cơ sở đã được đào tạo, đào tạo lại, cập nhật kiến thức mới, góp phần nâng cao năng lực cho tuyến y tế cơ sở để có thể thực hiện tốt chăm sóc sức khỏe ban đầu, giảm tình trạng vượt tuyến không cần thiết.
+ Thực hiện Dự án thí điểm đưa bác sỹ trẻ tình nguyện về công tác vùng khó khăn, 62 huyện nghèo: Để có nguồn nhân lực y tế chất lượng phục vụ công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân được tốt, tiến tới mọi người dân được bình đẳng trong việc thụ hưởng dịch vụ y tế chất lượng, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 585/QĐ-BYT phê duyệt Dự án “Thí điểm đưa bác sĩ trẻ tình nguyện về công tác tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (ưu tiên 62 huyện nghèo)” nhằm thu hút bác sỹ trẻ mới ra trường tình nguyện về công tác tại các vùng khó khăn.
c) Về chế độ chính sách:
- Để thu hút cán bộ y tế về công tác tại tuyến cơ sở, đặc biệt là tuyến xã/phường, trong thời gian qua, Bộ Y tế đã luôn chú trọng nghiên cứu, đề xuất các chế độ chính sách đặc thù của ngành, bên cạnh việc được hưởng các chính sách như: Chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập với mức phụ cấp từ 20% đến 70 % mức lương hiện hưởng (Nghị định số 56/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011); Chế độ phụ cấp độc hại đối với công chức, viên chức ngành Y tế (Công văn số 6608/BYT-TCCB ngày 22/8/2005); Chế độ phụ cấp đặc thù của y tế: phụ cấp thường trực, phẫu thuật, chống dịch (Quyết định số 73/2012/QĐ-TTg); Chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh (Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg), cán bộ, viên chức y tế công tác tại tuyến y tế cơ sở hiện được hưởng các chế độ phụ cấp được quy định trong các văn bản sau:
+ Nghị định số 64/2009/NĐ-CP quy định về chính sách đối với cán bộ, viên chức y tế công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và Thông tư liên tịch số 06/2010/TTLT-BYT-BNV-BTC ngày 22/3/2010 của liên Bộ Y tế, Nội vụ, Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 64/2009/NĐ-CP.
+ Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg ngày 11/5/2009 về việc quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản.
- Đối với y tế xã/phường, thực hiện Nghị định của Chính phủ quy định một số vấn đề về tổ chức và chế độ chính sách đối với y tế cơ sở, trong đó quy định cán bộ Trạm Y tế xã, phường, thị trấn thuộc Trung tâm y tế tuyến huyện, viên chức của Trạm Y tế (trong đó có bác sỹ) là viên chức của Trung tâm y tế.
- Bên cạnh đó, một số tỉnh đã chủ động ban hành những chính sách thu hút, đãi ngộ đối với đội ngũ bác sỹ về công tác tại trạm y tế xã, qua đó, đã thu hút được nhiều bác sỹ về công tác tại trạm y tế xã (Quảng Nam, Quảng Ngãi ...).
Trong thời gian tới, Bộ Y tế tiếp tục nghiên cứu có các giải pháp và xây dựng các chính sách nhằm tăng cường nhân lực có trình độ chuyên môn về công tác tại tuyến huyện, xã nhằm phát huy hiệu quả công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân:
- Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị định số 117/2014/NĐ-CP của Chính phủ, nhằm ổn định về tổ chức và nhân lực đối với Trạm y tế xã, phường, thị trấn.
- Kiểm tra, giám sát thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn đến 2020 do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành theo Quyết định số 4667/QĐ-BYT.
- Tiếp tục thực hiện Nghị định số 64/2009/NĐ-CP. Tuy nhiên theo quy định của Nghị định, chế độ phụ cấp thu hút chỉ được hưởng trong 5 năm. Do vậy, Bộ Y tế sẽ trình Chính phủ cho viên chức công tác ở vùng khó khăn tiếp tục được hưởng phụ cấp thu hút.
- Đối với các tỉnh khó khăn và miền núi: Tiếp tục thực hiện đề án đào tạo theo nhu cầu xã hội (theo địa chỉ, cử tuyển).
- Có chính sách ưu tiên về giáo dục, đào tạo tuyển dụng và sử dụng nhân lực y tế cho vùng khó khăn, y tế các tuyến huyện, xã. Coi trọng hơn nữa công tác tuyển dụng và sử dụng nhân lực y tế.
- Tăng cường nhân lực y tế đảm bảo đủ nhân lực, duy trì và bổ sung bác sĩ về hoạt động tại Trạm Y tế xã. Nghiên cứu cơ chế đi luân phiên nghĩa vụ, phục vụ tại tuyến y tế cơ sở.
- Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ và triển khai có hiệu quả các dự án viện trợ cho y tế cơ sở.
- Nghiên cứu xây dựng chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với công chức, viên chức ngành Y tế.
- Đề nghị nâng mức lương khởi điểm của bác sĩ tương xứng với thời gian đào tạo 6 năm.
Các giải pháp nêu trên là tương đối đồng bộ để thu hút, phát triển đội ngũ cán bộ y tế tuyến xã. Để thực hiện hiệu quả các giải pháp đó, rất cần sự quan tâm, đầu tư của chính quyền các cấp, đặc biệt là ở tuyến xã.
2. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị Thủ tướng Chính phủ và Bộ Y tế sớm xây dựng và phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035; sửa đổi, xếp loại đơn vị sự nghiệp ngành Y tế;
Đề nghị các Bộ, ngành Trung ương tham mưu Chính phủ trình Quốc hội bổ sung, sửa đổi một số nội dung của Luật Dược và Luật Khám bệnh, chữa bệnh để phù hợp với xu thế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; bổ sung, sửa đổi Nghị định số 85/2012/NĐ-CP ngày 15/10/2012 của Chính phủ để phù hợp với quy định tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập; bổ sung, sửa đổi các Nghị định số 176/2013/NĐ-CP, Nghị định số 178/2013/NĐ-CP về xử lý hành chính trong lĩnh vực hành nghề y dược tư nhân và an toàn thực phẩm.
Tham mưu Chính phủ sớm phê duyệt Đề án tăng cường hệ thống y tế cơ sở nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cấp trang thiết bị và đào tạo nhân lực theo Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn đến 2020, gắn với xây dựng nông thôn mới (Tiêu chí 15 về Y tế) bảo đảm chất lượng, hiệu quả và bền vững.
Trả lời:
1. Về đề nghị ban hành Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035:
Bộ Y tế đã có tờ trình số 1332/TTr-BYT ngày 30/12/2014 và công văn số 4199/BYT-KHTC ngày 17/6/2015 gửi Thủ tướng Chính phủ xin phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống y tế Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2035. Tuy nhiên, theo thông tin của Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Hiện nay, Bộ Y tế đang hoàn thiện dự thảo Quy hoạch mạng lưới khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, để trình Thủ tướng Chính phủ trong thời gian tới.
2. Về kiến nghị sửa đổi một số văn bản Luật và Nghị định:
2.1. Kiến nghị sửa đổi Luật Dược
Quốc hội đã thông qua Luật Dược (sửa đổi) ngày 06/4/2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017. Luật Dược (sửa đổi) có rất nhiều điểm mới so với Luật Dược năm 2005; trong đó có các quy định về chính sách của Nhà nước về phát triển công nghiệp dược; hành nghề dược; kinh doanh dược; đăng ký, lưu hành, thu hồi thuốc và nguyên liệu làm thuốc; dược liệu và thuốc cổ truyền; đơn thuốc và sử dụng thuốc; thông tin thuốc, cảnh giác dược và quảng cáo thuốc; dược lâm sàng; quản lý thuốc trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; thử thuốc trên lâm sàng và thử tương đương sinh học của thuốc; quản lý chất lượng thuốc, nguyên liệu làm thuốc và quản lý giá thuốc.
2.2. Kiến nghị sửa đổi Luật Khám bệnh, chữa bệnh
Luật Khám bệnh, chữa bệnh số 40/2009/QH-12 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Sau hơn 5 năm thực hiện Luật này Bộ Y tế đã nhận được khá nhiều ý kiến, kiến nghị của Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và của người hành nghề y phản ánh rằng một số nội dung theo quy định của Luật là chưa phù hợp với thực tiễn như: Đối tượng, điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề, hình thức, điều kiện cấp giấy phép hoạt động…; hiện nay còn một số cơ sở khám bệnh, chữa bệnh chưa được cấp giấy phép hoạt động do có nhiều cơ sở có tính chất đặc thù. Ngoài ra, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề và giấy phép hoạt động cũng cần phải chỉnh sửa để phù hợp với đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để giải quyết những bất cập trên, hiện nay Bộ Y tế đang tiến hành đánh giá tình hình triển khai thi hành Luật Khám bệnh, chữa bệnh; trên cơ sở đó xây dựng các tài liệu cần thiết để đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Khám bệnh, chữa bệnh. Bộ Y tế đang trình Chính phủ để đề xuất Quốc hội khóa XIV đưa vào chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh trong thời gian tới.
2.3. Kiến nghị sửa đổi Nghị định số 85/2012/NĐ-CP ngày 15/10/2012 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập
Trong Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 21/5/2015 về ban hành Kế hoạch triển khai Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Y tế có trách nhiệm dự thảo văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định số 85/2012/NĐ-CP ngày 15/10/2012 để trình Chính phủ. Thực hiện chỉ đạo này của Chính phủ, trong thời gian qua, Bộ Y tế đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan trong việc xây dựng dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 85/2012/NĐ-CP ngày 15/10/2012 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.
Về nội dung cơ bản của bản dự thảo, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam tại cuộc họp ngày 29/3/2016 và cuộc họp ngày 24/4/2016 về định hướng nội dung của dự thảo Nghị định, Bộ Y tế đã xây dựng Nghị định mới theo 03 nội dung cơ bản sau đây:
a) Quy định về hội đồng quản lý quỹ và Ban kiểm soát áp dụng cho đơn vị sự nghiệp nhóm 1, nhóm 2.
b) Giao quyền tự chủ trong việc quy định số lượng người làm việc cho các đơn vị thuộc nhóm 1, nhóm 2.
c) Quy định lộ trình tính giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh đối với người không có thẻ bảo hiểm y tế (BHYT).
Về quy trình xây dựng:
- Bộ đã trình Chính phủ tại Tờ trình số 163/TTr-BYT ngày 14/3/2016 ban hành Nghị định sửa đổi một số điều của Nghị định 85/2012/NĐ-CP về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập.
- Đã tổ chức 02 cuộc họp do Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chủ trì và một số Bộ liên quan về nội dung sửa đổi.
- Bộ trưởng Bộ Y tế đã chủ trì họp với một số đơn vị, các Vụ Cục liên quan, một số Bộ để bàn thống nhất nội dung sửa đổi theo hướng ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định số 85.
- Bộ Y tế đã hoàn thiện lại dự thảo Nghị định và đã có công văn số 3021/BYT-KH-TC ngày 23/5/2016 gửi xin ý kiến góp ý của Các Sở Y tế, các đơn vị trực thuộc và các Vụ, Cục thuộc Bộ Y tế, hạn góp ý trước 31/5/2016. Đến nay Bộ Y tế đã nhận được 26 đơn vị góp ý (14 Sở Y tế, 07 đơn vị trực thuộc, 05 Vụ, Cục) và đang tiếp tục hoàn thiện dự thảo Nghị định.
2.4. Kiến nghị sửa đổi Nghị định số 176/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế và Nghị định số 178/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm
Ngày 14/11/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 176/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế và Nghị định số 178/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm. Qua gần ba năm thực hiện các văn bản trên, công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế và an toàn thực phẩm đã đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên, những quy định tại các Nghị định này đã bắt đầu bộc lộ những bất cập như một số hành vi vi phạm chưa được quy định trong Nghị định, một số hành vi đã được quy định nhưng chưa bảo đảm tính khả thi, đặc biệt là các quy định liên quan đến thẩm quyền lập biên bản và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.
Để có thể đánh giá một cách toàn diện, khách quan những vấn đề có liên quan đến hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế và an toàn thực phẩm, Bộ Y tế đã có công văn số 1068/BYT-PC ngày 01/3/2016 đề nghị các cơ quan, đơn vị trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ báo cáo một số nội dung:
- Tình hình tổ chức thực hiện Nghị định số 176/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế và Nghị định số 178/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm tại cơ quan, đơn vị.
- Kết quả công tác xử phạt vi phạm hành chính trong năm 2014, 2015: Số vụ việc vi phạm và số đối tượng bị xử phạt vi phạm, kết quả thi hành quyết định xử phạt vi phạm, kết quả áp dụng biện pháp xử lý hành chính ...
- Những vấn đề khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành các Nghị định; nguyên nhân và đề xuất, kiến nghị.
- Rà soát các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, an toàn thực phẩm cần sửa đổi, bổ sung; trên cơ sở đó đề xuất ý kiến sửa đổi.
- Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các chức danh: Đề nghị nêu rõ cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với từng hành vi vi phạm hành chính.
Trên cơ sở tổng hợp ý kiến của các đơn vị, Bộ Y tế đang xây dựng các tài liệu cần thiết của hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định này gửi Bộ Tư pháp tổng hợp trình Chính phủ theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Ngay sau khi được Chính phủ đồng ý cho xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung hoặc nghị định mới, Bộ Y tế sẽ tiến hành xây dựng văn bản này.
3. Kiến nghị phê duyệt Đề án tăng cường hệ thống y tế cơ sở
Ngày 21/12/2015, Bộ Y tế có Tờ trình số 1153/TTr-BYT trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển y tế cơ sở trong tình hình mới. Ngày 06/02/2016, Văn phòng Chính phủ có văn bản số 972/VPCP-KGVX gửi các Bộ, ngành liên quan đề nghị góp ý kiến về dự thảo Đề án. Các Bộ, ngành đều có văn bản trả lời là thống nhất với sự cần thiết, nội dung và phạm vi của Đề án và xin trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt.
Riêng Bộ Tài chính có ý kiến về nguồn Trái phiếu Chính phủ phê duyệt cho giai đoạn 2016 – 2020. Hiện nay, Văn phòng Chính phủ đang tổng hợp ý kiến của các Bộ, ngành để trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
3. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: Cử tri đề nghị tăng chỉ tiêu đào tạo Bác sỹ, Dược sỹ đại học, có cơ chế chính sách tuyển dụng cho các tỉnh miền núi, các tỉnh khó khăn. Đầu tư cở sở vật chất cho công tác Vệ sinh an toàn thực phẩm, hệ thống y tế dự phòng cấp tỉnh, huyện .
Trả lời:
1. Về kiến nghị tăng chỉ tiêu đào tạo Bác sỹ, Dược sỹ Đại học
Nhu cầu bác sĩ và dược sĩ (đại học) được nhiều tỉnh, thành phố đề xuất với Bộ Y tế từ nhiều năm nay do vai trò quan trọng của họ trong hệ thống chăm sóc sức khỏe nhân dân. Để giải quyết tình trạng này, từ năm 2000, chỉ tiêu tuyển bác sỹ, dược sỹ đại học đã tăng lên và đạt đến mức tối đa so với năng lực đào tạo của các trường.
Theo số liệu báo cáo của các cơ sở đào tạo, năm 2015 và 2016, mỗi năm toàn quốc có khoảng 8.000 bác sĩ ra trường. Năm 2015, toàn quốc có hơn 10.000 bác sỹ nhập học, chỉ tiêu của 2016 gần 11.000 bác sỹ. Đối với dược sỹ đại học, năm 2015 có khoảng gần 3.000 dược sỹ ra trường, năm 2016 có gần 3.500 dược sỹ ra trường. Số lượng sinh viên dược đại học năm 2015 là hơn 8.000 sinh viên và là gần 9.000 ở năm 2016.
Qua số liệu trên có thể thấy, chỉ tiêu đào tạo bác sỹ, dược sỹ đại học hiện nay rất lớn. Số lượng bác sỹ, dược sỹ ra trường sẽ tiếp tục tăng đáng kể trong các năm tới và có thể cung cấp đủ bác sỹ, dược sỹ đại học cho hệ thống y tế. Số chỉ tiêu hiện nay có thể nói đã ở mức tối đa so với năng lực của các cơ sở đào tạo. Việc tiếp tục tăng chỉ tiêu sẽ dẫn tới tình trạng chất lượng đào tạo tiếp tục giảm và chất lượng nhân lực y tế sẽ bị ảnh hưởng. Trong thời gian qua, để hỗ trợ các tỉnh, thành thuộc các khu vực khó khăn, theo thẩm quyền được giao, Bộ Y tế đã có văn bản gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo ủng hộ bố trí chỉ tiêu đào tạo theo địa chỉ nhân lực y tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đào tạo theo địa chỉ chỉ góp phần tăng số lượng và chưa góp phần tương xứng để tăng chất lượng dịch vụ y tế.
Bộ Y tế nhận thấy giải pháp đào tạo chỉ là một phần trong các giải pháp nhằm tăng số lượng bác sỹ, dược sỹ công tác tại mỗi địa phương. Để có thể tăng cường cả chất lượng và số lượng đội ngũ nhân lực y tế, các tỉnh cần chú trọng các giải pháp, cơ chế về tuyển dụng, sử dụng để có thể thu hút nhân lực có chất lượng về công tác tại địa phương.
2. Về kiến nghị có cơ chế chính sách tuyển dụng cán bộ y tế cho các tỉnh miền núi, các tỉnh khó khăn
Chính sách tuyển dụng công chức, viên chức nói chung và cán bộ y tế cho các tỉnh miền núi, các tỉnh khó khăn nói riêng được phân cấp cho các tỉnh thực hiện theo quy định của Pháp luật.
- Đối với đối tượng công chức, việc tuyển dụng được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 quy định về tuyển dụng, sử dụng quản lý công chức và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan khác.
- Đối với đối tượng là viên chức, việc tuyển dụng được thực hiện theo quy định của Luật Viên chức, Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức và các văn bản liên quan khác.
Các chính sách ưu tiên trong tuyển dụng do Bộ Nội vụ là cơ quan quản lý nhà nước về công chức, viên chức ban hành hoặc tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành. Bên cạnh đó, nhiều địa phương đã xây dựng các chính sách thu hút, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực y tế, tuy nhiên, các cơ chế chính sách tuyển dụng phải được thực hiện theo quy định của pháp luật.
3. Kiến nghị đầu tư cơ sở vật chất cho công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, hệ thống y tế dự phòng cấp tỉnh, huyện
Bộ Y tế luôn coi công tác y tế dự phòng (trong đó có vệ sinh an toàn thực phẩm) là vấn đề chủ yếu và quan trọng trong công tác phòng, chống dịch bệnh, dập dịch kịp thời, tránh lây lan trong cộng đồng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo Chiến lược Quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn 2030, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày 10/01/2013.
Giai đoạn từ năm 2015 trở về trước, công tác vệ sinh an toàn thực phẩm là một trong 04 Chương trình mục tiêu Quốc gia ngành Y tế đã được Quốc hội thông qua và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Theo đó, các cơ sở vật chất, trang thiết bị liên quan đến công tác vệ sinh an toàn thực phẩm (bao gồm các Labo kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm đặt tại các Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh và các Trung tâm kiểm nghiệm thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm) đã được Bộ Y tế quan tâm và đầu tư bước đầu tại 11 tỉnh nghèo, miền núi, khó khăn, với tổng kinh phí đầu tư bổ sung có mục tiêu từ ngân sách Trung ương là 105.700 triệu đồng.
Giai đoạn 2016-2020, mặc dù không có Chương trình mục tiêu Quốc gia ngành Y tế, Bộ Y tế cũng vẫn đề xuất và đã được các Bộ/ngành chức năng thẩm định, đang trình Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư để được thực hiện 02 Chương trình mục tiêu: Y tế - Dân số và Hỗ trợ đầu tư phát triển hệ thống y tế địa phương.
Theo đó, dự án sẽ tiếp tục bổ sung có mục tiêu từ nguồn vốn đầu tư phát triển Trung ương để đầu tư cơ sở vật chất, cung cấp trang thiết bị cho các Trung tâm y tế dự phòng và Dân số - Kế hoạch hóa gia đình tuyến tỉnh, vùng gồm trung tâm y tế dự phòng, y học lao động và vệ sinh môi trường, phòng, chống HIV/AIDS, phòng chống lao, phòng chống sốt rét, da liễu, trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản, trung tâm giám định, trung tâm kiểm nghiệm thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm, trung tâm tư vấn và dịch vụ dân số - kế hoạch hóa gia đình, chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm, bệnh viện, trung tâm khám chữa bệnh công lập tuyến tỉnh…nằm trong quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt, đang đầu tư dở dang hoặc chưa được đầu tư, trong đó ưu tiến hỗ trợ đầu tư cho các tỉnh nghèo, không tự cân đối được ngân sách.
4. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Đề nghị ngành Y tế cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giải thích cho cử tri, nhân dân hiểu đúng chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về lộ trình bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân, việc tham gia bảo hiểm y tế là nhằm đảm bảo quyền lợi của họ, tránh gặp khó khăn về kinh tế khi không may bị mắc bệnh và phải nằm viện điều trị. Vì hiện nay, cử tri (nhất là cử tri ở vùng sâu, vùng xa) vẫn còn thiếu những thông tin về phương thức đóng bảo hiểm y tế, quyền lợi được hưởng thụ khi tham gia bảo hiểm y tế, nhận thức chưa đúng tính nhân văn của chính sách an sinh xã hội này.
Trả lời:
Để triển khai thực hiện nghiêm Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn, hằng năm Bộ Y tế phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện nhiều hoạt động truyền thông, tuyên truyền về chính sách pháp luật bảo hiểm y tế tới mọi tầng lớp nhân dân với nhiều hình thức khác nhau như:
- Tổ chức các hội nghị phổ biến chính sách, pháp luật bảo hiểm y tế với các cơ quan, đoàn thể liên quan tới thực hiện chính sách bảo hiểm y tế (BHYT), tổ chức các lớp tập huấn về chính sách và truyền thông về chính sách, pháp luật BHYT cho đội ngũ cán bộ sở y tế, các cơ sở y tế các tuyến, Trung tâm Truyền thông giáo dục sức khỏe các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương.
- Phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Ban Dân vận Trung ương,… tổ chức các lớp tập huấn tuyên truyền, cung cấp thông tin về chính sách bảo hiểm y tế và vận động nhân dân tham gia BHYT cho đối tượng nòng cốt là báo cáo viên cấp tỉnh/thành phố, giúp cho việc lan tỏa thông tin xuống từng cụm dân cư hiệu quả nhất.
- Chủ động cung cấp thông tin cho phóng viên các cơ quan báo chí Trung ương để viết tin, bài, phóng sự về các quy định của chính sách, pháp luật BHYT, lộ trình thực hiện BHYT toàn dân trên các phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức các buổi tọa đàm, giao lưu trực tuyến về bảo hiểm y tế hộ gia đình, quyền lợi và nghĩa vụ của người tham gia BHYT, thủ tục tham gia BHYT; tổ chức các buổi đối thoại chính sách với cộng đồng dân cư tại nhiều tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương.
Ngoài ra, Bộ Y tế cũng đã chỉ đạo Sở Y tế các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp với Cơ quan bảo hiểm xã hội cấp tỉnh, huyện và các Sở, ban, ngành của địa phương thực hiện các hoạt động truyền thông, tuyên truyền về chính sách, pháp luật bảo hiểm y tế tới mọi tầng lớp nhân dân.
Để tiếp tục đẩy mạnh việc cung cấp thông tin về chính sách bảo hiểm y tế và vận động nhân dân tham gia BHYT, Bộ Y tế sẽ tiếp tục thực hiện các hoạt động truyền thông, tuyên truyền về vai trò, ý nghĩa nhân văn của bảo hiểm y tế và các quy định mới của chính sách, pháp luật bảo hiểm y tế, đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa, nhằm giúp các cấp ủy, đảng, chính quyền các cấp và mọi tầng lớp nhân dân hiểu và thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật bảo hiểm y tế, góp phần thực hiện thành công lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân trong thời gian tới.
Cùng với ngành Y tế thì Bảo hiểm xã hội Việt Nam có trách nhiệm chính trong tổ chức tuyên truyền để mở rộng bao phủ Bảo hiểm y tế. Vì vậy, Bộ Y tế sẽ phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam để triển khai công tác này; đồng thời Bộ Y tế sẽ chỉ đạo Sở Y tế các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp với Bảo hiểm xã hội địa phương thực hiện truyền thông về Bảo hiểm Y tế trong công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe nhân dân, chú ý đến những đối tượng cụ thể và hình thức phù hợp với điều kiện tiếp cận thông tin của nhân dân vùng sâu, vùng xa.
5. Cử tri tỉnh Thái Nguyên kiến nghị: Cử tri đề nghị các Bộ, ngành liên quan để tiếp tục có chính sách đặc thù ưu đãi đủ sức thu hút đội ngũ y bác sỹ vào công tác tại các bệnh viện Tâm thần. Hiện nay các bệnh viện Tâm thần thực sự gặp rất nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng bác sỹ. Các bác sỹ làm việc trong các cơ sở y tế khác có điều kiện tăng thu nhập, còn các bác sỹ công tác trong các bệnh viện Tâm thần rất khó khăn, thiệt thòi nên không có sức hấp dẫn để thu hút bác sỹ vào công tác.Trong khi đó do xã hội phát triển, nhận thức của người dân về các loại bệnh thuộc nhóm bệnh tâm thần được nâng lên, đòi hỏi đội ngũ bác sỹ chăm sóc về lĩnh vực tâm thần và thần kinh ngày càng lớn nhưng hiện tại chưa đáp ứng được về cơ sở vật chất và đội ngũ.
Trả lời:
Bộ Y tế đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức công tác tại các cơ sở y tế công lập; theo đó, mức phụ cấp 70% áp dụng đối với công chức, viên chức thường xuyên, trực tiếp xét nghiệm, khám, điều trị, chăm sóc người bệnh tâm thần.
Đội ngũ y, bác sỹ công tác tại các bệnh viện tâm thần cũng được hưởng chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật đối với người lao động làm việc trong điều kiện có yếu tố nguy hiểm, độc hại và một số chế độ phụ cấp đặc thù chung đối với công chức, viên chức, người lao động trong các cơ sở y tế công lập.
Bộ Y tế sẽ tiếp tục nghiên cứu, bổ sung chính sách ưu đãi đủ để thu hút bác sĩ theo các chuyên ngành như tâm thần, giải phẫu bệnh, lao, vi sinh, hóa sinh,…trong thời gian tới.
6. Cử tri TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Về tổ chức bộ máy: Kiến nghị Bộ Y tế sớm ban hành Thông tư hướng dẫn thành lập Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC).
Trả lời:
Thực hiện Nghị định số 24/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Nghị định số 37/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, liên Bộ Y tế - Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 51/2015/TTLT-BYT-BNV ngày 11/12/2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Y tế thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Phòng Y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Theo văn bản này, tại tuyến tỉnh thực hiện mô hình Trung tâm Kiểm soát bệnh tật, phù hợp với nhu cầu, điều kiện thực tế, xu thế phát triển và hội nhập quốc tế. Việc tổ chức thực hiện theo lộ trình, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định phù hợp với quy hoạch và nhu cầu, điều kiện thực tế ở địa phương, bảo đảm đúng theo quy định của pháp luật (Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương).
Hiện nay, Bộ Y tế đang nghiên cứu mô hình tổ chức Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) để có cơ sở thực tiễn xây dựng văn bản, đồng thời đã thành lập Ban soạn thảo và tổ biên tập xây dựng Thông tư hướng dẫn chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức Trung tâm Kiểm soát bệnh tật. Sau khi xây dựng xong dự thảo Thông tư, Bộ Y tế sẽ tổ chức Hội thảo và xin ý kiến 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan, tổ chức liên quan để có thể hoàn thiện và ban hành Thông tư vào thời gian sớm nhất.
7. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị Bộ Y tế có cơ chế, chính sách tăng cường bác sỹ giỏi về công tác tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Quảng Nam; đồng thời, kiểm tra, chấn chỉnh y đức của đội ngũ y, bác sỹ tại các bệnh viện công lập để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân .
Trả lời:
Kiến nghị này đã được Bộ Y tế trả lời tại Công văn số 145/BYT-VPB1, ngày 11/01/2016 về việc trả lời kiến nghị của cử tri gửi tới Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XIII. Bộ Y tế xin trình bày lại nội dung này như sau:
1. Về cơ chế chính sách tăng cường bác sỹ giỏi về công tác tại Bệnh viện đa khoa Trung ương Quảng Nam
Hiện nay, Bệnh viện đa khoa Trung ương Quảng Nam có tổng số 106 bác sỹ, trong đó có 02 Phó Giáo sư, 10 Thạc sỹ y khoa, 02 Bác sỹ Chuyên khoa II, 40 Bác sỹ Chuyên khoa I. Đây là bệnh viện hạng I theo xếp hạng của Bộ Y tế.
Để tiếp tục tăng cường số lượng bác sỹ giỏi về công tác tại Bệnh viện đa khoa Trung ương Quảng Nam, Bệnh viện cần xây dựng kế hoạch cụ thể về nhu cầu số lượng bác sỹ, Thạc sỹ y khoa, bác sỹ Chuyên khoa II, bác sỹ Chuyên khoa I về làm việc và có công văn đề xuất với Bộ Y tế để có phương án bố trí nhân lực. Trong thời gian tới Bộ Y tế sẽ tiếp tục triển khai Quyết định số 14/QĐ-TTg ngày 20/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, đặc biệt quan tâm triển khai mô hình bệnh viện vệ tinh, bảo đảm 100% các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có bệnh viện vệ tinh nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh để cung cấp dịch y tế có chất lượng, kỹ thuật cao phục vụ người dân ngay tại địa phương.
2. Về việc kiểm tra, chấn chỉnh y đức của đội ngũ y, bác sỹ tại các bệnh viện công lập để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân
Không chỉ hiện nay, mà ngay từ những năm 1970, tinh thần thái độ phục vụ người bệnh đã trở thành vấn đề luôn được quan tâm của ngành Y tế. Bộ Y tế đã ban hành nhiều Chỉ thị về chấn chỉnh công tác bệnh viện, về việc chấn chỉnh tinh thần, thái độ phục vụ trong các cơ sở phòng bệnh, chữa bệnh như: Chỉ thị số 06/BYT-CT ngày 15/03/1974; Chỉ thị số 10/BYT-CT ngày 27/11/1975. Chỉ đạo của ngành Y tế càng quyết liệt hơn trong những năm 1990 với một loạt các quy định như: Quyết định số 2088/BYT-QĐ ngày 6/11/21996 ban hành qui định về y đức; Quyết định số 2526/QĐ-BYT ngày 21/8/1999 ban hành tiêu chuẩn cụ thể phấn đấu về y đức; Chỉ thị số 09/2001/CT-BYT ngày 8/8/2001 về tăng cường y đức nâng cao tinh thần thái độ phục vụ và chất lượng chăm sóc người bệnh tại các cơ sở y tế; Quyết định số 4031/2001/QĐ-BYT về việc ban hành “Quy định về chế độ giao tiếp trong các cơ sở khám, chữa bệnh”. Gần đây nhất, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Chỉ thị số 09/CTBYT ngày 22/11/2013 về việc tăng cường tiếp nhận và xử lý ý kiến phản ánh của người dân về chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh thông qua đường dây nóng; Thông tư số 07/2014/TT-BYT ngày 25 tháng 02 năm 2014 quy định về quy tắc ứng xử của công chức, viên chức, người lao động làm việc tại các cơ sở y tế, Thông tư số 25/2015/TT-BYTngày 01 tháng 10 năm 2015 quy định về hòm thư góp ý tại các cơ sở y tế. Đặc biệt năm 2015, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Kế hoạch thực hiện “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế, hướng tới sự hài lòng của người bệnh” (theo Quyết định số 2151/QĐ-BYT ngày 04/6/2015). Kế hoạch tập trung vào các giải pháp trước mắt như:
1. Tăng cường tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân viên y tế về Y đức, tầm quan trọng của công tác giao tiếp ứng xử và tăng cường kỹ năng giao tiếp ứng xử của cán bộ, nhân viên y tế.
2. Đẩy mạnh giáo dục kỹ năng giao tiếp ứng xử của cán bộ nhân viên y tế đối với người bệnh, người nhà người bệnh.
4. Chú trọng công tác kiểm tra giám sát tại chỗ bao gồm cả công tác tự kiểm tra giám sát của mỗi cơ sở.
5. Tăng cường kiểm tra, xử lý giám sát việc thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ y tế và thường xuyên tổ chức thu thập ý kiến phản ánh của người bệnh thông qua đường dây nóng 1900-9095 của Bộ Y tế, hộp thư góp ý của người bệnh. Bộ Y tế thường xuyên tiến hành kiểm tra, chỉ đạo các Sở Y tế, Bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế triển khai thực hiện chủ trương đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh.
6. Xây dựng quy chế khen thưởng để kịp thời động viên khuyến khích, vinh danh những tấm gương tốt về giao tiếp ứng xử của cán bộ nhân viên y tế đối với người bệnh, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Hiện nay, toàn ngành Y tế đang tích cực triển khai kế hoạch này và bước đầu đã thu được một số kết quả.
8. Cử tri TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị cần quan tâm nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường y nhằm tạo ra đội ngũ y bác sĩ vừa có tâm vừa có tay nghề chuyên môn cao để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Cử tri cho rằng cơ chế đào tạo ngành y hiện nay chưa hợp lý, chất lượng đào tạo của một số trường y tư thục chưa đạt yêu cầu, đề nghị có giải pháp để chấn chỉnh tình trạng này. Đề nghị Bộ Y tế chấp thuận cho ngành Y tế thành phố triển khai thí điểm cải tiến Chương trình đào tạo Bác sĩ chuyên khoa: Bác sĩ được đào tạo Chuyên khoa 1 ngay sau khi tốt nghiệp (không chờ sau một năm tốt nghiệp như hiện nay); Bác sĩ tốt nghiệp Chuyên khoa 1 học chuyên khoa 2 ngay sau khi tốt nghiệp theo yêu cầu của cơ sở.
Trả lời:
1. Kiến nghị quan tâm tăng cường chất lượng đào tạo cán bộ y tế
Để tăng cường chất lượng đào tạo, Bộ Y tế đã phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan triển khai các công việc sau:
- Chương trình khung mới được xây dựng và đưa vào thực hiện từ năm học 2012-2013 (Thông tư số 01/2012/TT-BGDĐT ngày 13/01/2012). Trên cơ sở thực tiễn của quá trình phát triển đất nước, kế thừa các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới, phù hợp với xu thế hội nhập, việc thực hiện các Chương trình khung mới sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực y tế.
- Dự án “Chương trình phát triển nguồn nhân lực y tế” do Bộ Y tế làm chủ đầu tư (giai đoạn 2011-2016) đã hỗ trợ hầu hết các cơ sở đào tạo Dược sỹ, Bác sỹ, Điều dưỡng, Kỹ thuật viên tăng cường cơ sở vật chất phục vụ dạy học, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ giảng và cơ sở thực hành.
- Hiện nay, Bộ Y tế đang triển khai dự án “Giáo dục và đào tạo nhân lực y tế phục vụ cải cách hệ thống y tế”, với sự hỗ trợ của chuyên gia trong nước và quốc tế, Bộ đang chỉ đạo đổi mới Chương trình đào tạo Bác sỹ và Điều dưỡng theo hướng hội nhập, đào tạo dựa trên năng lực.
- Bộ Y tế chủ trì xây dựng các chuẩn năng lực cơ bản nghề nghiệp, đây là cơ sở để các trường rà soát, xây dựng chương trình giáo dục phù hợp: Chuẩn năng lực cơ bản của Bác sỹ đa khoa, Điều dưỡng, hộ sinh đã được ban hành, chuẩn bị ban hành chuẩn năng lực cho bác sĩ răng hàm mặt.
- Bộ Y tế chủ trì đang xây dựng Nghị định “quy định về điều kiện thực hành và chi phí thực hành trong đào tạo nhân lực y tế”, một nhân tố góp phần quyết định nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực y tế.
- Tăng cường công tác tự đảm bảo chất lượng trong các cơ sở đào tạo và kiểm định chất lượng giáo dục.
2. Kiến nghị về chất lượng đào tạo của các trường y tư thục
Bộ Y tế rất quan tâm đến chất lượng đào tạo của trường dân lập, do các trường này mới thành lập, và các trường đều được giao chỉ tiêu rất cao ngay sau khi mở mã ngành đào tạo. Trong khi các trường công lập, dù đã thành lập nhiều năm, nhưng khi mở một mã ngành mới cũng chỉ đăng ký bắt đầu với số lượng hạn chế để đảm bảo chất lượng.
Theo thẩm quyền được Chính phủ giao, Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan quản lý, chịu trách nhiệm về cho phép mở ngành đào tạo mới cũng như giám sát, kiểm tra, thanh tra chất lượng đào tạo của các trường dân lập.
Tuy nhiên, với trách nhiệm về chất lượng đội ngũ nhân lực y tế, Bộ Y tế cũng đã có báo cáo lên Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam và có công văn gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị thành lập các đoàn công tác giám sát, kiểm tra chất lượng của các cơ sở đào tạo nói trên. Nhưng đến nay, Bộ Y tế chưa nhận được phản hồi của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Bộ Y tế cảm ơn cử tri đã quan tâm đến vấn đề này, và Bộ Y tế trân trọng đề nghị cử tri cùng có ý kiến đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo để góp phần tăng cường chất lượng đào tạo nhân lực y tế.
3. Kiến nghị thí điểm cải tiến Chương trình đào tạo Bác sĩ chuyên khoa
Học chuyên khoa cấp I là bậc học sau đại học đặc thù ngành Y tế, kết thúc khóa đào tạo học viên có khả năng thực hành nghề nghiệp về một chuyên ngành cụ thể một cách độc lập. Theo Luật Khám bệnh chữa bệnh 2009, bác sỹ sau khi tốt nghiệp phải thực hành tại cơ sở khám chữa bệnh đủ 18 tháng mới được cấp chứng chỉ hành nghề khám chữa bệnh. Như vậy chỉ sau khi có chứng chỉ hành nghề khám chữa bệnh, bác sỹ mới được phép trực tiếp thăm khám, thực hiện các thủ thuật/kỹ thuật trên người bệnh.
Song xuất phát từ nhu cầu thực tế, Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh đề xuất phương án cho phép bác sỹ học chuyên khoa cấp I ngay sau khi tốt nghiệp. Bộ Y tế đã xem xét và đồng ý cho phép Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh xây dựng đề án, chương trình thí điểm đào tạo chuyên khoa cấp I ngay sau khi tốt nghiệp bác sỹ, với thời gian đào tạo là 3 năm (chương trình hiện tại là 2 năm). Trong đó 1 năm đầu là học chương trình đa khoa, hai năm sau là học chương trình chuyên khoa.
Hiện nay, Bộ Y tế đang trong quá trình chỉnh sửa, bổ sung các Quy chế đào tạo sau đại học đặc thù ngành Y tế (chuyên khoa I, chuyên khoa II, bác sỹ nội trú). Dự thảo quy chế mới chú trọng đến việc nâng cao chất lượng đào tạo, tạo điều kiện cho học viên sớm đạt được trình độ cao để có nhiều thời gian cống hiến cho xã hội, với quan điểm đó Bộ Y tế sẽ sớm ban hành quy định việc bác sỹ sau khi tốt nghiệp chuyên khoa cấp I có thể dự thi tuyển học chuyên khoa cấp II ngay nếu đảm bảo các điều kiện thi tuyển đầu vào.
9. Cử tri tỉnh An Giang kiến nghị: Cử tri phản ánh, Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg ngày 11/5/2009 về việc quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản không áp dụng đối với nhân viên y tế tại các tổ dân phố thuộc các phường, thị trấn là chưa công bằng. Đề nghị Bộ Y tế xem xét điều chỉnh.
Trả lời:
Bộ Y tế xin tiếp thu ý kiến này của cử tri. Hiện Bộ Y tế đang tiến hành rà soát, tổng hợp để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
10. Cử tri tỉnh Bình Dương kiến nghị: Cử tri kiến nghị cần phải tổ chức kiểm tra, giám sát công tác giám định y khoa đối với các hồ sơ thương, bệnh binh nhằm ngăn ngừa và xử lý nghiêm các trường hợp do công tác giám định y khoa không đúng dẫn đến chi sai chế độ, chính sách cho một số đối tượng.
Trả lời:
Để giải quyết chế độ chính sách cho một đối tượng cụ thể, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm toàn bộ quá trình hoàn thiện Hồ sơ của đối tượng, bao gồm việc chuẩn bị, lập hồ sơ, kiểm tra hồ sơ, xác nhận đối tượng… Ngành Y tế căn cứ vào Hồ sơ này và Giấy giới thiệu của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, xem xét tình trạng thương tật, bệnh tật cụ thể của đối tượng để khám giám định và ban hành Biên bản khám giám định để ngành Lao động - Thương binh và Xã hội ra Quyết định cho đối tượng hưởng chế độ chính sách.
Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã chỉ đạo các đơn vị thực hiện đúng chắc năng, nhiệm vụ theo thẩm quyền của mình, đặc biệt đã tăng cường việc kiểm tra công tác giám định y khoa tại các Trung tâm Giám định y khoa của các địa phương. Bộ cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn, chấn chỉnh công tác khám, xác nhận bệnh tật liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học, công tác khám giám định đối với các đối tượng thương binh..., với các nội dung cụ thể như:
- Trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn hàng ngày, bác sỹ điều trị cần khám lâm sàng cẩn thận, chỉ định làm các xét nghiệm phù hợp theo đúng quy chế chuyên môn, chẩn đoán đúng bệnh, tật, đặc biệt lưu ý những bệnh, tật, dị dạng, dị tật nằm trong danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật được ban hành tại Điều 2 Thông tư liên tịch số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH, nhất là các bệnh: Bệnh thần kinh ngoại biên cấp tính hoặc bán cấp tính (Acute and subacute peripheral neuropathy), bệnh đái tháo đường type 2 (Type 2 Diabetes) và Rối loạn tâm thần (Metal disorders). Các bác sỹ cần nâng cao năng lực chuyên môn và bản lĩnh chính trị, hạn chế giới thiệu lên tuyến trên, gây hiện tượng quá tải không cần thiết cho các bệnh viện tuyến Trung ương.
Những ca bệnh còn nghi ngờ, hoặc khó chẩn đoán cần tổ chức hội chẩn chuyên môn để xác định từng bệnh, từng trường hợp cụ thể và bác sỹ chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả chẩn đoán bệnh, tật của mình.
- Chỉ có Thủ trưởng Đơn vị hoặc cấp Phó ký tên, đóng dấu của Đơn vị vào Giấy ra viện của đối tượng đến khám giám định, hoặc Giấy trích sao bệnh án cho những bệnh nhân được chẩn đoán bị mắc bệnh, tật, dị dạng, dị tật có tên trong danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật nêu trên (không ủy quyền cho cấp dưới) và phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cấp Giấy ra viện, hoặc Giấy trích sao bệnh án của Đơn vị mình.
- Giám định viên y khoa, các thành viên của Hội đồng giám định y khoa các cấp khi thực hiện việc khám giám định, phải nghiêm túc thực hiện đúng các quy trình, thủ tục giám định và các hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ để khám giám định đúng đối tượng, xác định đúng bệnh, tật và đúng mức độ bệnh, tật của đối tượng được khám giám định theo đúng các quy định của pháp luật, bảo đảm công bằng, chính xác, khách quan và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận khám giám định của mình. Đồng chí Chủ tịch Hội đồng Giám định y khoa phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận khám giám định của Hội đồng do mình làm chủ tịch.
- Giao Viện Giám định y khoa có trách nhiệm hướng dẫn và kiểm tra, đôn đốc các Hội đồng Giám định y khoa tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, phân Hội đồng giám định Trung ương I, II thực hiện việc khám, giám định cho các đối tượng theo đúng các quy định của pháp luật.
Trong thực tế, công tác Giám định y khoa nói chung, đặc biệt là công tác khám giám định để phục vụ chính sách người có công, gặp rất nhiều khó khăn: Các bác sỹ không muốn về làm việc tại các Trung tâm Giám định y khoa do công việc rất nhạy cảm nhưng thu nhập thấp hơn nhiều so với các bác sỹ công tác tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác; cơ sở vật chất của các Trung tâm Giám định y khoa chưa được các cấp chính quyền địa phương quan tâm đầu tư… nên cũng ảnh hưởng tới kết quả công tác. Thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát công tác chuyên môn của Hội đồng giám định y khoa tại các địa phương, để công tác Giám định y khoa ở các địa phương ngày càng tốt hơn.
11. Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Cử tri tiếp tục đề nghị quan tâm thực hiện tốt chế độ cho các đối tượng chính sách, đổi mới và hoàn thiện chính sách việc làm cho người lao động, chính sách nhà ở đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động có mức thu nhập thấp; hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.
Trả lời:
Bộ Y tế trân trọng cảm ơn và xin tiếp thu kiến nghị của cử tri Hải Phòng về hoàn thiện hệ thống bảo hiểm y tế. Với trách nhiệm của mình, Bộ Y tế tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành chức năng đẩy mạnh việc thực hiện tốt chế độ chính sách Bảo hiểm y tế cho người lao động.
12. Cử tri tỉnh Cần Thơ, Bạc Liêu kiến nghị: Kiến nghị xem xét, trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về chế độ phụ cấp thâm niên đối với cán bộ ngành Y tế, nhằm tạo điều kiện để đội ngũ y bác sĩ làm nhiệm vụ khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân tại các cơ sở y tế công lập có thêm thu nhập, ổn định cuộc sống.
Trả lời:
Thực hiện Nghị quyết số 46/NQ-TW ngày 23/02/2005, Kết luận số 42 KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị và Kết luận số 118-KL/TW ngày 04/01/2016 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, trong thời gian qua, Bộ Y tế đã tích cực tham mưu, đề xuất với Chính phủ ban hành nhiều chính sách chế độ cho cán bộ y tế. Bộ Y tế cũng đã kiến nghị với Chính phủ về chính sách về chế độ phụ cấp thâm niên cho cán bộ y tế. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, hiện chính sách này chưa được ban hành. Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tiếp tục đề nghị, trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về chế độ phụ cấp thâm niên đối với cán bộ ngành Y tế.
13. Cử tri tỉnh Hải Dương, Đắk Nông, TP. Hồ Chí Minh, Lạng Sơn kiến nghị: Cử tri cho rằng giá dịch vụ khám chữa bệnh như hiện nay quá cao so với thu nhập của người nông dân, trong khi đó lại còn tăng 30% với lý do nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, nhưng thực tế chất lượng tăng hay không thì chưa có tiêu chí nào để đánh giá. Đề nghị các Bộ, ngành cần nghiên cứu để có điều chỉnh cho phù hợp; xem xét lại định mức chi trả cho sát thực tế và khả năng chi trả của người bệnh. Đồng thời, quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, đội ngũ y bác sĩ cho các bệnh viện tuyến dưới để giảm quá tải đối với các bệnh viện tuyến trên.
Trả lời:
Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã chủ trương đẩy mạnh cải cách tài chính công, đặc biệt là chuyển đổi cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp y tế theo hướng (i) giao quyền tự chủ cho các đơn vị, (ii) chuyển phần ngân sách cấp trực tiếp cho các bệnh viện sang hỗ trợ người dân tham gia BHYT gắn với lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế.
Thực hiện chủ trương này, giá dịch vụ y tế cần phải được tính đúng, tính đủ và thực hiện theo lộ trình quy định tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ. Cụ thể: đến năm 2016, trong giá dịch vụ cần phải tính đủ chi phí trực tiếp và tiền lương, đến năm 2018 tính đủ chi phí trực tiếp, tiền lương, chi phí quản lý và đến năm 2020, tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định.
Thời gian vừa qua, giá dịch vụ y tế mới chỉ được tính một phần các chi phí trực tiếp; theo lộ trình thì năm 2016, sẽ tính thêm tiền lương trong giá dịch vụ y tế, nên mức sẽ có tăng so với giá trước đây. Tuy nhiên, việc thực hiện mức giá mới sẽ có lợi cho khoảng 77% dân số đã tham gia BHYT, vì được BHYT chi trả, người bệnh không phải trả thêm hoặc phải tự mua một số loại thuốc, vật tư như trước đây khi những yếu tố này chưa tính vào trong giá. Mức giá mới này cũng không ảnh hưởng đến người nghèo, các đối tượng chính sách xã hội, trẻ em dưới 6 tuổi, đồng bào dân tộc sinh sống ở vùng kinh tế xã hội khó khăn, người dân sinh sống ở các xã đảo, huyện đảo, xã đặc biệt khó khăn và người cận nghèo vì những nhóm đối tượng này đã được Nhà nước mua hoặc hỗ trợ mua thẻ BHYT, khi họ đi khám, chữa bệnh thì theo quy định họ được BHYT thanh toán.
Để người dân không lâm vào tình trạng không có khả năng chi trả chi phí khám chữa bệnh khi ốm đau, Quốc hội đã ban hành Luật BHYT, trong đó có yêu cầu BHYT là bắt buộc, nghĩa là mọi người dân đều phải tham gia BHYT, để khi đau ốm họ sẽ được BHYT chi trả chi phí. Để thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân, Chính phủ đã có chính sách hỗ trợ cho những người thuộc diện chính sách, nghèo, khó khăn,…, đặc biệt, Chính phủ cũng đã có chính sách hỗ trợ cho người làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình tham gia BHYT với mức hỗ trợ tối thiểu 30%, khuyến khích các địa phương sử dụng ngân sách địa phương và các nguồn hợp pháp khác để hỗ trợ thêm cho người dân tham gia BHYT, khi tham gia cả Hộ gia đình sẽ được giảm mức đóng. Đồng thời, Chính phủ sẽ dần chuyển phần ngân sách đang cấp cho các bệnh viện hiện nay sang hỗ trợ người dân tham gia BHYT thông qua việc tăng đối tượng được hỗ trợ BHYT hoặc tăng mức hỗ trợ để người dân có điều kiện tham gia BHYT.
Trong những năm vừa qua, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt một số Chương trình, Đề án đầu tư từ các nguồn vốn ngân sách nhà nước, Trái phiếu Chính phủ, ODA,...(Đề án 47, Đề án 930, Đề án 362, Đề án 317, chương trình mục tiêu quốc gia y tế dân số, Đề án 125, các dự án ODA hỗ trợ y tế địa phương,..) để xây dựng mới, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế cho các cơ sở y tế từ tuyến trung ương, tuyến tỉnh, tuyến huyện nhằm nâng cao năng lực khám, chữa bệnh cho cả hệ thống, dần dần đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Triển khai nhiều giải pháp để thực hiện đề án giảm tải bệnh viện theo Quyết định số 92/QĐ-TTg của Thủ tướng, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới, nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề cho đội ngũ thầy thuốc, nhân viên y tế.
Trong giai đoạn tới, Bộ Y tế tiếp tục trình Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ triển khai tiếp các Đề án, chương trình, dự án đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, Trái phiếu Chính phủ, ODA nhằm tiếp tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng nhất là trang thiết bị y tế hiện đại cho các cơ sở y tế để phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh của người dân trong thời gian tới.
14. Cử tri tỉnh Bình Định, TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Tăng cường các giải pháp phòng ngừa dịch bệnh, nhất là các dịch bệnh có khả năng lây lan cao và phức tạp; quan tâm đầu tư hệ thống y tế dự phòng, chủ động thực hiện các giải pháp phòng ngừa dịch bệnh nhằm đảm bảo chăm lo tốt sức khỏe nhân dân.
Trả lời:
1. Kiến nghị tăng cường các giải pháp phòng ngừa dịch bệnh
Trong thời gian qua Bộ Y tế đã phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội tích cực, chủ động triển khai nhiều biện pháp phòng, chống dịch bệnh có hiệu quả như:
- Đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức và chuyển đổi hành vi của người dân trong việc áp dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh. Bộ Y tế tập trung chỉ đạo đa dạng hóa các loại hình truyền thông cả trên các trang mạng xã hội, giao lưu trực tuyến, trên đài báo, truyền hình, kết hợp với việc truyền thông vận động tại các hộ gia đình; thường xuyên chủ động cung cấp thông tin sớm, cập nhật tình hình dịch bệnh và khuyến cáo phòng chống dịch bệnh trên website của Bộ Y tế.
- Tăng cường kiểm dịch y tế tại các cửa khẩu, giám sát chặt chẽ dịch bệnh tại cộng đồng, phát hiện sớm, xử lý triệt để ổ dịch; thực hiện phân tuyến điều trị, phân luồng tiếp nhận khám thu dung, điều trị bệnh nhân; thiết lập các bệnh viện vệ tinh và tăng cường thực hiện các biện pháp cách ly, phòng lây nhiễm chéo tại các bệnh viện. Thường xuyên cập nhật các hướng dẫn chuyên môn, kỹ thuật triển khai thực hiện tại các tuyến tỉnh, huyện, xã. Đặc biệt trong năm 2014 - 2015, Bộ Y tế đã tổ chức các chiến dịch tiêm vét vắc xin sởi cho trẻ em 1 đến 2 tuổi trên phạm vi toàn quốc, tiêm bổ sung vắc xin sởi cho trẻ em từ 1 đến 10 tuổi tại một số tỉnh, thành phố trọng điểm, chiến dịch tiêm vắc xin sởi - rubella cho toàn bộ trẻ em từ 1 đến 14 tuổi, hiện đã tiêm được trên 20 triệu trẻ em, đạt tỷ lệ trên 95%, năm 2016 tiếp tục tổ chức tiêm cho các đối tượng 16-17 tuổi.
- Đẩy mạnh vai trò quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân các cấp cũng như việc triển khai thực hiện của các đơn vị chuyên môn kỹ thuật tại các địa phương. Trong năm 2016 Bộ Y tế đã thành lập hàng chục đoàn công tác do trực tiếp lãnh đạo Bộ Y tế làm trưởng đoàn, đồng thời cử Lãnh đạo các Vụ, Cục, Viện đi kiểm tra, giám sát, chỉ đạo công tác phòng chống dịch tại địa phương. Các đoàn công tác trực tiếp đến các khu vực ổ dịch, nơi vùng sâu, vùng xa nhằm phát hiện những vướng mắc và cùng tháo gỡ tại địa phương, trong đó xác định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc chăm sóc sức khỏe cho người dân nói chung và quản lý, điều hành các hoạt động phòng chống dịch bệnh tại các địa phương nói riêng.
- Huy động sự tham gia của các ban ngành, các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và các nguồn lực để hỗ trợ, xử lý dập dịch triệt để, đặc biệt là nâng cao trách nhiệm ứng phó với dịch bệnh của chính quyền địa phương các cấp, đáp ứng có hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh, Bộ Y tế đã tham mưu với Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 02/2016/QĐ-TTg ngày 28/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ về Quy định điều kiện công bố dịch, công bố hết dịch bệnh truyền nhiễm, đến nay đã có 03 tỉnh, thành phố công bố dịch bệnh quy mô xã.
Trong thời gian tới, nhằm tiếp tục triển khai có hiệu quả các kế hoạch phòng chống dịch bệnh, giữ vững các thành quả đã đạt được, khống chế kịp thời dịch bệnh, không để dịch lớn xảy ra góp phần bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân và phát triển kinh tế, xã hội, trong thời gian tới, Bộ Y tế tiếp tục triển khai quyết liệt kế hoạch tổng thể phòng chống dịch bệnh năm 2016, kế hoạch phòng chống các bệnh dịch nguy hiểm như Ebola, MERS-CoV, dịch hạch, cúm A(H7N9), cúm A(H5N6), Zika, phòng chống sốt xuất huyết tới từng đơn vị y tế, đồng thời huy động các Bộ, ngành, chính quyền, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội tham gia tích cực vào công tác phòng chống dịch bệnh.
- Về công tác chỉ đạo: Kịp thời chỉ đạo các địa phương, đơn vị triển khai tốt công tác phòng chống dịch chủ động, đáp ứng nhanh với các ổ dịch ngay khi nhận được thông tin về ổ dịch và thực hiện đầy đủ các hướng dẫn chuyên môn của Bộ Y tế; đẩy mạnh hoạt động của Ban chỉ đạo phòng chống dịch bệnh để thống nhất các biện pháp phòng chống dịch trên toàn quốc; tham mưu kịp thời Thủ tướng Chính phủ ban hành các công điện chỉ đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, các Bộ, ngành khi có nguy cơ bùng phát dịch bệnh.
- Về công tác chuyên môn: Tăng cường giám sát dịch bệnh tại các cửa khẩu, cộng đồng, mở rộng việc giám sát trọng điểm quốc gia, thường xuyên theo dõi dịch bệnh trên thế giới, ngăn chặn không để xâm nhập dịch bệnh do Ebola, MERS-CoV, cúm A(H7N9) và không để bùng phát dịch bệnh trong nước (tay chân miệng, sốt xuất huyết, Zika …); triển khai mạnh mẽ hoạt động của Văn phòng đáp ứng các tình huống khẩn cấp phòng chống dịch bệnh (Văn phòng EOC) triển khai giám sát dịch bệnh dựa vào sự kiện, nhanh chóng xác minh các ổ dịch, kịp thời phối hợp với các tổ chức quốc tế, trong nước chia sẻ thông tin và biện pháp phòng chống, điều phối các hoạt động phòng chống theo tình huống dịch bệnh; triển khai báo cáo bệnh truyền nhiễm bằng phần mềm trực tuyến tại 63/63 tỉnh, thành phố nhằm thông tin kịp thời thông tin chính xác về từng trường hợp mắc bệnh, các ổ dịch để triển khai đáp ứng, dập tắt nhanh các ổ dịch bệnh; tăng cường công tác tiêm chủng mở rộng kể cả tại các điểm tiêm vắc xin dịch vụ, đạt tỷ lệ >95% quy mô xã, phường.
- Về công tác truyền thông: Chủ động thực hiện cung cấp rộng rãi, kịp thời thông tin về tình hình dịch bệnh tới người dân thông qua trang website của Bộ Y tế, đa dạng hóa các loại hình truyền thông, chủ động cung cấp thông tin về tình hình dịch bệnh với các cơ quan thông tấn báo chí, đẩy mạnh tuyên truyền trên hệ thống truyền thông cơ sở về các khuyến cáo phòng bệnh, vận động người dân tích cực tham gia tiêm chủng phòng bệnh. Bộ Y tế phát huy mạnh mẽ việc tương tác với người dân qua mạng xã hội, giao lưu trực tuyến để kịp thời truyền tải các thông điệp phòng chống dịch bệnh.
- Về công tác điều trị: Tăng cường công tác thu dung, điều trị bệnh nhân, xây dựng mới các bệnh viện tuyến trung ương tại một số tỉnh, thành phố trọng điểm nhằm giảm quá tải bệnh viện, đẩy mạnh việc chuyển giao kỹ thuật thông qua Đề án 1816 tới các địa phương để nâng cao chất lượng điều trị; thực hiện tốt phân tuyến điều trị và tăng cường các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn, phòng lây nhiễm chéo để hạn chế nhiễm trùng bệnh viện và tử vong.
- Về công tác hợp tác quốc tế: Tham gia tích cực vào chương trình hợp tác an ninh y tế toàn cầu, phối hợp chặt chẽ với mạng lưới các nước và các tổ chức quốc tế tham gia chương trình để chia sẻ thông tin dịch bệnh, các biện pháp phòng chống dịch và huy động các nguồn lực phòng chống dịch bệnh.
- Về công tác hậu cần phục vụ công tác phòng chống dịch, đề xuất với Chính phủ kế hoạch dự trữ quốc gia và xây dựng dự trữ của ngành về trang thiết bị, thuốc, máy móc, trang thiết bị phòng hộ để kịp thời hỗ trợ cho các đơn vị, địa phương khi cần thiết.
- Về công tác kiểm tra, thường xuyên tổ chức các đoàn công tác đi kiểm tra việc thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, hướng dẫn chuyên môn của Bộ Y tế trong công tác phòng chống dịch. Đối với các sự kiện y tế người dân quan tâm, Bộ Y tế chủ động thành lập các đoàn công tác do lãnh đạo Bộ, Cục, Vụ, Viện làm trưởng đoàn trực tiếp đến xác minh, hỗ trợ và chỉ đạo nhằm giải quyết dứt điểm không để tác động kéo dài đối với sức khỏe người dân, đặc biệt là trong xử lý các ổ dịch; làm rõ vai trò, trách nhiệm của các đơn vị, địa phương, đặc biệt là những địa phương có tỷ lệ tiêm chủng thấp, dịch bệnh còn diễn biến phức tạp.
2. Đối với kiến nghị quan tâm đầu tư y tế dự phòng
Xin tham khảo phần nội dung trả lời tại Câu 3 (mục 3)
15. Cử tri tỉnh Đà Nẵng, Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri phản ảnh, hiện nay đang xảy ra một thực trạng rất bất hợp lý là khi người dân bị tai nạn, ốm đau trong trường hợp cấp cứu nên phải nhập viện tại một cơ sở y tế không đúng theo thẻ bảo hiểm y tế đã đăng ký; sau khi bệnh nhân được điều trị thuyên giảm cho xuất viện và hẹn ngày tái khám. Đến ngày tái khám, bệnh nhân đã được điều trị quay trở lại cơ sở y tế đã tiếp nhận điều trị để tái khám thì bị cho là trái tuyến, phải làm giấy chuyển viện. Cử tri cho rằng, quy định này đã gây khó khăn cho người dân và hơn hết là quá trình điều trị sẽ không đảm bảo nếu không làm giấy chuyển viện theo quy định. Đề nghị xem xét điều chỉnh các quy định theo hướng nhanh chóng, gọn nhẹ, tránh phiên hà cho người dân và tránh nhũng hậu quả đáng tiếc xảy ra do lỗi chậm chễ trong vấn đề hoàn tất thủ tục chuyển viện.
Trả lời:
Để tạo thuận lợi cho người tham gia BHYT khi đi khám bệnh, chữa bệnh, theo quy định tại Điều 9, Thông tư số 37/2014/TT-BYT ngày 17/11/2015 về đăng ký khám chữa bệnh ban đầu và chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh BHYT, thủ tục chuyển tuyến của người bệnh BHYT bao gồm: Thẻ BHYT, giấy tờ tùy thân có ảnh và giấy chuyển tuyến của cơ sở khám chữa bệnh nơi trực tiếp chuyển người bệnh đi. Thông tư này cũng đã quy định 47 bệnh, nhóm bệnh và các trường hợp được sử dụng giấy chuyển tuyến đến hết năm dương lịch khi người có thẻ BHYT mắc các bệnh cần phải tái khám và điều trị nhiều lần.
Tại Điều 8, Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC, liên Bộ đã quy định: “Cơ sở y tế, tổ chức Bảo hiểm xã hội không được quy định thêm thủ tục hành chính trong khám bệnh, chữa bệnh BHYT, ngoài các thủ tục quy định tại Điều này. Trường hợp cơ sở y tế, tổ chức Bảo hiểm xã hội cần sao chụp thẻ BHYT, giấy chuyển viện, các giấy tờ liên quan đến khám bệnh, chữa bệnh của người bệnh để phục vụ cho công tác quản lý thì phải tự sao chụp, không được yêu cầu người bệnh sao chụp hoặc chi trả cho khoản chi phí này”.
Ngày 01/5/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 824/QĐ-TTg phê duyệt phương án đơn giản hóa các thủ tục hành chính, quy định liên quan đến khám chữa bệnh cho người dân. Bộ Y tế xin tiếp thu và nghiên cứu điều chỉnh các quy định theo hướng: Bỏ quy định Giấy hẹn tái khám, hướng dẫn cụ thể việc sử dung Giấy chuyển viện, cải cách các thủ tục nhanh chóng, gọn nhẹ, tránh phiên hà cho người dân và tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra do lỗi chậm chễ trong vấn đề hoàn tất thủ tục chuyển viện.
16. Cử tri Hải Dương tỉnh kiến nghị: Nhiều ý kiến cử tri tiếp tục đề nghị không phân tuyến khám bệnh, chữa bệnh BHYT để tạo thuận lợi cho nhân dân.
Trả lời:
Việc phân tuyến chuyên môn, kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh đã được Bộ Y tế quy định theo 4 cấp, dựa trên địa giới hành chính, phạm vi quản lý, khả năng chuyên môn và thực trạng về cơ sở vật chất. Việc đăng ký cơ sở khám chữa bệnh ban đầu và phải đến khám chữa bệnh tại cơ sở đăng ký (trừ trường hợp cấp cứu) là cần thiết và phù hợp vì:
- Giúp cho việc quản lý các đối tượng người bệnh tại mỗi cơ sở.
- Sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lực của cơ sở y tế tuyến dưới, thuận lợi cho người bệnh
- Duy trì tuyến điều trị, giảm chi phí không cần thiết và giảm tải cho các cơ sở khám chữa bệnh tuyến trên.
Đề xuất của cử tri về việc không phân biệt nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu mà người tham gia bảo hiểm y tế có quyền khám bệnh ở tất cả các cơ sở y tế và được thanh toán bảo hiểm y tế với mức tỷ lệ bằng nhau.... là chưa phù hợp với quy định hiện hành của Luật Bảo hiểm y tế, vừa gây khó khăn cho cơ quan quản lý vừa làm quá tải các bệnh viện tuyến trên, dẫn tới tình trạng lãng phí đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực cho tuyến dưới. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế, Điều 28 Luật Bảo hiểm y tế đã quy định: Trường hợp cấp cứu, người tham gia bảo hiểm y tế được khám bệnh, chữa bệnh tại bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào và xuất trình thẻ bảo hiểm y tế cùng với giấy tờ quy định trước khi ra viện để được hưởng quyền lợi về bảo hiểm y tế.
Bên cạnh đó, điều 22 sửa đổi bổ sung Luật Bảo hiểm y tế cũng quy định: Từ ngày 01/01/2016 mở thông tuyến khám chữa bệnh bảo hiểm y tế trong cùng địa bàn tỉnh, theo đó người tham gia bảo hiểm y tế đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện được quyền khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh có mức hưởng theo đúng quy định của Luật mà không bị coi là trái tuyến.
Hiện nay, Bộ Y tế đang tập trung triển khai các Đề án: Bác sỹ gia đình, bệnh viện vệ tinh, đồng thời chỉ đạo nâng cấp và bổ sung các trang thiết bị, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, chuyển giao các dịch vụ kỹ thuật cho đội ngũ y bác sỹ tuyến dưới, để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh, đảm bảo công bằng đối với người tham gia bảo hiểm y tế và bảo đảm quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm y tế.
17 Cử tri TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội kiến nghị: Đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành chức năng tiếp tục nghiên cứu đề ra các giải pháp đồng bộ, hiệu quả nhằm hạn chế tình trạng quá tải, nâng cao chất luợng khám chữa bệnh, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân; thường xuyên cải tiến nâng cao chất lượng khám chữa bệnh BHYT, niêm yết công khai, minh bạch danh mục các loại bệnh, chi phí mổ, thuốc được cấp trong BHYT.
Trả lời:
1. Kiến nghị về giảm quá tải bệnh viện, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân
a. Các giải pháp nhằm giảm quá tải bệnh viện đã triển khai và kết quả
Bộ Y tế đã tích cực triển khai các biện pháp thực hiện Đề án giảm quá tải bệnh viện được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đặc biệt là xây dựng mạng lưới bệnh viện vệ tinh nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ y tế ở tuyến tỉnh, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới,... Bước đầu đã thu được một số kết quả:
- Giảm quá tải khu vực ngoại trú: Quy trình khám bệnh giảm từ 12-14 bước xuống còn 4 – 8 bước tùy theo loại hình khám bệnh; giảm trung bình 48,5 phút trên 1 lượt khám bệnh, tiết kiệm được trung bình 27,2 triệu ngày công lao động/ năm cho xã hội.
- Giảm quá tải khu vực nội trú: So với năm 2012, 58% trong tổng số bệnh viện tuyến Trung ương trước đây có tình trạng nằm ghép, hiện đã và đang có xu hướng giảm số khoa có tình trạng nằm ghép trong bệnh viện; 47% trong tổng bệnh viện tuyến tỉnh trước đây có tình trạng nằm ghép hiện đã và đang có xu hướng giảm tỷ lệ số khoa có nằm ghép trong bệnh viện. Đặc biệt có tới 90 % (35/39 bệnh viện) số bệnh viện tuyến Trung ương đã ký cam kết không để người bệnh nằm ghép giường bệnh trong bệnh viện; tại thành phố Hồ Chí Minh có tới 29/31 bệnh viện tuyến cuối cam kết không để người bệnh nằm ghép trong bệnh viện. Tại Tuyến Trung ương có tới 80% số bệnh viện khảng định cũng như qua theo dõi, giám sát không còn tình trạng người bệnh nằm ghép.
- Xây dựng, cải tạo và mở rộng được nhiều bệnh viện, tăng tỷ lệ giường bệnh/vạn dân: 119 bệnh viện được xây mới (Trung ương: 03; tỉnh, huyện: 116); 1.839 khoa, phòng được xây mới, mở rộng, cải tạo: (Trung ương: 172; tỉnh, huyện: 1.667); 5.129 buồng, bàn khám tăng thêm: (Trung ương 188; tỉnh 2.858; huyện 2.083); Tăng tỷ lệ giường bệnh thực kê/ vạn dân: Năm 2012 (trước khi thực hiện Đề án): 24,7 giường bệnh/ vạn dân (Tuy nhiên, số giường bệnh theo kế hoạch hiện mới đạt 24,1 giường bệnh/vạn dân, tương ứng với tổng số 223.438 giường bệnh).
Riêng các Bệnh viện tuyến trung ương: đã tập trung vốn cho 15 dự án trọng điểm là các công trình khám chữa bệnh hiện đại, trang thiết bị tiên tiến, hoàn thành và đưa vào sử dụng 4.765 giường bệnh của các bệnh viện: Bệnh viện Nhi Trung ương, BV Nội tiết TW, Trung tâm Ung bước Bv Chợ Rẫy, Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Lão khoa, Bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển, Uông Bí, Bệnh viện Thống Nhất và dự kiến sang đầu năm 2016 sẽ hoàn thành Trung tâm Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Da Liễu TW, Nhà 15 tầng BV Đa khoa Trung ương Thái Nguyên.
- Giảm tỷ lệ chuyển tuyến từ tuyến dưới lên tuyến trên: 37,5% số bệnh viện trong Đề án bệnh viện vệ tinh đang giảm dần tỷ lệ chuyển tuyến lên tuyến trên.
- Giảm công suất sử dụng giường bệnh của bệnh viện tuyến Trung ương, tăng công suất sử dụng giường bệnh của bệnh viện tuyến huyện: 63% số bệnh viện tuyến Trung ương đang có xu hướng giảm công suất sử dụng giường bệnh. 25% số bệnh viện tuyến huyện có xu hướng tăng công suất sử dụng giường bệnh.
- Nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ thuật
Tại Bệnh viện tuyến Trung ương đã triển khai thành công nhiều kỹ thuật cao lần đầu tiên triển khai tại Việt Nam như: ghép tế bào gốc trong điều trị ung thư, sử dụng robot mổ nội soi nhi khoa, phẫu thuật tim hở có nội soi hỗ trợ trong thay và sửa van tim, vá các dị tật trong tim… Trên 17.000 kỹ thuật của Thông tư 43/2013/TT-BYT đã đánh dấu nhiều kỹ thuật cao đang thực hiện tại một số bệnh viện đạt trình độ ngang tầm các nước khu vực.
Tại Bệnh viện tuyến dưới: thành lập mạng lưới bệnh viện vệ tinh với 14 bệnh viện hạt nhân và 46 bệnh viện vệ tinh phân bố tại 37 tỉnh, thành phố trong cả nước. Kết quả tỷ lệ chuyển tuyến từ tuyến dưới lên tuyến trên đã và đang giảm dần, đặc biệt giảm rõ ở những bệnh viện và chuyên khoa trong Đề án bệnh viện vệ tinh, 37,5% số bệnh viện trong Đề án bệnh viện vệ tinh đang có xu hướng giảm tỷ lệ chuyển tuyến. Cụ thể:
- Chuyên ngành Sản: 02 Bệnh viện hạt nhân và 10 bệnh viện vệ tinh; giảm tỷ lệ chuyển tuyến đạt 99% so với trước khi triển khai mô hình Bệnh viện vệ tinh.
- Chuyên khoa Nhi: 03 Bệnh viện hạt nhân và 10 bệnh viện vệ tinh; giảm tỷ lệ chuyển tuyến đạt 73% so với trước khi triển khai mô hình bệnh viện vệ tinh. Tỷ lệ chuyển tuyến sản khoa của Bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình giảm từ: 0,4% xuống 0% năm 2014 và chuyển tuyến về Nhi khoa: 1,9% xuống 0% năm 2014.
- Chuyên ngành Ung bướu: 04 Bệnh viện hạt nhân và 18 bệnh viện vệ tinh; giảm tỷ lệ chuyển tuyến đạt tới 97% so với trước khi triển khai mô hình Bệnh viện vệ tinh. Tỷ lệ chuyển tuyến ở Bệnh viện đa khoa tỉnh Hòa Bình giảm từ: 34,06% xuống còn 26,3% năm 2014; Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ giảm từ 59,8% xuống còn 1,6% năm 2014.
- Chuyên ngành Tim mạch: 05 Bệnh viện hạt nhân và 19 bệnh viện vệ tinh; giảm tỷ lệ chuyển tuyến đạt tới 98,5% so với trước khi triển khai mô hình Bệnh viện vệ tinh. Cụ thể: Bệnh viện đa khoa Thanh Hóa đã phẫu thuật cho 50 bệnh nhân bao gồm: phẫu thuật u trung thất 05 ca, phẫu thuật cắt u phổi 08 ca, cấp cứu vết thương tim 02 ca, cấp cứu vết thương mạch máu 05 ca, phẫu thuật thuyên tắc động mạch cấp tính 04 ca, phẫu thuật bóc vỏ màng phổi trong dày dính màng phổi 05 ca, phẫu thuật dày dính màng phổi 05 ca, phẫu thuật cắt kén khí mở 02 ca, phẫu thuật nội soi cắt kén khí 01 ca.
- Chuyên ngành Ngoại khoa: 03 Bệnh viện hạt nhân và 18 bệnh viện vệ tinh; giảm tỷ lệ chuyển tuyến đạt tới 98,5% so với trước khi triển khai mô hình Bệnh viện vệ tinh. Tỷ lệ chuyển tuyến của Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình giảm từ 13% xuống 4%; Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Giang nhận giảm từ 5% xuống 1%; Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang giảm từ 3% xuống 0%; Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh giảm từ 3% xuống 0%....
- Phát triển mạng lưới bác sĩ gia đình: 155 phòng khám đã được thành lập và đưa vào hoạt động, tham gia quản lý sức khỏe cho cá nhân và hộ gia đình, khám chữa bệnh tại nhà, tư vấn sức khỏe, phục hồi chức năng, hướng dẫn tiêm chủng mở rộng.
- Tăng cường quản lý chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh:
Trong giai đoạn 2012-2014, đã tập trung xây dựng nhiều văn bản để phát triển mạng lưới khám, chữa bệnh, nâng cao chất lượng bệnh viện như Thông tư số 01/2013/TT-BYT ngày 11/01/2013 Hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng xét nghiệm tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Thông tư số 19/2013/TT-BYT hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh tại bệnh viện; Quyết định số 1313/QĐ-BYT ngày 22/4/2013 về hướng dẫn quy trình khám bệnh tại Khoa Khám bệnh của bệnh viện; Chỉ thị số 09/CT-BYT ngày 22/11/2013 tăng cường tiếp nhận và xử lý ý kiến phản ánh của người dân về chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh thông qua đường dây nóng...
43,2% số bệnh viện đã thành lập được Phòng, Tổ quản lý chất lượng. Tổ chức 17 lớp tập huấn về quản lý chất lượng đã được tổ chức cho các địa phương. Xây dựng hướng dẫn chuyên môn bao gồm: 40 Quyết định hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ trong đó có 19 tập quy trình kỹ thuật thuộc 19 chuyên ngành khác nhau và 17 hướng dẫn chẩn đoán và điều trị cho các bệnh dịch mới nổi và một số bệnh phổ biến. Tổng số ban hành được trên 4000 quy trình kỹ thuật chuyên môn.
Bộ Y tế tiếp tục duy trì và phát huy hiệu quả của Đường dây nóng trong việc tiếp nhận và xử lý thông tin phản hồi của người bệnh đối với các cơ sở khám chữa bệnh công lập, nhằm chấn chỉnh tinh thần thái độ phục vụ của đội ngũ nhân viên y tế, nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh. Theo báo cáo, trong 6 tháng đầu năm 2016, đã tiếp nhận 4074 cuộc gọi qua đường dây nóng; các cơ sở y tế đã tổ chức nhắc nhở, rút kinh nghiệm 15 trường hợp, kỷ luật 05 trường hợp, cắt thi đua 04 trường hợp, khiển trách 03 trường hợp, nghỉ việc 01 trường hợp và khen thưởng 05 trường hợp.
2. Trong thời gian tới, để tiếp tục thực hiện giảm quá tải bệnh viện, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, Bộ Y tế tập trung một số nhiệm vụ ưu tiên:
Thứ nhất: Đổi mới quan điểm, tư duy về người bệnh, quản lý chất lượng
Lãnh đạo, nhân viên y tế cần đổi mới quan điểm, tư duy về người bệnh và quản lý chất lượng, lấy "người bệnh làm trung tâm của hoạt động chăm sóc và điều trị", an toàn người bệnh là số 1, quản lý và cải tiến chất lượng là nhiệm vụ mang tính "sống còn". Cần thay đổi quan điểm phải có tài chính mới làm cải tiến chất lượng được. Xác định những việc đòi hỏi ít kinh phí vẫn nâng cao được chất lượng để cải tiến.
Thứ hai: Tích cực triển khai các chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Y tế về cải tiến chất lượng khám, chữa bệnh.
Chỉ thị số 05/CT-BYT ngày 10/9/2012 về việc tăng cường thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh sau khi điều chỉnh giá dịch vụ y tế, và gần đây là Chỉ thị 06/CT-BYT ngày 29/3/2016 về việc tăng cường bảo đảm chất lượng dịch vụ KCB khi thực hiện điều chỉnh, thống nhất giá dịch vụ KCB BHYT giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc, trong đó nhấn mạnh các giải pháp: Cải tiến quy trình khám bệnh, xét nghiệm, thăm dò chức năng; cải tiến thủ tục vào viện, chuyển viện, ra viện, thanh toán viện phí, bảo hiểm y tế; ứng dụng phát số khám bệnh tự động, bảng số điện tử; Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, phần mềm kê đơn thuốc điện tử, phần mềm tương tác thuốc; Nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ người bệnh, thực hiện tốt Quy tắc ứng xử của cán bộ, viên chức đồng thời sửa chữa, cải tạo, mở rộng khoa khám bệnh và các buồng bệnh, mua bổ sung, thay thế bàn, ghế, giường, tủ, dụng cụ khám bệnh, điều hòa nhiệt độ, quạt điện, chăn, ga, gối, đệm, quần áo người bệnh v.v... tại khu vực khám bệnh và các buồng bệnh. Thực hiện tốt cam kết không nằm ghép sau giờ quy định.
Thứ Ba: Thực hiện nghiêm các văn bản, công cụ quản lý chất lượng đã ban hành gần đây như:
- Triển khai Thông tư số 19/2013/TT-BYT ngày 12/7/2013 hướng dẫn quản lý chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh tại bệnh viện: khẩn trương, nghiêm túc thiết lập bộ máy, thành lập phòng/tổ quản lý chất lượng, nhân viên chuyên trách, mạng lưới chất lượng. Các nhân viên quản lý chất lượng cần xác định nhiệm vụ và là đầu mối hướng dẫn bệnh viện quản lý chất lượng.
- Thực hiện Thông tư số 01/2013/TT-BYT ngày 11/01/2013 hướng dẫn quản lý chất lượng xét nghiệm tại cơ sở khám chữa bệnh: tiến hành nội kiểm, ngoại kiểm thường xuyên và cải tiến nâng cao chất lượng xét nghiệm.
- Áp dụng Quyết định số 1313/QĐ-BYT ngày 22/4/2013 hướng dẫn quy trình khám bệnh tại bệnh viện: nghiên cứu áp dụng quy trình khám bệnh thuận tiện nhất, giảm phiền hà, giảm yêu cầu thủ tục với người bệnh có thẻ BHYT.
- Áp dụng Quyết định 4858/QĐ-BYT ngày 03/12/2013 ban hành thí điểm Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện: Các bệnh viện dựa trên 83 tiêu chí để xác định những vấn đề tồn tại và ưu tiên để xây dựng các đề án cải tiến chất lượng cho từng bộ phận như khám bệnh, kế toán, dược, kiểm soát nhiễm khuẩn, điều dưỡng, dinh dưỡng, các khoa lâm sàng, cận lâm sàng... Các bệnh viện cần nỗ lực đẩy mạnh cải tiến chất lượng toàn diện hơn trên đầy đủ các khía cạnh từ chất lượng nhân lực, chuyên môn đến cơ sở vật chất, phương tiện, tinh thần thái độ phục vụ người bệnh. Bộ Y tế sẽ công bố chất lượng hạng 1 trở lên, tiến tới công bố chất lượng của toàn bộ các bệnh viện trên toàn quốc, bệnh viện có chất lượng tiêu biểu công khai, minh bạch để người dân có thêm thông tin lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh sau khi các bệnh viện được khám thông tuyến BHYT.
- Triển khai Quyết định số 4276/QĐ-BYT ngày 14/10/2015 Chương trình hành động Quốc gia về nâng cao năng lực quản lý chất lượng khám chữa bệnh giai đoạn đến năm 2025, các Sở Y tế, bệnh viện và ban ngành cùng vào cuộc để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Các đơn vị cần xây dựng kế hoạch nâng cao chất lượng riêng của mình cho phù hợp với thực tế và triển khai tích cực.
Thứ Tư: Tích cực nâng cao chất lượng lâm sàng và triển khai các hướng dẫn kỹ thuật
Trong các năm gần đây, Bộ Y tế đã ban hành 5124 hướng dẫn quy trình kỹ thuật của 28 chuyên khoa và xây dựng 13 cuốn hướng dẫn chẩn đoán và điều trị. Các bệnh viện cần tích cực nâng cao chất lượng lâm sàng thông qua việc áp dụng, cập nhật, triển khai các hướng dẫn kỹ thuật và thông tư chuyên môn như Thông tư số 07/2015/TT-BYT áp dụng kỹ thuật mới, phương pháp mới trong khám chữa bệnh, Thông tư 43/2013/TT-BYT quy định chi tiết phân tuyến chuyên môn kỹ thuật và nhiều thông tư, văn bản khác như bệnh viện vệ tinh, công tác luân phiên cán bộ hỗ trợ tuyến dưới, tích cực chỉ đạo tuyến...
Thứ Năm: Xử lý kịp thời thông tin phản hồi của người dân
Bệnh viện cần nghiêm túc xử lý kịp thời các thông tin phản hồi của người dân thông qua các kênh thông tin báo chí, hòm thư góp ý, đường dây nóng và kể cả các trang mạng xã hội, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 09/CT-BYT về đường dây nóng.
Bộ Y tế cảm ơn sự quan tâm của Đại biểu Quốc hội và cử tri. Bộ Y tế trân trọng đề nghị cử tri kiến nghị tới Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các ban ngành tiếp tục đầu tư các nguồn lực và ủng hộ mạnh mẽ ngành Y tế tiến hành cải tiến chất lượng, đồng thời điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo đúng lộ trình, giúp bệnh viện có thêm nguồn kinh phí tiến hành cải tiến chất lượng.
3. Về kiến nghị niêm yết công khai, minh bạch danh mục các loại bệnh, chi phí mổ, thuốc được cấp trong BHYT
Trong Quyết định số 1313/QĐ-BYT ngày 22/4/2013 về việc Hướng dẫn quy trình khám bệnh tại khoa khám bệnh của bệnh viện và Chỉ thị số 06/CT-BYT 29/3/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc tăng cường bảo đảm chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh khi thực hiện điều chỉnh, thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc, Bộ Y tế đã yêu cầu các cơ sở y tế niêm yết công khai giá dịch vụ y tế tại những nơi mà người bệnh dễ tiếp cận, nhìn thấy. Trên thực tế, hầu hết các bệnh viện đã thực hiện nghiêm túc quy định này, niêm yết công khai các thông tin cần thiết cho hoạt động khám bệnh, chữa bệnh. Bộ Y tế trân trọng cảm ơn sự quan tâm của cử tri tới công tác y tế và đề nghị cử tri phản ánh cụ thể những cơ sở y tế nào không công khai các thông tin này.
18. Cử tri tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kiến nghị: cử tri phản ánh: Bệnh nhân có thẻ bảo hiểm y tế lúc khám ở bệnh viện tuyến dưới chỉ phát hiện có một loại bệnh, nhưng khi được chuyển lên bệnh viện tuyến trên thì phát hiện ra bệnh thứ hai. Bệnh viện tuyến trên bắt buộc bệnh nhân phải về bệnh viện tuyến dưới xin giấy chuyển viện cả 02 loại bệnh khi đó mới điều trị, chữa bệnh. Quy định này gây khó khăn cho bênh nhân đề nghị ngành y tế và bảo hiểm xã hội kiểm tra, xem xét đơn giản hóa thủ tục cho bệnh nhân có thẻ bảo hiểm y tế.
Trả lời:
Tại Khoản 5, Điều 9, Thông tư số 37/2014/TT-BYT ngày 17/11/2015 về đăng ký khám chữa bệnh ban đầu và chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh BHYT: “Trường hợp người bệnh được chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh có bệnh khác kèm theo, bệnh được phát hiện hoặc phát sinh ngoài bệnh ghi trên giấy chuyển tuyến, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi tiếp nhận người bệnh thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh đối với các bệnh đó trong phạm vi chuyên môn thì xác định là khám bệnh, chữa bệnh đúng tuyến”.
Như vậy, không có quy định bệnh viện tuyến trên bắt buộc bệnh nhân phải về bệnh viện tuyến dưới xin giấy chuyển viện cả 02 loại bệnh (đã có giấy chuyển tuyến và mới phát hiện) khi đó mới điều trị, chữa bệnh.
Câu 19: Hiện nay, Bộ Y tế đã ban hành nhiều quy định về chuẩn mực, đạo đức ngành Y. Song, việc thực hiện vẫn còn nhiều bất cập, tình trạng y đức của đội ngũ y bác sĩ có nơi, có lúc vẫn còn chưa tốt, nhất là ở các bệnh viện công, bệnh viện tuyến trên. Kiến nghị Bộ sau khi tăng giá các dịch vụ y tế cần thực hiện thanh kiểm tra và quán triệt đối với đội ngũ y, bác sĩ làm công tác khám và điều trị bệnh cho bệnh nhân tham gia bảo hiểm y tế về tác phong và thái độ đối với bệnh nhân, nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho tương xứng với mức tăng viện phí và hơn hết là xứng đáng với phương châm của người thầy thuốc “lương y như từ mẫu”. Đề nghị Bộ tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra định kỳ, đột xuất, chuyên đề nhằm kịp thời xử lý, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ công chức, viên chức ngành y tế, tạo lòng tin trong nhân dân và tạo động lực để nhân dân tích cực tham gia bảo hiểm y tế, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo hiểm y tế toàn dân trong thời gian tới (Tiền Giang).
Trả lời:
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Chính phủ giao, Bộ Y tế đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp để thường xuyên nâng cao đạo đức nghề nghiệp (gọi tắt là Y đức) cho toàn thể công chức, viên chức, người lao động trong ngành Y tế. Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, như Quy định về 12 điều y đức, Thông tư số 07/2014/TT-BYT quy định về Quy tắc ứng xử của công chức, viên chức, người lao động làm việc tại các cơ sở y tế; Quyết định số 2151/QĐ-BYT phê duyệt Kế hoạch “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”. Bộ Y tế đặc biệt chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra định kỳ, đột xuất để kịp thời chấn chỉnh những vấn đề bất cập trong hoạt động của đội ngũ cán bộ y tế.
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Y tế, tất cả các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương đều thành lập Ban Chỉ đạo tổ chức thực hiện. 100% các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế tổ chức ký cam kết từ viên chức đến lãnh đạo khoa, phòng và giám đốc bệnh viện với cơ quan quản lý cấp trên. Đến nay, chủ trương “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh” được đa số cán bộ y tế nhất trí triển khai thực hiện; được người bệnh, gia đình người bệnh, người dân quan tâm, ủng hộ; bước đầu đạt kết quả tốt.
Để thực hiện tốt các nội dung trong Kế hoạch “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”, tiếp tục dẩy mạnh việc nâng cao Y đức của cán bộ y tế, Bộ Y tế đã chỉ đạo các địa phương, đơn vị tăng cường kiểm tra, giám sát. Cụ thể:
- Bộ Y tế ban hành Quyết định số 4959/QĐ-BYT ngày 20/11/2015 thành lập 8 đoàn kiểm tra do 5 Thứ trưởng Bộ Y tế làm trưởng đoàn của 05 Đoàn, Giám đốc Sở Y tế Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh làm Trưởng đoàn của 02 đoàn và 01 đoàn cơ động, do Vụ Trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Ủy viên Ban Cán sự Đảng làm Trưởng đoàn đi kiểm tra đột xuất theo yêu cầu của Bộ trưởng hoặc đơn thư, ý kiến phản ảnh của nhân dân.
Cùng với việc tăng cường kiểm tra, giám sát, Bộ Y tế kịp thời khen thưởng tập thể, cá nhân cán bộ y tế thực hiện tốt quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp, xử lý nghiêm túc, kịp thời những trường hợp vi phạm quy định của ngành; ví dụ cụ thể:
- Bộ trưởng Bộ Y tế khen thưởng đột xuất cho cán bộ y tế trong ekip cấp cứu kịp thời sản phụ bị băng huyết tại tỉnh Thái Bình.
- Đề nghị Sở Y tế Hải Dương chỉ đạo Bệnh viện Đa khoa huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương xem xét, có hình thức xử lý cán bộ y tế của bệnh viện mải “nghịch” điện thoại để bệnh nhân phải chờ lâu theo như báo chí phản ảnh.
- Đợt kiểm tra đột xuất tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Bệnh viện K, Bộ trưởng Bộ Y tế đã chỉ đạo Bệnh viện K điều tra, xử lý những dấu hiệu vi phạm của cán bộ y tế mà người bệnh phản ảnh. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ trưởng, Bệnh viện K đã rà soát, kiểm tra, phát hiện 02 cán bộ y tế vi phạm quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp ngành Y tế nên đã ra quyết định xử lý theo đúng quy trình quy định của pháp luật.
- Ngoài ra, khi có đơn thư, ý kiến phản ánh của người bênh, gia đình người bệnh, Bộ Y tế đều có công văn đôn đốc, yêu cầu các đơn vị rà soát, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm theo đúng quy định của pháp luật.
20. Cử tri tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Y tế xem xét thêm đối với trường hợp các cháu dưới 6 tuổi theo cha, mẹ đi làm ăn ở địa phương khác cách xa nơi cư trú thì nên cho các cháu được khám chữa bệnh tại nơi cha, mẹ tạm trú.
Trả lời:
Để bảo đảm việc cấp thẻ BHYT cho trẻ em được kịp thời, ngày 15/5/2015 Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư liên tịch số 05/2015/TTLT-BTP-BCA-BYT hướng dẫn thực hiện liên thông các thủ tục hành chính về đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi, trong đó quy định, khi Ủy ban nhân dân cấp xã làm thủ tục đăng ký khai sinh cho trẻ em dưới 6 tuổi thì cơ quan Bảo hiểm xã hội đã đồng thời thực hiện việc cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ cấp thẻ bảo hiểm y tế do Ủy ban nhân dân cấp xã chuyển đến.
Trường hợp gia đình đi làm ăn ở địa phương khác hoặc thay đổi nơi cư trú (thường trú hoặc tạm trú) nhưng trẻ chưa được cấp thẻ bảo hiểm y tế thì theo quy định tại Khoản 3, Điều 1 Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24/11/2014 của liên Bộ Y tế, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế, trẻ được làm thủ tục đổi nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu hoặc cấp thẻ bảo hiểm y tế cho cháu tại nơi cư trú. Đề nghị cử tri liên hệ với cơ quan Bảo hiểm xã hội nơi cư trú để được hướng dẫn cụ thể.
21. Cử tri Lạng Sơn, Quảng Ngãi tỉnh kiến nghị: Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/02/2008 quy định danh mục bệnh tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin làm điều kiện xét hưởng chế độ trợ cấp nhiễm chất độc hóa học/dioxin. Tuy nhiên, cử tri cho rằng trong điều kiện tham gia chiến đấu, quân và dân ta không có trang bị các bảo hộ cá nhân, tiếp xúc trực tiếp với hóa chất, bị phơi nhiễm qua nhiều đường: thực phẩm, nước uống, không khí … do đó, có thể mắc nhiều loại bệnh khác như bệnh về da, máu, tim mạch. Cử tri phản ánh hiện nay việc giám định đối với các trường hợp bị nhiễm chất độc da cam rườm rà. Việc căn cứ vào 17 loại bệnh tật, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc hóa học/dioxin để công nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là chưa phù hợp.
Cử tri đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu, xem xét mở rộng một số nhóm bệnh khác liên quan đến chất độc hóa học/dioxin ngoài các nhóm bệnh theo quy định của Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT để phù hợp với thực tế; đề nghị rà soát những vùng nước ta bị nhiễm chất độc hóa học và sớm công nhận những người đã tham gia hoạt động kháng chiến ở những vùng đó được hưởng chế độ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.
Trả lời:
Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/2/2008 quy định nhóm bệnh liên quan đến chất độc hóa học/dioxin đã được thay thế bằng Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH. Để tiếp tục rà soát, xem xét lại danh mục bệnh tật này, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký Quyết định số 3704/QĐ-BYT ngày 04/9/2015 thành lập Hội đồng chuyên môn sửa đổi, bổ sung danh mục và tài liệu hướng dẫn chẩn đoán bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hoá học/dioxin. Hội đồng bao gồm 25 thành viên, gồm nhiều nhà khoa học Y học, xã hội học và cả những cán bộ tham mưu xây dựng và giám sát thực hiện chính sách. Hội đồng chuyên môn có nhiệm vụ tư vấn cho Bộ trưởng Bộ Y tế việc sửa đổi, bổ sung danh mục bệnh, tật đã ban hành kèm theo Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH và rà soát, sửa đổi, biên soạn tài liệu hướng dẫn chẩn đoán bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin ban hành kèm theo Quyết định số 1488/QĐ-BYT.
Hội đồng chuyên môn đã họp nhiều phiên, căn cứ vào các tài liệu khoa học có liên quan ở trong nước và quốc tế đã được công bố để rà soát và xem xét cơ sở khoa học, sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin.
Phiên họp gần đây nhất vào ngày 25/5/2016, Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế đã tổ chức họp để rà soát lại danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật được ban hành tại Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH. Hội đồng đã đi đến kết luận: Hiện nay, chúng ta chưa có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn để bổ sung, sửa đổi Danh mục các bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin đã được ban hành. Do vậy, cho đến nay Danh mục bệnh tật ban hành kèm theo Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH nêu trên chưa có gì thay đổi và kiến nghị cần cụ thể hóa danh mục bất thường sinh sản và dị tật bẩm sinh.
Trên cơ sở ý kiến của Hội đồng chuyên môn, Bộ Y tế đã giao cho các nhà khoa học thuộc các chuyên ngành y tế biên tập và chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện lại Tài liệu chuyên môn “Hướng dẫn chẩn đoán bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hoá học/dioxin”, trong đó sẽ nêu cụ thể danh mục các dị dạng, dị tật bẩm sinh của con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin, sau đó Bộ Y tế sẽ tổ chức in, phát cho các Hội đồng giám định y khoa trong nước và một số cơ quan, đơn vị có liên quan để sử dụng trong công tác giải quyết chế độ chính sách ưu đãi của Đảng và nhà nước đối với người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học/dioxin.
Bộ Y tế tiếp tục giao cho Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế tiếp tục nghiên cứu, khi có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn, sẽ báo cáo Bộ trưởng Bộ Y tế để xem xét sửa đổi, bổ sung Danh mục các bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin.
22. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Sớm ban hành Văn bản hướng dẫn, xác định cụ thể danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật đối với con đẻ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học tại Điều 2 của Thông tư Liên tịch số 41/2013/TTLT-BYT- BLĐTBXH ngày 18/11/2013 của liên Bộ Y tế và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
Trả lời:
Vấn đề này, Bộ Y tế đã trả lời tại câu 21 ở trên.
Ngày 25/5/2016, Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế đã tổ chức họp để rà soát lại danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật được ban hành tại Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH, trên cơ sở ý kiến của Hội đồng chuyên môn, Bộ Y tế giao Viện Giám định y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội (Bộ môn Y sinh học di truyền) và Bệnh viện Phụ sản Trung ương nghiên cứu, biên tập cụ thể hóa danh mục bất thường sinh sản đối với người tham gia kháng chiến và danh mục dị dạng, dị tật bẩm sinh của con đẻ người tham gia kháng chiến bị phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin. Viện Giám định y khoa đang biên soạn tài liệu hướng dẫn chẩn đoán những bệnh, tật, dị dạng, dị tật này để dùng riêng cho công tác khám giám định y khoa. Hiện nay cơ bản tập tài liệu đã hoàn chỉnh.
Bộ Y tế và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang Dự thảo Thông tư liên tịch sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH, theo hướng sẽ cụ thể hóa danh mục bất thường sinh sản và cụ thể hóa danh mục dị dạng, dị tật bẩm sinh có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học được ban hành tại Điều 2 của Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH. Hiện nay, Dự thảo Thông tư này đã hoàn thành, đang trình Lãnh đạo hai Bộ ký, ban hành trong tháng 6 năm 2016.
Bộ Y tế đã có kế hoạch in ấn và phát hành tài liệu này đến các Sở Y tế và tất cả Hội đồng Giám định y khoa trong cả nước để hướng dẫn các giám định viên y khoa, các thành viên của Hội đồng Giám định y khoa các cấp thực hiện việc khám giám định cho các đối tượng theo giới thiệu của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội có yêu cầu xác định mắc bệnh, tật, dị dạng, dị tật liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin.
23. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị: Đề nghị ban hành quy định về việc giám định lại đối với những đối tượng đã đi giám định mà không mắc các bệnh trong danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm với chất độc hóa học/dioxin theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20/02/2008 của Bộ Y tế .
Trả lời:
Hiện nay, quy trình giám định được thực hiện theo Thông tư số 41/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH và các Quy trình về giám định y khoa hiện nay do Bộ Y tế ban hành. Quy trình này được áp dụng cho tất cả các hoạt động giám định kể cả giám định lần đầu hoặc giám định lại.
Nên thời điểm hiện nay không cần thiết phải ban hành riêng một quy trình giám định lại.
24. Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Kiến nghị Bộ xem xét để có chính sách hợp lý trong việc thực hiện điều trị bệnh cho những người mắc bệnh hiểm nghèo hoặc nguy cấp nhưng có khó khăn về kinh tế chưa thể đóng tạm ứng viện phí, không chờ phải đóng xong tạm ứng viện phí mới thực hiện điều trị nhằm thể hiện tốt tinh thần trách nhiệm và tính nhân đạo trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân của ngành y tế (); và Câu 25. Cử tri phản ánh tình trạng một số bệnh nhân được chuyển đến bệnh viện để cấp cứu, nhưng vì nhiều lý do khác nhau nên chưa có tiền đóng viện phí nên không được cấp cứu kịp thời. Để người bệnh được cấp cứu kịp thời, đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu thành lập một quỹ cấp cứu.
Trả lời:
Đối với bệnh nhân trong tình trạng nguy kịch, khâu cấp cứu ban đầu là hết sức quan trọng, cần phải thực hiện nhanh chóng, chính xác để đảm bảo sức khỏe và tính mạng của bệnh nhân, Bộ Y tế đã ban hành các quy định, hướng dẫn các y bác sỹ tại bệnh viện đảm bảo khâu cấp cứu ban đầu được thực hiện một cách nhanh nhất và đặc biệt quan tâm đối với người bị tai nạn giao thông không có người thân đi kèm, hoặc tạm thời chưa có tiền để hoàn thành các thủ tục nhập viện. Điều này đã khắc phục những bất cập Quyết định về việc ban hành quy chế cấp cứu, hồi sức tích cực và chống độc số 01/2008/QĐ-BYT ngày 21/01/2008.
Đối với trường hợp bệnh nhân không có người nhà đi kèm, các bệnh viện vẫn phải thực hiện các biện pháp cấp cứu nhằm đảm bảo tính mạng, sức khỏe của bệnh nhân.
Về kiến nghị thành lập Quỹ cấp cứu, Bộ Y tế xin tiếp thu ý kiến của cử tri và sẽ nghiên cứu trong quá trình xây dựng các chính sách liên quan đến hoạt động khám chữa bệnh, cấp cứu bệnh nhân.
25. Cử tri tỉnh Điện Biên kiến nghị: Ngày 01/10/2015 UBND tỉnh Điện Biên đã có Công văn số 134/UBND - NC xin ý kiến các Bộ, ngành về mở cặp cửa khẩu phụ Nà Bung (Điện Biên) - Lao Phu Chải (Phong Sa Ly, Lào). Đến nay, tỉnh Điện Biên vẫn chưa nhận được ý kiến của Bộ Y tế, đề nghị Bộ Y tế thống nhất và sớm có văn bản trả lời để Điện Biên hoàn chỉnh Hồ sơ trình Chính phủ.
Trả lời:
Ngày 29/12/2015, Bộ Y tế đã có Công văn số 131/BYT-KH-TC gửi UBND tỉnh Điện Biên cho ý kiến về việc mở cặp cửa khẩu phụ Nà Bung (Điện Biên) và Lao Phu Chải (Phong Sa Ly, Lào).
26. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Cử tri băn khoăn trước thực trạng thời gian gần đây các loại vắcxin tiêm chủng cho trẻ em ở một số nơi gây tai biến nguy hiểm. Đề nghị ngành Y tế cần có sự quản lý, nghiên cứu trả lời để làm yên lòng cho nhân dân.
Trả lời:
Để bảo đảm công tác an toàn tiêm chủng, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 12/2014/TT-BYT ngày 20/3/2014 Hướng dẫn việc quản lý sử dụng vắc xin trong tiêm chủng. Theo quy định của Thông tư 12/2014/TT-BYT, tất cả các trường hợp tai biến nặng sau tiêm chủng đều được Hội đồng tư vấn chuyên môn xem xét kỹ lưỡng để tìm ra nguyên nhân; Hội đồng sẽ đánh giá toàn bộ quá trình tiêm vắc xin, từ khâu khám sàng lọc, đến thực hiện tiêm, và theo dõi sau tiêm chủng; trên cơ sở kết quả điều tra, Hội đồng sẽ đưa ra kết luận về nguyên nhân một cách kịp thời, khách quan. Tất cả các kết luận này đều được các cơ quan chức năng công khai và phản hồi theo thẩm quyền cho các bên liên quan cũng như gia đình, cộng đồng.
Vai trò của Hội đồng tư vấn chuyên môn là rất quan trọng. Trong năm 2015 và đầu năm 2016, Bộ Y tế đã tổ chức các lớp tập huấn cho các thành viên Hội đồng cấp tỉnh trên toàn quốc nhằm nâng cao năng lực của các Hội đồng trong việc đánh giá nguyên nhân phản ứng sau tiêm chủng bảo đảm việc đánh giá, kết luận nguyên nhân được chính xác, khách quan và khoa học.
Năm 2015 Hệ thống quản lý quốc gia về vắc xin (NRA) của Việt Nam đã được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) công nhận đã đạt tiêu chuẩn quốc tế. Để duy trì chất lượng của chức năng giám sát phản ứng sau tiêm chủng trong Hệ thống, , Bộ Y tế cũng đã phối hợp với WHO tổ chức các lớp tập huấn cho các thành viên Hội đồng tư vấn chuyên môn đánh giá tai biến trong quá trình sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế của Bộ Y tế (Hội đồng cấp Bộ) và các đơn vị thuộc NRA nhằm nâng cao năng lực của các tổ chức này trong việc đánh giá nguyên nhân phản ứng sau tiêm chủng bảo đảm việc đánh giá, kết luận nguyên nhân được chính xác, khách quan và khoa học.
Hàng năm, Bộ Y tế cũng tổ chức thường xuyên nhiều đợt công tác giám sát, hỗ trợ kỹ thuật cho địa phương về công tác tiêm chủng, đặc biệt là hướng dẫn địa phương cách xử lý một cách khoa học, khách quan, đúng quy định của pháp luật khi xảy ra trường hợp tai biến nặng sau tiêm chủng.
27. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Ban hành tiêu chí xác định người nghiện ma túy tổng hợp và phác đồ điều trị đối với người nghiện ma túy tổng hợp để triển khai thực hiện. (Đã kiến nghị tại Báo cáo Kết quả tiếp xúc cử tri số 295/BC-ĐĐBQH ngày 10/10/2014 trước kỳ họp thứ 8, đến nay chưa có trả lời.
Trả lời:
Việc ban hành tiêu chí xác đính người nghiện ma túy tổng hợp hiện nay đang thực hiện theo quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA” ngày 09/7/2015 của liên Bộ Y tế, Bộ Lao động thương binh và xã hội và Bộ Công an quy định thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy.
Phác đồ điều trị đối với người nghiện ma túy tổng hợp đang thực hiện theo Quyết định số 3556/QĐ-BYT ngày 10/9/2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các rối loạn tâm thần thường gặp do sử dung ma túy tổng hợp dạng Amphetamin. Hiện nay, có khoảng 235 chất ma túy trong đó phát hiện người nghiện sử dụng chất ma túy dạng thuốc phiện và chất ma túy dạng Amphetamin.
28. Cử tri tỉnh Bình Phước, Cà Mau, Đắk Nông, Thái Bình kiến nghị: Theo quy định tại Thông tư số 01/TTHN - BYT ngày 23/01/2014 của Bộ Y tế thì người dân khi khám, chữa bệnh theo bảo hiểm y tế chỉ được bảo hiểm thanh toán đối với một số loại thuốc nhất định quy định tại Thông tư này. Tuy nhiên, danh mục thuốc theo bảo hiểm y tế quy định tại Thông tư 01/TTHN - BYT rất hạn chế, không đảm bảo cho việc khám, chữa bệnh của người dân. Hiện nay, thuốc nằm trong danh mục BHYT chỉ điều trị được những bệnh thông thường, còn bệnh nặng, hiểm nghèo như bệnh ung thư thì phải mua thuốc ngoài danh mục BHYT, điều này gây rất nhiều khó khăn cho người dân nhất là những người thuộc diện hộ nghèo, gia đình chính sách. Đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu bổ sung vào danh mục thuốc bảo hiểm y tế một số loại thuốc phổ biến dùng trong khám, chữa bệnh, nhất là đối với những bệnh nguy hiểm để người dân yên tâm khi khám, chữa bệnh theo bảo hiểm y tế, đồng thời tạo điều kiện thu hút người dân tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện và hỗ trợ có hiệu quả cho các hộ dân nghèo.
Trả lời:
Ngày 17/11/2014, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành và hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế và Thông tư số 05/2015/TT-BYT ngày 17/3/2015 ban hành và hướng dẫn danh mục thuốc đông y, thuốc từ dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT và Thông tư số 01/TTHN-BYT ngày 23/01/2014 như phản ánh của cử tri đã hết hiệu lực từ 01/01/2015.
Thông tư số 40/2014/TT-BYT về thuốc tân dược đã đáp ứng được cơ bản nhu cầu điều trị, bảo đảm được quyền lợi cho người bệnh có thẻ BHYT, đồng thời phù hợp với khả năng chi trả của quỹ BHYT. Danh mục thuốc gồm 845 hoạt chất, 1064 thuốc với đầy đủ các chuyên khoa như tim mạch, tiểu đường, ung thư, huyết học... So với Thông tư số 31/2011/TT-BYT, Thông tư số 40/2014/TT-BYT bổ sung mới 37 thuốc thuộc nhiều chuyên khoa khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu điều trị, phù hợp với sự phát triển khoa học của công nghiệp dược; bổ sung dạng dùng của 22 thuốc và mở rộng tuyến sử dụng của 77 thuốc để tạo điều kiện cho người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế được tiếp cận thuốc điều trị tại tuyến y tế cơ sở như bệnh viện huyện, trạm y tế xã, phường, giảm bớt thời gian và chi phí đi lại cho người bệnh, đồng thời góp phần giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên. Đối với 11 thuốc điều trị ung thư, chống thải ghép nằm ngoài danh mục ban hành kèm theo Thông tư 31/2011/TT-BYT và được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 50% nếu có thời gian tham gia BHYT trên 36 tháng, Bộ Y tế đã đưa vào danh mục thuốc kèm theo Thông tư 40/2014/TT-BYT và bỏ quy định thời gian tham gia bảo hiểm y tế liên tục trên 36 tháng. Quy định này giúp bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế, giúp cho người bệnh được sớm tiếp cận điều trị.
Thông tư số 05/2015/TT-BYT về danh mục thuốc y học cổ truyền hiện có 229 chế phẩm – tăng 102 chế phẩm, và 349 vị thuốc – tăng 49 vị thuốc so với Thông tư 12/2010/TT-BYT ngày 29/4/2010. Danh mục thuốc y học cổ truyền được áp dụng cho tất cả các cơ sở khám chữa bệnh, bao gồm bệnh viện y học cổ truyền, bệnh viện có khoa y học cổ truyền, kể cả trạm y tế xã có đủ điều kiện khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo quy định và không phân hạng bệnh viện. Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới, Việt Nam là một trong số ít các nước trên thế giới có một danh mục thuốc tương đối đầy đủ, toàn diện và mở rộng so với mức phí đóng bảo hiểm y tế.
Theo quy định tại Thông tư, định kỳ 02 năm/lần, Bộ Y tế sẽ tiếp tục nghiên cứu, rà soát để thực hiện sửa đổi, bổ sung danh mục đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh và bảo đảm quyền lợi tham gia của người có thẻ bảo hiểm y tế.
29. Cử tri tỉnh Tiền Giang, Vĩnh Long kiến nghị: Tại các địa phương, đa số các cơ sở khám chữa bệnh ban đầu, khi người bệnh đến khám thì thường không đủ thuốc hoặc thuốc không đảm bảo chất lượng điều trị. Kiến nghị Bộ Y tế xem xét nâng danh mục thuốc ở tuyến cơ sở cao hơn và người bệnh được hưởng thụ chế độ khám, chữa bệnh vì hiện nay đa số các trạm đều đã được đầu tư máy móc, thiết bị và có bác sĩ chuyên khoa nhằm khắc phục việc ùn tắc khám bệnh tuyến trên nhằm đảm bảo hiệu quả trong điều trị bệnh cho người bệnh có tham gia bảo hiểm y tế, nhất là tại các tuyến cơ sở, tuyến khám chữa bệnh ban đầu.
Trả lời:
Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành và hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế và Thông tư số 05/2015/TT-BYT ngày 17/3/2015 ban hành và hướng dẫn danh mục thuốc đông y, thuốc từ dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT đã đáp ứng được nhu cầu điều trị, phù hợp trình độ chuyên môn, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế của các Trạm y tế xã.
Theo quy định tại Thông tư số 40/2014/TT-BYT, tuyến xã được sử dụng 374 hoạt chất, với đầy đủ các nhóm chuyên khoa: gây tê, gây mê; giảm đau, hạ sốt, chống viêm; tim mạch, da liễu, tiêu hóa, hô hấp; thúc đẻ, cầm máu sau đẻ… Trạm y tế xã không chỉ được sử dụng các thuốc dạng uống mà còn các dạng khác như tiêm, dùng ngoài, đặt, miếng dán, nhỏ mắt, nhỏ tai.
So với Thông tư số 31/2011/TT-BYT, Thông tư số 40/2014/TT-BYT đã bổ sung mới 3 thuốc, bổ sung dạng dùng của 5 thuốc và mở rộng tuyến sử dụng của 26 thuốc cho Trạm y tế xã. Quy định này giúp tạo điều kiện cho người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế được tiếp cận điều trị tốt hơn khi đi khám bệnh, chữa bệnh tại các Trạm y tế xã, giúp giảm bớt thời gian và chi phí đi lại cho người bệnh, đồng thời góp phần giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên. Ngoài ra, trường hợp Trạm y tế xã có thể thực hiện được các dịch vụ kỹ thuật của tuyến cao hơn theo phân tuyến chuyên môn kỹ thuật thì được sử dụng các thuốc theo danh mục thuốc quy định đối với tuyến cao hơn, phù hợp với dịch vụ kỹ thuật đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Thông tư số 05/2015/TT-BYT về danh mục thuốc y học cổ truyền hiện có 229 chế phẩm - tăng 102 chế phẩm, và 349 vị thuốc - tăng 49 vị thuốc so với Thông tư 12/2010/TT-BYT ngày 29/4/2010, được áp dụng cho tất cả các cơ sở khám chữa bệnh, bao gồm bệnh viện y học cổ truyền, bệnh viện có khoa y học cổ truyền, kể cả trạm y tế xã có đủ điều kiện khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo quy định. Danh mục thuốc bảo hiểm y tế ban hành Thông tư số 40/2014/TT-BYT, Thông tư 05/2015/TT-BYT được ghi dưới dạng tên hoạt chất/thành phần, không ghi hàm lượng và dạng bào chế và tên thương mại. Như vậy, việc lựa chọn thuốc thành phẩm được Quỹ bảo hiểm y tế thanh toán tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không bị giới hạn bởi chủng loại thuốc với giá rẻ hay đắt, thuốc nội hay thuốc ngoại. Căn cứ mô hình bệnh tật, nhu cầu khám chữa bệnh và khả năng chi trả của Quỹ bảo hiểm y tế, cơ sở khám chữa bệnh xây dựng danh mục thuốc sử dụng tại đơn vị để mua sắm lựa chọn thuốc thành phẩm phù hợp.
Hiện nay, với mục tiêu đáp ứng ngày càng đầy đủ, chất lượng hơn về nhu cầu sử dụng thuốc của người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế, theo định kỳ 2 năm/lần, Bộ Y tế sẽ tiến hành rà soát, sửa đổi và bổ sung Danh mục đặc biệt chú trọng việc mở rộng danh mục thuốc cho y tế tuyến cơ sở trong đó có trạm y tế xã.
30. Cử tri TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Kiến nghị cần tập trung một đầu mối việc kê khai, kê khai lại giá thuốc tại Cục quản lý Dược để có đầy đủ thông tin về giá thuốc kê khai công bố trên website của Cục Quản lý Dược. Có biện pháp cụ thể để quản lý giá đối với các cơ sở bán lẻ thuốc và có các biện pháp khuyến khích chuỗi nhà thuốc GPP của doanh nghiệp phát triển. Khẩn trương công bố thặng số giá bán buôn, bán lẻ thuốc tối đa thống nhất và hợp lý.
Trả lời:
1. Về kiến nghị một đầu mối công bố giá thuốc kê khai
Theo quy định của Thông tư liên tịch số 50/2011/TTLT-BYT-BTC ngày 30/12/2012 của Bộ Y tế, Bộ Tài chính và Bộ Công Thương hướng dẫn quản lý nhà nước về giá thuốc dùng cho người, Tổ công tác liên ngành về giá thuốc tại Trung ương chịu trách nhiệm xem xét giá kê khai, kê khai lại thuốc nước ngoài và giá kê khai thuốc sản xuất trong nước để công bố trên trang thông tin điện tử của Cục Quản lý Dược – Bộ Y tế. Tổ công tác liên ngành về giá thuốc tại địa phương chịu trách nhiệm xem xét giá kê khai lại thuốc sản xuất trong nước. Trước ngày 10 hàng tháng, Sở Y tế chịu trách nhiệm báo cáo Cục Quản lý Dược – Bộ Y tế các mặt hàng thuốc sản xuất trong nước đã kê khai lại giá hợp lý để Cục Quản lý Dược – Bộ Y tế công bố trên trang thông tin điện tử.
Như vậy, Cục Quản lý Dược – Bộ Y tế là đơn vị đầu mối duy nhất công bố thông tin giá thuốc kê khai bao gồm giá kê khai, kê khai lại thuốc sản xuất trong nước cũng như thuốc nhập khẩu.
2. Kiến nghị về biện pháp quản lý giá thuốc
Trong thời gian vừa qua, triển khai các quy định của Luật dược, Liên Bộ Y tế - Tài chính - Công Thương đã tích cực triển khai việc quản lý chặt chẽ thị trường thuốc chữa bệnh và tập trung quản lý đối với các khu vực bệnh viện công lập, cụ thể:
- Đối với thuốc do Ngân sách Nhà nước, Bảo hiểm y tế chi trả và nguồn thu hợp pháp khác tại cơ sở y tế công lập thực hiện đấu thầu theo các quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2012/TTLT-BYT-BTC ngày 19/01/2012 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính hướng dẫn đấu thầu mua thuốc trong các cơ sở y tế và được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư liên tịch số 36/2013/TTLT-BYT-BTC ngày 11/11/2013; Thông tư số 37/2013/TT-BYT ngày 11/11/2013 và Thông tư số 31/2014/TT-BYT ngày 28/6/2014 hướng dẫn hồ sơ mời thầu mua thuốc, các quy định này đã khắc phục khó khăn, bất cập trong công tác đấu thầu thuốc và đã tiết kiệm 35,5% giá trị tiền thuốc sử dụng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
- Đối với thuốc cung ứng cho bệnh nhân ngoại trú sử dụng tại nhà thuốc bệnh viện quản lý bằng thặng số bán lẻ tối đa theo quy định tại Thông tư số 15/2011/TT-BYT ngày 19/4/2011 quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ sở bán lẻ thuốc trong bệnh viện.
Theo kết quả kiểm tra tại các nhà thuốc bệnh viện và nhà thuốc xung quanh bệnh viện năm 2010 tại địa bàn TP. Hồ Chí Minh và TP. Hà Nội cho thấy: 97,78% lượt mặt hàng có giá bán lẻ tại nhà thuốc bệnh viện thấp hơn giá bán lẻ tại nhà thuốc xung quanh bệnh viện với tỷ lệ trung bình 6,82%; 2,22% lượt mặt hàng có giá bán lẻ tại nhà thuốc bệnh viện cao hơn giá bán lẻ tại các nhà thuốc bên ngoài bệnh viện với tỷ lệ trung bình 6,54%.
- Đối với thuốc lưu hành trên thị trường, Luật giá năm 2012 quản lý giá thuốc thông qua quy định về kê khai, kê khai lại và công bố công khai giá từ khâu đăng ký lưu hành, nhập khẩu và đấu thầu cung ứng thuốc cho các bệnh viện. Các cơ sở bán lẻ thuốc đang cạnh tranh mạnh mẽ theo cơ chế thị trường. Việc quản lý giá thuốc tại các cơ sở bán lẻ đang thực hiện theo quy định tại Luật dược bằng biện pháp niêm yết công khai giá bán lẻ.
31. Cử tri TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị Bộ có các hướng dẫn, định hướng cho các công ty sản xuất, kinh doanh thuốc nắm lấy thời cơ, vượt qua thách thức để phát triển bền vững khi Việt Nam tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Trả lời:
Các Hiệp định thương mại tự do về nguyên tắc luôn đem đến cơ hội cho những ngành sản xuất có thế mạnh xuất khẩu và đem đến thách thức đối với những ngành sản xuất nội địa của các nước thành viên.
Gia nhập TPP, cơ hội cho ngành Dược Việt Nam chủ yếu đến từ sự cải thiện về pháp lý, thể chế, thủ tục hành chính v.v. dẫn đến môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, minh bạch, thuận lợi cho việc sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn thế nữa, với môi trường đầu tư được cải thiện, cùng với hệ thống quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ và thực thi hiệu quả, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hòa hợp với quốc tế, dự kiến sẽ có nhiều doanh nghiệp nước ngoài quan tâm hơn tới việc đầu tư sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam – là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam trở thành đối tác kinh doanh, chuyển giao công nghệ của các tập đoàn quốc tế.
Thách thức đối với doanh nghiệp là phải cạnh tranh bằng những sản phẩm sáng tạo, bằng chất lượng và giá cả của sản phẩm mà không thể trông chờ vào sự bảo trợ hay ưu đãi từ nhà nước.
Trong thời gian vừa qua, nhằm định hướng cho các công ty sản xuất, kinh doanh thuốc nắm lấy thời cơ, vượt qua thách thức để phát triển bền vững khi Việt Nam tham gia TPP, Bộ Y tế đã tổ chức hội thảo giới thiệu với các doanh nghiệp dược Việt Nam về các cam kết TPP liên quan đến lĩnh vực dược - mỹ phẩm và phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong việc tổ chức các hội thảo, hội nghị tuyên truyền về Hiệp định TPP. Các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức ở mức sâu và rộng hơn cũng sẽ được tiếp tục triển khai khi Hiệp định chính thức được Quốc hội phê chuẩn.
Đồng thời, không chỉ nâng cao nhận thức của doanh nghiệp dược về những cơ hội và thách thức của TPP, Bộ Y tế đã có những sự chuẩn bị mang tính định hướng cho sự phát triển của ngành Dược trước thềm của giai đoạn mới về hội nhập quốc tế ở mức độ cao, theo cả chiều sâu và chiều rộng. Cụ thể: “Chiến lược Quốc gia phát triển ngành Dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030” do Bộ Y tế xây dựng và trình Chính phủ đã được ban hành theo Quyết định số 68/2014/QĐ-TTg ngày 10/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó các quan điểm phát triển và các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đã được xác định rõ, kèm theo là Danh mục các dự án tập trung đầu tư và Danh mục các dự án ưu đãi đầu tư. Các dự án này đều hướng tới một mục tiêu chung là thúc đẩy doanh nghiệp dược Việt Nam phải nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh đạt tới các tiêu chuẩn quốc tế. Cũng với tầm nhìn về việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dược Việt Nam, tập trung đầu tư cho những sản phẩm chiến lược quốc gia mà Việt Nam có thế mạnh, hướng tới nâng tỉ lệ thuốc sản xuất trong nước đạt giá trị 80% thị trường vào năm 2020, Bộ Y tế đã xây dựng và trình Chính phủ quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 và sau đó đã được phê duyệt bởi Quyết định số 1976/QĐ-TTg ngày 30/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ.
Đặc biệt, một trong những thay đổi quan trọng về thể chế đối với sự phát triển của ngành Dược nói chung và của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh dược phẩm nói riêng trước thềm TPP là việc Quốc hội đã thông qua Luật dược (sửa đổi). Luật dược (sửa đổi) đã giải quyết rất nhiều bất cập đối với hoạt động của doanh nghiệp thông qua việc đơn giản hóa thủ tục hành chính trong việc cấp chứng chỉ hành nghề, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, gia hạn số đăng ký lưu hành thuốc; bổ sung thêm các hình thức dịch vụ kinh doanh về dược mà doanh nghiệp được phép thực hiện v.v.
Để Luật dược sớm đi vào cuộc sống. Bộ Y tế đã và đang tích cực xây dựng Nghị định và các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Dược, trong đó tập trung vào hướng dẫn các nội dung liên quan đến các điều kiện kinh doanh dược để đảm bảo thống nhất với Luật Đầu tư 2014 cũng như đảm bảo sự ổn định, nhất quán của toàn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về dược, tạo điều kiện để các doanh nghiệp cảm thấy an tâm, tin tưởng khi đầu tư hoặc triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh về dược tại Việt Nam.
Có thể nói đó là những bước chuẩn bị hết sức cơ bản và có ý nghĩa quan trọng của Bộ Y tế trong việc định hướng cho các doanh nghiệp dược và toàn ngành dược Việt Nam tự nâng cao năng lực cạnh tranh, vững vàng trước các thách thức và chủ động nắm bắt các cơ hội mà Hiệp định TPP nói riêng và hoạt động hội nhập quốc tế nói chung sẽ mang tới.
32. Cử tri tỉnh Bình Dương kiến nghị: Cử tri phản ánh, hiện nay trên các phưong tiện thông tin cử tri thường nghe quảng cáo các sản phẩm giống thuốc (như thực phẩm chức năng) có chứa các thành phần được xem là đặc trị chữa nhiều bệnh và rất tốt cho người sử dụng, tuy nhiên trên bao bì sản phẩm thì luôn ghi dòng chữ “sản phẩm này không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh ” nhưng khi quảng cáo thì hoàn toàn ngược lại khiến cử tri rất băn khoăn về chất lượng của các loại sản phẩm này, liệu rằng sử dụng chúng có hết bệnh không hay chỉ là cách đế các công ty Dược né tránh việc phải đóng thuế cao nếu ghi các sản phẩm trên là thuốc. Cử tri đề nghị Bộ Y tế sớm chỉ đạo kiểm tra vấn đề nêu trên và trả lời cho cử tri được rõ để cử tri yên tâm khi sử dụng các loại sản phẩm này ().
Trả lời:
Lợi dụng việc nhiều người tiêu dùng không hiểu biết đầy đủ về TPCN nên nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã tuyên truyền, phát tán nhiều tài liệu quảng cáo TPCN không đúng với tác dụng của sản phẩm, quảng cáo TPCN chữa đủ các loại bệnh tật, đặc biệt nhiều nhà in, nhà xuất bản, một số cơ quan báo đài...và đặc biệt là các trang mạng xã hội điều hành in ấn, quảng cáo TPCN như thuốc chữa bệnh.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực phẩm là hàng hóa đặc biệt, do vậy, việc quảng cáo thực phẩm phải được cơ quan chức năng thẩm định nội dung quảng cáo trước khi phát hành quảng cáo. Đối với thực phẩm chức năng, Bộ Y tế giao cho Cục An toàn thực phẩm thẩm định nội dung quảng cáo và cấp xác nhận nội dung quảng cáo. Các cơ quan phát hành quảng cáo và doanh nghiệp có sản phẩm TPCN chỉ được quảng cáo đúng nội dung đã thẩm định. Nếu vi phạm sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 158/2013/NĐ-CP, ngày 12/01/2013, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo.
Bên cạnh đó, trong thời gian qua, Bộ Y tế đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Thông tin và Truyền thông trong việc xử lý vi phạm nội dung quảng cáo. Cụ thể: Từ 01/01/2015 đến ngày 31/12/2015, Cục An toàn thực phẩm (ATTP) đã xử lý 203 cơ sở vi phạm nội dung quảng cáo thực phẩm với tổng số tiền phạt là 3.571.000.000đ. Chuyển sang Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông 14 trường hợp có dấu hiệu vi phạm về quảng cáo. 6 tháng đầu năm 2016: số cơ sở vi phạm về quảng cáo: 28 cơ sở với số tiền phạt là 215.000.000 đ.
Hiện nay có nhiều nội dung quảng cáo thực phẩm chức năng như thuốc trên các trang điện tử, mạng xã hội,.. Đối với các quảng cáo vi phạm về nội dung được phát hiện trên các website, Cục An toàn thực phẩm thực hiện xử lý theo quy định đối với các doanh nghiệp chịu trách nhiệm về sản phẩm. Còn trường hợp các trang website đăng quảng cáo vi phạm nội dung mà không có người thừa nhận và chịu trách nhiệm, Cục sẽ công khai thông tin vi phạm của website đó lên trang website của Cục ATTP (http://vfa.gov.vn/) nhằm thông báo cho người tiêu dùng biết và tránh mua hàng tại các website không rõ ràng đó. Mọi thông tin xử lý vi phạm về an toàn thực phẩm được công bố công khai đều đặn hằng tuần trên website Cục ATTP (www.vfa.gov.vn).
Nếu công dân phát hiện các nội dung quảng cáo sản phẩm thực phẩm chức năng không đúng theo quy định có thể cung cấp bằng chứng và yêu cầu tới các cơ quan chức năng giải quyết theo thẩm quyền được phân công. Bộ Y tế mong nhận được sự phối hợp của cử tri trong vấn đề này.
33. Cử tri tỉnh An Giang, Bến Tre, Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri cho rằng, chủ trương mua bảo hiểm y tế cho hộ gia đình là chủ trương đúng về lâu dài, tuy nhiên trong điều kiện hiện nay là chưa thích hợp, vì đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn, nhất là gia đình có mức sống trung bình hoặc những hộ nhiều nhân khẩu, để có cách nhiều người dân tham gia mua BHYT, đề nghị Nhà nước nên có lộ trình, phân kỳ thời gian đối với việc mua BHYT để tạo điều kiện để người dân tham gia bảo hiểm y tế, giảm bớt gánh nặng đối với các hộ gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn; cần quy định cụ thể đối với những hộ có đông thành viên để tham gia mua BHYT.
Trả lời:
Hiện nay, Bộ Y tế đang phối hợp với các Bộ ngành nghiên cứu trình Chính phủ và các cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định việc tham gia bảo hiểm y tế hộ gia đình theo hướng cho phép các thành viên được tham gia ở các thời điểm khác nhau trong năm và thực hiện giảm trừ mức đóng từ thành viên thứ hai khi tham gia bảo hiểm y tế.
34. Cử tri tỉnh TP. Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Quảng Nam kiến nghị: Kiến nghị xem xét lại quy định bắt buộc mua BHYT cả hộ gia đình đối với nhân dân, tạo điều kiện và khuyến khích cho người dân tham gia mua BHYT phù hợp với khả năng, mức thu nhập của từng hộ. Vì thực tế hộ dân ở vùng nông thôn còn khó khăn, không có khả năng tham gia cả hộ. Cử tri tiếp tục đề nghị ngành Y tế có giải pháp phù hợp với quy định bắt buộc mua thẻ BHYT cho cả hộ gia đình, nên quy định việc mua BHYT theo nhu cầu của người dân; quan tâm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, nhất là đối với bệnh nhân có BHYT, tránh có sự phân biệt đối xử giữa khám dịch vụ và khám bằng thẻ BHYT; đồng thời quan tâm chỉ đạo việc nâng cấp, đảm bảo trang thiết bị, thuốc điều trị cho bệnh nhân và thực hiện việc thanh quyết toán bảo hiểm y tế cho bệnh nhân đúng quy định.
Trả lời:
1. Về bảo hiểm y tế hộ gia đình
Hiện nay, Bộ Y tế đang phối hợp với các Bộ ngành nghiên cứu trình Chính phủ và các cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định việc tham gia bảo hiểm y tế hộ gia đình theo hướng cho phép các thành viên được tham gia ở các thời điểm khác nhau trong năm và có giảm trừ từ thành viên thứ hai.
2. Về nâng cao chất lượng khám chữa bệnh BHYT
Bộ Y tế đã và đang triển khai đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh BHYT, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia và hưởng đầy đủ quyền lợi BHYT. Cụ thể là tiếp tục tập trung vào giảm tải bệnh viện, ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh, đổi mới cơ chế tài chính, thanh toán chi phí đối với hầu hết các dịch vụ kỹ thuật cao, có chi phí lớn…..nhằm đáp ứng sự hài lòng của người bệnh, không có phân biệt đối xử trong khám bệnh, chữa bệnh giữa người có và người không có thẻ bảo hiểm y tế.
Xin tham khảo thêm tại phần trả lời Câu hỏi số 17.
3. Về việc nâng cấp trang thiết bị và thuốc điều trị cho bệnh nhân
Trong những năm qua, với mục tiêu đáp ứng ngày càng đầy đủ, chất lượng hơn về nhu cầu sử dụng thuốc của người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế, danh mục thuốc thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế đã được Bộ Y tế thường xuyên rà soát, sửa đổi và bổ sung và có những chính sách ưu tiên cho các nhóm đối tượng chính sách.
Ngày 17/11/2014, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 40/2014/TT-BYT ban hành và hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ bảo hiểm y tế thay thế Thông tư số 31/2011/TT-BYT ngày 11/7/2011 và Thông tư số 10/2012/TT-BYT ngày 08/6/2012. Danh mục thuốc gồm 845 hoạt chất, 1064 thuốc với đầy đủ các chuyên khoa ban hành kèm theo Thông tư số 40/2014/TT-BYT có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 đã đáp ứng được cơ bản nhu cầu điều trị, bảo đảm được quyền lợi cho người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế, đồng thời phù hợp với khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm y tế. Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới, Việt Nam là một trong số ít các nước trên thế giới có một danh mục thuốc tương đối đầy đủ, toàn diện và mở rộng so với mức phí đóng bảo hiểm y tế.
Bên cạnh đó Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 05/2015/TT-BYT ban hành Danh mục thuốc đông y, thuốc từ dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ bảo hiểm y tế thay thếdanh mục thuốc theo Thông tư số 12/2010/TT-BYT. Danh mục thuốc y học cổ truyền hiện có 229 chế phẩm thuốc, danh mục vị thuốc y học cổ truyền bao gồm 349 vị thuốc. Hầu hết các chế phẩm và vị thuốc được áp dụng cho tất cả các cơ sở khám chữa bệnh, bao gồm bệnh viện y học cổ truyền, bệnh viện có khoa y học cổ truyền, kể cả trạm y tế xã có đủ điều kiện khám chữa bệnhbảo hiểm y tế theo quy định và không phân hạng bệnh viện (các bệnh viện hạng khác nhau đều được sử dụng toàn bộ thuốc quy định trong Danh mục).
35. Cử tri tỉnh Đồng Tháp, Lâm Đồng kiến nghị: Cử tri phản ánh, việc khám, điều trị theo bảo hiểm y tế, chuyển tuyến còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho bệnh nhân; việc đổi thẻ bảo hiểm y tế của các đối tượng còn rườm rà; việc cấp thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, hộ cận nghèo còn chậm, tình trạng cấp trùng thẻ vẫn còn xảy ra; hiện tượng phân biệt đối xử giữa bệnh nhân có thẻ bảo hiểm y tế với bệnh nhân khám dịch vụ chưa được giải quyết dứt điểm vì thế không khuyến khích người dân mạnh dạn tham gia bảo hiểm y tế. Đề nghị các ngành chức năng sớm có giải pháp khắc phục triệt để; đề nghị cần giảm bớt thủ tục khi mua bảo hiểm y tế bắt buộc cho hộ gia đình, vì hiện nay thủ tục quá phức tạp, gây tốn kém, lãng phí thời gian trong việc xác nhận, chứng thực thông tin của người tham gia bảo hiểm y tế.
Trả lời:
1. Việc chuyển tuyến khám chữa bệnh
Việc chuyển tuyến của người bệnh nói chung và người bệnh bảo hiểm y tế nói riêng phụ thuộc vào tình trạng bệnh và khả năng đáp ứng yêu cầu điều trị của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Hiện tại, việc duy trì tuyến điều trị đang giúp cho việc giảm chi phí không cần thiết và giảm tải cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ở tuyến trên. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu tiếp cận với các dịch vụ khám chữa bệnh chất lượng cao ở tuyến tỉnh và tuyến Trung ương của người bệnh, theo quy định của Luật BHYT số 46/2014/QH13, việc chuyển tuyến đã được quy định thuận lợi hơn cho người bệnh có BHYT, cụ thể:
- Từ ngày 01/01/2016, mở thông tuyến khám chữa bệnh tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh, người tham gia bảo hiểm y tế đăng ký khám chữa bệnh ban đầu tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện được quyền khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh và có mức hưởng theo quy định của Luật
- Người dân tộc thiểu số và người thuộc hộ gia đình nghèo tham gia bảo hiểm y tế đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người tham gia bảo hiểm y tế đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo khi tự đi khám, chữa bệnh không đúng tuyến được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với bệnh viện tuyến huyện, điều trị nội trú đối với bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến trung ương và có mức hưởng theo quy định của Luật.
Một số bệnh cần điều trị dài ngày (trong đó có bệnh hiểm nghèo) đã được nghiên cứu đưa vào danh mục bệnh sử dụng giấy chuyển viện trong năm dương lịch (chỉ cần 1 giấy chuyển viện, sử dụng cả năm), hiện tại có 47 bệnh được quy định trong Thông tư số 37/TT-BYT. Hiện nay, Bộ Y tế đang tổng hợp và nghiên cứu, bổ sung thêm một số bệnh để đáp ứng đúng nhu cầu điều trị của nguời bệnh tham gia BHYT.
2. Về việc đổi thẻ bảo hiểm y tế
Về phản ánh, việc đổi thẻ bảo hiểm y tế của các đối tượng còn rườm rà; việc cấp thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, hộ cận nghèo còn chậm, tình trạng cấp trùng thẻ vẫn còn xảy ra: vấn đề này thuộc phạm vi thực hiện của cơ quan bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã và đang chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành, đơn vị, cá nhân có liên quan tổng điều tra, rà soát, kê khai người tham gia bảo hiểm y tế để làm cơ sở cấp mã số định danh, nhằm tránh cấp trùng thẻ. Tiếp thu ý kiến cử tri, Bộ Y tế sẽ cùng với Bảo hiểm xã hội Việt Nam kiểm tra, chấn chỉnh việc cấp, phát thẻ bảo hiểm y tế để bảo đảm đúng quy định, không gây khó khăn, phiền hà cho đối tượng.
36. Cử tri tỉnh Đà Nẵng, Bến Tre kiến nghị: Cử tri kiến nghị, để chính sách bảo hiểm y tế tự nguyện đáp ứng đúng mục đích và nguyện vọng khám chữa bệnh của người dân thì ngành Y tế cần xem xét điều chỉnh theo hướng: Thẻ Bảo hiểm y tế có giá trị sử dụng tại bất cứ bệnh viện nào trên phạm vi cả nước mà không bị xem là trái tuyến khi người dân có nhu cầu đến khám chữa bệnh.
Trả lời:
Kiến nghị của cử tri là hoàn toàn chính đáng, tuy nhiên việc cho phép người có thẻ bảo hiểm y tế được khám chữa bệnh tại bất cứ bệnh viện nào trên phạm vi cả nước mà không bị xem là trái tuyến cần phải được xem xét trên cơ sở tình trạng bệnh và khả năng đáp ứng yêu cầu điều trị của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Hiện tại, việc duy trì tuyến điều trị đang giúp cho việc giảm chi phí không cần thiết và giảm tải cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ở tuyến trên. Luật Bảo hiểm y tế số 46/2014/QH13 có hiệu lực từ 01/01/2015 đã có nhiều đổi mới, thông tuyến huyện, đáp ứng nhu cầu tiếp cận với các dịch vụ khám chữa bệnh chất lượng cao ở tuyến tỉnh và tuyến Trung ương của người bệnh, việc chuyển tuyến thuận lợi hơn cho người bệnh có bảo hiểm y tế, cụ thể:
- Từ ngày 01/01/2016, mở thông tuyến khám chữa bệnh tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh, người tham gia bảo hiểm y tế đăng ký khám chữa bệnh ban đầu tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện được quyền khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh và có mức hưởng theo quy định của Luật.
- Người dân tộc thiểu số và người thuộc hộ gia đình nghèo tham gia bảo hiểm y tế đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người tham gia bảo hiểm y tế đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo khi tự đi khám, chữa bệnh không đúng tuyến được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với bệnh viện tuyến huyện, điều trị nội trú đối với bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến trung ương và có mức hưởng theo quy định của Luật
Một số bệnh cần điều trị dài ngày (trong đó có bệnh hiểm nghèo) đã được nghiên cứu đưa vào danh mục bệnh sử dụng giấy chuyển viện trong năm dương lịch (chỉ cần 1 giấy chuyển viện, sử dụng cả năm), hiện tại có 47 bệnh được quy định trong Thông tư số 37/2014/TT-BYT. Hiện nay, Bộ Y tế đang tổng hợp và nghiên cứu, bổ sung thêm một số bệnh để đáp ứng đúng nhu cầu điều trị của nguời bệnh tham gia bảo hiểm y tế.
37. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Cử tri đồng tình với chính sách phát triển Bảo hiểm y tế toàn dân theo Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật BHYT, trong đó quy định tham gia BHYT đối với hộ gia đình là tất cả người có tên trong sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phát sinh bất cập đó là một số thành viên của hộ gia đình làm ăn xa (cả năm về vài lần), không sinh sống ở địa phương, như vậy nếu tham gia BHYT theo quy định thì việc khám, chữa bệnh BHYT là rất khó khăn, không thực hiện được. Cử tri đề nghị nghiên cứu có hướng dẫn thực hiện theo hướng người dân được lựa chọn nơi tham gia BHYT phù hợp với điều kiện làm ăn sinh sống, để khuyến khích người dân tham gia, góp phần thực hiện thành công chủ trương BHYT toàn dân.
Trả lời:
Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế:
1. Người tham gia bảo hiểm y tế có quyền đăng ký khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến xã, tuyến huyện hoặc tương đương; trừ trường hợp được đăng ký tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến tỉnh hoặc tuyến trung ương theo quy định của Bộ Y tế.
Trường hợp người tham gia bảo hiểm y tế phải làm việc lưu động hoặc đến tạm trú tại địa phương khác thì được khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với tuyến chuyên môn kỹ thuật và nơi người đó đang làm việc lưu động, tạm trú theo quy định của Bộ Y tế.
2. Người tham gia bảo hiểm y tế được thay đổi cơ sở đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu vào đầu mỗi quý.
Để được lựa chọn nơi tham gia BHYT phù hợp với điều kiện làm ăn sinh sống đề nghị người dân ra cơ quan Bảo hiểm xã hội nơi gần nhất để được hướng dẫn thủ tục về thay đổi nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu cho phù hợp với nơi sinh sống.
38. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Cử tri đề nghị các Bộ, ngành Trung ương xem xét cấp thẻ BHYT cho tất cả các thành viên trong hộ gia đình thương binh, người có công với cách mạng, giống nhưng chính sách hỗ trợ cho các hộ nghèo và xem xét cấp thẻ BHYT cho vợ liệt sĩ tái giá đang hưởng trợ cấp.
Trả lời:
1. Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế, thân nhân của người có công với cách mạng theo quy định của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng được ngân sách nhà nước hỗ trợ toàn bộ mức đóng BHYT
Việc hướng dẫn “mua thẻ bảo hiểm y tế cho cho thân nhân của người có công” do Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện (Khoản 1 Điều 53, Khoản 2 Điều 68 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP).
- Việc triển khai hướng dẫn thực hiện cấp thẻ bảo hiểm y tế cho nhóm đối tượng là thân nhân của người có công do ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam tổ chức thực hiện theo quy định hiện hành.
2. Luật BHYT và các văn bản hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế đã hướng dẫn cụ thể đối tượng được xác định là thân nhân của người có công với cách mạng, không quy định rõ đối tượng vợ liệt sĩ tái giá đang hưởng trợ cấp
Bộ Y tế đề nghị cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính quy định cụ thể chính sách cho vợ liệt sỹ tái giá đang hưởng trợ cấp.
39. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Người dân ở các xã bãi ngang, ven biển vui mừng được nhà nước quan tâm cho hưởng chế độ BHYT và được địa phương cấp thẻ BHYT, tuy nhiên khi con em ở các địa phương này vào học ở các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp thì nhà trường yêu cầu phải tham gia BHYT. Cử tri đề nghị các Bộ, ngành liên quan sớm có văn bản quy định, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện để gia đình và các em học sinh, sinh viên bớt gánh nặng về chi phí trong học tập.
Trả lời:
- Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế, học sinh, sinh viên học tập tại các trường học trong hệ thống giáo dục quốc dân đều thuộc đối tượng có trách nhiệm tham gia bảo hiểm y tế, được ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần mức đóng bảo hiểm y tế hoặc được ngân sách nhà nước hỗ trợ toàn bộ mức đóng, mức hỗ trợ này tùy theo từng đối tượng học sinh, sinh viên thuộc các gia đình như: hộ gia đình bình thường, hộ gia đình nghèo và hộ cận nghèo đang sinh sống ở các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ – CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo và các huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao, được áp dụng cơ chế chính sách theo NQ số 30a/2008/NQ – CP (kể cả học sinh, sinh viên thuộc hộ gia đình thuộc các xã ngang ven biển, huyện đảo theo quy định của Chính phủ)...
- Về phạm vi quyền lợi, mức hưởng bảo hiểm y tế của học sinh, sinh viên, Bộ Y tế và các Bộ, ngành liên quan đã có các văn bản quy định, hướng dẫn rất rõ và cụ thể tại các Thông tư. Nghị định hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế. Đề nghị cử tri tiếp tục tuyên truyền, vận động học sinh, sinh viên và các gia đình thực hiện theo đúng các quy định về pháp luật hiện hành của bảo hiểm y tế, học sinh, sịnh viên trước khi đăng ký tham gia bảo hiểm y tế tại các trường học, cần kê khai đầy đủ lịch sử bản thân đối tượng, kèm theo các thông tin cần thiết cho việc xác định nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm y tế.
40. Cử tri TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri phản ảnh việc Luật BHYT mới có quy định đối tượng là Cựu chiến binh từng tham gia kháng chiến trước 30/4/1975 được miễn viện phí khám chữa bệnh 100%, còn những đối tượng tham gia chiến đấu tại Campuchia, biên giới phía Bắc sau 30/4/1975 thì không thuộc diện này. Điều này là không hợp lý và không thật sự công bằng. Đề nghị các Bộ, ngành liên quan xem xét lại vấn đề trên để có hướng giải quyết phù hợp.
Trả lời:
Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế, Cựu chiến binh (trong đó có đối tượng tham gia chiến đấu tại Campuchia, biên giới phía Bắc sau ngày 30/4/1975) là đối tượng được cấp thẻ BHYT miễn phí từ nguồn ngân sách Nhà nước bảo đảm và được Quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi phí khám chữa bệnh trong phạm vi quyề lợi được hưởng.
Những đối tượng này được quy định cụ thể tại các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành:
(1) Pháp lệnh cựu chiến binh và Nghị định số 150/2006/NĐ-CP ngày 12/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh cựu chiến binh, Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng
(2) Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia, giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc).
(3) Thông tư liên tịch số 01/2012/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC ngày 05/01/2012 của liên Bộ Quốc phòng-Lao động, Thương binh và Xã hội - Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc, có hiệu lực từ ngày 01/3/2012.
(4) Nghị định số 23/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ quy định một số chế độ đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, giúp bạn Lào sau ngày 30/4/1975 có từ đủ 20 trở lên phục vụ trong quân đội, công an đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc, có hiệu lực từ ngày 19/5/2012.
Đề nghị cử tri TP. Hồ Chí Minh quan tâm giám sát việc thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với cựu chiến binh tại địa phương.
41. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Cử tri kiến nghị Chính phủ xem xét, nâng mức hỗ trợ bảo hiểm y tế cho đối tượng là thân nhân của sỹ quan quân đội khi bị bệnh hiểm nghèo, vì mức hỗ trợ nhu hiện nay còn thấp (chỉ bằng hoặc dưới mức 40%).
Trả lời:
Theo quy định tại Điểm l khoản 3 Điều 12 sửa đổi, bổ sung của Luật Bảo hiểm y tế, thân nhân sĩ quan là đối tượng được ngân sách nhà nước hỗ trợ toàn bộ mức đóng bảo hiểm y tế và được Quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 80% chi phí khám chữa bệnh theo phạm vi quyền lợi bảo hiểm y tế.
Luật Bảo hiểm y tế không quy định quỹ bảo hiểm y tế hỗ trợ người mắc bệnh hiểm nghèo, tuy nhiên Quyết định số 14/2012/QĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số139/2002/QĐ-CP của Chính Phủ đã quy định việc lập, duy trì và sử dụng quỹ hỗ trợ khám chữa bệnh cho người nghèo, mắc bệnh hiểm nghèo. Theo đó, UBND các tỉnh, thành phố phải thành lập quỹ này để hỗ trợ các trường hợp người bệnh không có khả năng cùng chi trả, trường hợp sử dụng dịch vụ y tế ngoài phạm vi quyền lợi bảo hiểm y tế,…
Đề nghị cử tri Đồng Nai quan tâm giám sát việc thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với đối tượng này tại địa phương.
42. Cử tri tỉnh Tuyên Quang kiến nghị: Xem xét, cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại các thôn, xóm, bản không thuộc vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn (vùng 135)
Trả lời:
1. Việc quy định các đối tượng được ngân sách nhà nước hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế như kiến nghị của cử tri đã được Chính phủ xem xét và trình Quốc hội khi sửa đổi bổ sung Luật Bảo hiểm y tế nhằm đáp ứng với nhu cầu thực tế, đảm bảo sự công bằng trong thụ hưởng quyền lợi về bảo hiểm y tế, phù hợp với khả năng đáp ứng của ngân sách nhà nước trong các giai đoạn phát triển kinh tế xã hội để tiến tới mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân.
Theo quy định Khoản 3 Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế thì: Người dân tộc thiểu số là người nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo đều được cấp thẻ bảo hiểm y tế từ nguồn ngân sách Nhà nước đảm bảo.
Trường hợp Người dân tộc thiểu số thuộc hộ gia đình cận nghèo được ngân sách Nhà nước hỗ trợ từ 70-100% mức đóng bảo hiểm y tế; Trường hợp người dân tộc thiểu số có mức sống trung bình được xác định theo thì được ngân sách Nhà nước hỗ trợ tối thiểu 30% mức đóng bảo hiểm y tế. Quy định này cơ bản đáp ứng nhu cầu hỗ trợ cho người dân tộc thiểu số sinh sống tại các vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn kể cả vùng thành thị, là một chính sách an sinh xã hội phù hợp giúp chia sẻ khó khăn, góp phần đảm bảo công bằng và giúp người dân tiếp cận được với dịch vụ y tế.
Các đối tượng còn lại đang cư trú tại các phường, thị trấn không thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo nên tham gia Bảo hiểm y tế theo hình thức hộ gia đình để được hưởng các quyền lợi giảm trừ mức đóng, giảm gánh nặng về tài chính khi ốm đau..
43. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Đề nghị có chính sách cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc kinh đã định cư lâu năm tại các xã vùng cao, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn.
Trả lời:
Trong điều kiện ngân sách còn hạn chế và để tránh tình trạng bao cấp tràn lan, Luật Bảo hiểm y tế có hiệu lực từ ngày 1/1/2015 đã quy định cụ thể hơn về các đối tượng được Ngân sách nhà nước đảm bảo đóng bảo hiểm y tế cho người thuộc hộ gia đình nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn. Riêng người thuộc hộ gia đình cận nghèo được Ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu 70% - 100% mức đóng bảo hiểm y tế và người thuộc hộ gia đình làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình được Ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu 30% mức đóng bảo hiểm y tế.
Như vậy, người Kinh thuộc gia đình nghèo đã được Nghà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế; người Kinh thuộc hộ gia đình cận nghèo, người dân tộc Kinh đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, xã đảo, huyện đảo đều được Nhà nước hỗ trợ 70% mức đóng bảo hiểm y tế.
Quy định này nhằm hỗ trợ cho người nghèo, người dân tộc thiểu số sinh sống tại các vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, là một chính sách an sinh xă hội phù hợp giúp chia sẻ khó khăn, góp phần đảm bảo công bằng và giúp người dân tiếp cận được với dịch vụ y tế, đảm bảo sự công bằng trong thụ hưởng quyền lợi về BHYT, phù hợp với khả năng đáp ứng của ngân sách nhà nước trong các giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, tiến tới mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Nghị quyết số 98/UBTVQH12 và chỉ đạo của Chính phủ cũng đề nghị các địa phương căn cứ khả năng ngân sách địa phương và nguồn kết dư từ quỹ bảo hiểm y tế để mua thẻ bảo hiểm y tế cho nhân dân tiến tới bao phủ bảo hiểm y tế. Vì vậy, cơ quan chức năng cần tham mưu để đề xuất địa phương mua thẻ BHYT cho đối tượng này.
44. Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri tiếp tục kiến nghị Chính phủ xem xét quy định hỗ trợ bảo hiểm y tế cho các đối tượng: vợ liệt sĩ tái giá; những người làm nhiệm vụ không chuyên trách cấp xã; người thờ cúng liệt sĩ,...
Trả lời:
1. Về đề nghị hỗ trợ bảo hiểm y tế cho đối tượng vợ liệt sỹ tái giá, người thờ cúng liệt sỹ
Bộ Y tế đề nghị cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính nghiên cứu trình Chính phủ xem xét, bổ sung đối tượng theo pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng.
2. Về đề nghị hỗ trợ bảo hiểm y tế cho đối tượng là những người làm việc không chuyên trách cấp xã
Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế người làm việc không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn theo quy định của pháp luật là người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc. Đây là những đối tượng lao động, có thu nhập vì vậy đối tượng này không được ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng bảo hiểm y tế. Do đối tượng này chỉ hưởng phụ cấp nên Luật Bảo hiểm y tế quy định đối tượng này đóng bảo hiểm y tế theo mức lương cơ sở.
45. Cử tri tỉnh Thái Bình kiến nghị: Bảo hiểm y tế cho trẻ từ 0 - 6 tuổi cần được khám chữa bệnh miễn phí ở tất cả các cơ sở y tế trên toàn quốc.
Trả lời:
Trẻ em dưới 6 tuổi là đối tượng được quan tâm đặc biệt khi ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, cụ thể:
- Trẻ em dưới 6 tuổi là đối tượng được ngân sách Nhà nước hỗ trợ toàn bộ mức đóng bảo hiểm y tế.
- Được quỹ bảo hiểm y tế chi trả 100% chi phí KCB trong phạm vi, mức hưởng; không áp dụng quy định cùng chi trả theo tỷ lệ đối với 1 số thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật;
- Được quyền đăng ký khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế tuyến xã, huyện, cơ sở y tế tư nhân, bệnh viện chuyên khoa Nhi, sản- nhi; tỉnh và trung ương (Thông tư số 40/2015/TT-BYT ngày 16/11/2015 của Bộ Y tế quy định đăng ký khám chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu và chuyển tuyến khám chữa bệnh bảo hiểm y tế).
- Trường hợp cấp cứu, trẻ em cũng như những người tham gia bảo hiểm y tế được khám bệnh, chữa bệnh tại bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào và được hưởng BHYT như đúng tuyến.
Ngoài các quy định nêu trên, từ 1/1/2016, thực hiện mở thông tuyến khám chữa bệnh tuyến huyện, tuyến xã trong cùng địa bàn tỉnh. Theo đó, người tham gia bảo hiểm y tế (trong đó có Trẻ em dưới 6 tuổi) có đăng ký khám chữa bệnh ban đầu ở một trạm y tế xã hoặc một phòng khám đa khoa hoặc một bệnh viện huyện thì được quyền đi khám chữa bệnh ở các cơ sở khám chữa bệnh tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh. Điều đó có nghĩa là việc khám chữa bệnh bảo hiểm y tế người tham gia bảo hiểm y tế sẽ thuận lợi hơn, không bị giới hạn bởi một cơ sở khám chữa bệnh ban đầu mà vẫn được thanh toán theo đúng mức hưởng quy định.
Bộ Y tế sẽ tiếp tục nghiên cứu đề xuất của cử tri về việc trẻ em dưới 6 tuổi được đi khám chữa bệnh bảo hiểm y tế không theo tuyến để bổ sung vào các văn bản hướng dẫn cho phù hợp với thực tế. Đồng thời xem xét quy định thời hạn sử dụng Giấy chuyển tuyến cho phù hợp với thực tế, đáp ứng yêu cầu của người bệnh.
46. Cử tri tỉnh Bắc Giang kiến nghị: Hiện nay giá các dịch vụ y tế đều tăng cao, đặc biệt là năm 2016 khi người bệnh có thẻ Bảo hiểm y tế được khám chữa bệnh thông tuyến huyện và tương đương gây ra tình trạng vượt quỹ định suất tại các bệnh viện tuyến huyện. Do đó, đề nghị nhà nước tăng quỹ định suất bảo hiểm y tế để giảm bớt khó khăn về kinh phí cho các bệnh viện tuyến huyện.
Trả lời:
Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế từ 01/01/2016, việc thông tuyến khám chữa bệnh BHYT tại tuyến huyện sẽ tạo nhiều thuận lợi cho người bệnh trong tiếp cận dịch vụ KCB nhưng cũng dẫn đến khó khăn trong việc quản lý quỹ bảo hiểm y tế đối với đơn vị đang thực hiện thanh toán bảo hiểm y tế theo phương thức định suất và có nguy cơ gây ra tình trạng vượt quỹ định suất được giao tại các cơ sở y tế này.
Để khắc phục tình trạng trên, Bộ Y tế xin tiếp thu và đang phối hợp với Bộ Tài chính, Bảo hiểm xã hội Việt Nam sửa đổi bổ sung Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC để hướng dẫn thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo định suất phù hợp với thực tiễn theo hướng có điều chỉnh quỹ tại các cơ sở đảm bảo chi trả đầy đủ các chi phí thực tế đã sử dụng cho người bệnh
47. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị: Đề nghị Bộ Y tế xem xét đề xuất Chính phủ nâng mức ngân sách Nhà nước hỗ trợ mức đóng Bảo hiểm y tế từ 30% lên 50% đối với nhóm học sinh và hộ gia đình nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình tham gia Bảo hiểm y tế.
Trả lời:
Theo Nghị định số 105/2014/NĐ-CP ngày 15/11/2014 của Chính phủ thì học sinh, sinh viên, hộ gia đình nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình tham gia Bảo hiểm y tế được ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu 30% mức đóng. Nếu ngân sách nhà nước, bao gồm cả ngân sách của địa phương có khả năng thì sẽ nâng mức hỗ trợ này lên cao hơn.
Bộ Y tế tiếp thu ý kiến đề nghị của cử tri và đang tiếp tục nghiên cứu, đề xuất với cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh các quy định trên, nâng mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế của học sinh, sinh viên và hộ gia đình nông, lâm, ngư nghiệp có mức sống trung bình tham gia bảo hiểm y tế từ 30% lên 50% mức đóng bảo hiểm y tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển tỷ lệ các nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm y tế theo quy định.
48. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị: Theo Công văn số 5349/BHXH-ST ngày 28 tháng 12 năm 2015 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam về việc gia hạn thẻ Bảo hiểm y tế đối với nhóm đối tượng: người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế - xã hội khó khăn; người sinh sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người sinh sống tại vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được đổi thẻ Bảo hiểm y tế mới có thời hạn sử dụng từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2016. Cử tri kiến nghị Nhà nước gia hạn cho các đối tượng này được hưởng chính sách Bảo hiểm y tế đến năm 2020.
Trả lời:
Việc cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo được thực hiện theo Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về khám, chữa bệnh cho người nghèo. Theo đó, nhân dân các xã có điều kiện kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135) thuộc diện được cấp thẻ bảo hiểm y tế.
Như vậy, các xã đặc biệt khó khăn được điều chỉnh theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ trong các giai đoạn đầu tư của Chương trình 135, cụ thể như sau:
- Quyết định số 204/1998/QĐ-TTg ngày 02/01/2016 phê duyệt danh sách 2.275 xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu của 48 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vào diện đầu tư của Chương trình 135 năm giai đoạn 2016 - 2020.
- Đối với các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo giai đoạn 2013-2015 theo Quyết định số 539/QĐ-TTg ngày 01/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ sẽ được bổ sung để quy định danh sách các xã đặc biệt khó khăn thuộc diện đầu tư của Chương trình 135 năm giai đoạn 2016 - 2020. Theo đó người đang sinh sống tại đây sẽ được cấp thẻ bảo hiểm y tế trong các năm tiếp theo.
49. Cử tri tỉnh An Giang, Bắc Ninh, Cà Mau, Lâm Đồng kiến nghị: Cử tri rất lo ngại về tình trạng hàng hóa trên thị trường không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đang diễn biến phức tạp như thực phẩm kém chất lượng, không rõ nguồn gốc được bày bán với giá rẻ; người sản xuất vì chạy theo lợi nhuận đã sử dụng các hóa chất độc hại trong bảo quản thực phẩm; các loại rau, quả sử dụng thuốc bảo vệ thực vật quá mức hoặc các chất không được phép sử dụng trong thực phẩm hay việc nhập khẩu các loại thực phẩm độc hại từ Trung Quốc.
Hiện nay có tới ba Bộ có chịu trách nhiệm về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm. Đề nghị Chính phủ làm rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm; đề nghị quy trách nhiệm cụ thể cho ngành Y tế là hợp lý, để tránh tình trạng quản lý chồng chéo như hiện nay. Đồng thời, chỉ đạo quyết liệt hơn nữa việc thanh tra, kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa, phát hiện kịp thời và xử lý triệt để các vụ việc vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm; tăng cường kiểm soát chặt chẽ các cửa khẩu, nhất là hoạt động nhập khẩu qua đường tiểu ngạch, nhằm bảo đảm an toàn sức khỏe người dân.
Trả lời:
Hiện nay, việc phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm đã được quy định cụ thể tại Luật An toàn thực phẩm, Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày 25/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn thực phẩm và Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT ngày 09/4/2014 của liên bộ: Y tế - Công thương - Nông nghiệp và PTNT hướng dẫn việc phân công phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Việc phân công trách nhiệm cho các nhóm ngành hàng rất rõ ràng, việc kiểm soát nuôi trồng và giám sát tồn dư thuốc bảo vệ thực vật đối với rau quả trên thị trường đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai trong nhiều năm vừa qua, cụ thể:
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong năm 2015, đối với Chương trình giám sát an toàn thực phẩm rau, thịt tiêu thụ tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, kết quả giám sát từ tháng 8 đến hết tháng 11/2015 cho thấy: trong 353 mẫu rau phát hiện 8 mẫu có hoạt chất cấm Methamidophos và Endosulfan, 29 mẫu có dư lượng hoạt chất thuốc BVTV vượt mức giới hạn cho phép tập trung vào các loại như Metalaxyl, Permethrin, Cypermethrin, Metalaxyl, Profenofos, Dimethoate, Chlorpyrifos, Imidacloprid, Deltamethrin, Dichloran (chiếm 8,2%)[1]. Với các mẫu giám sát vượt giới hạn quy định, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã hướng dẫn các đơn vị chức năng thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của 2 thành phố tổ chức thực hiện truy xuất nguồn gốc và nhắc nhở, xử lý theo quy định.
Về giám sát thực phẩm nhập khẩu, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục thực hiện kiểm tra hàng hóa có nguồn gốc động vật và thực vật nhập khẩu theo Thông tư 25/2010/TT-BNNPTNT và Thông tư 12/2015/TT-BNNPTNT. Bộ đã tiến hành kiểm tra 42.719 lô hàng hóa có nguồn gốc thực vật có tổng trọng lượng là: 2.901.796,243 tấn với hơn 120 mặt hàng nhập khẩu từ 50 quốc gia: đã thực hiện lấy 475 mẫu (rau, củ, quả) phân tích dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, phát hiện 97 mẫu có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật nhưng dưới mức tối đa cho phép (chiếm 20,4%), 01 mẫu hành tím xuất xứ từ Indonesia có dư lượng Chlorpyrifos vượt mức tối đa cho phép. Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản đã phối hợp với Cục Bảo vệ thực vật có văn bản gửi cơ quan Kiểm dịch nông nghiệp Indonesia đề nghị điều tra nguyên nhân, truy xuất nguồn gốc lô hàng và áp dụng biện pháp khắc phục phù hợp. Đối với thực phẩm thuộc quản lý của Bộ Y tế, các đơn vị chức năng đã kiểm tra 21.633 lô (156.202 tấn), trong đó có 16 lô (13,1 tấn) không đạt. Các lô không đạt đều được xử lý theo quy định (tái xuất hoặc tiêu hủy).
50. Cử tri tỉnh An Giang, TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri rất lo lắng về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm hiện nay, các thực phẩm bẩn không đảm bảo chất lượng, sử dụng chất cấm, nhiễm độc đe dọa trực tiếp đến sức khỏe của người dân, gây nên sự bất an cho toàn xã hội. Cử tri cho rằng việc xử phạt về vệ sinh an toàn thực phẩm chưa nghiêm, mức độ xử phạt, chế tài chưa đủ sức răn đe, nên vấn đề vi phạm còn diễn ra phổ biến, phức tạp, tinh vi hơn, làm ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi và sức khỏe người tiêu dùng.
Để đảm bảo an toàn sức khỏe người dân, cử tri đề nghị tăng mức xử phạt và có chế tài nghiêm đối với các trường hợp vi phạm; cử tri đề nghị ngoài xử phạt hình chính thật nặng, thì cần xử lý hình sự đối với các hành vi này nhằm mang tính răn đe.
Trả lời:
Theo văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, mức phạt tiền tối đa đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm là 100 triệu đồng đối với cá nhân và 200 triệu đồng đối với tổ chức. Luật An toàn thực phẩm và Nghị định số 178/2013/NĐ-CP cho phép áp dụng việc xử phạt vi phạm hành chính theo giá trị sản phẩm vi phạm và mức phạt tối đa có thể lên tới 7 lần giá trị hang hóa vi phạm. Ngoài ra, theo Quy định của Luật chất lượng SP hàng hóa năm 2007 thì đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng (đe dọa đến sự an toàn của người) hoặc những trường hợp vi phạm lặp đi lặp lại thì phải công bố công khai danh tính, tên cơ sở, tên hàng hóa vi phạm, mức độ vi phạm đến các phương tiện thông tin đại chúng để cho mọi người dân biết và lựa chọn sản phẩm an toàn để tẩy chay SP không an toàn. Đặc biệt Bộ Luật hình sự mới được Quốc hội thông qua cuối năm 2015, có hiệu lực từ 01/7/2016, có quy định những hành vi vi phạm an toàn thực phẩm ở mức nghiêm trọng còn có thể bị xử lý hình sự.
Bộ Y tế đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Tp. HCM triển khai quyết liệt Quyết định số 38/2015/QĐ-TTg ngày 09/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ thí điểm triển khai thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm tại quận, huyện, thị xã và phường, xã, thị trấn của thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Điều này góp phần tăng cường trách nhiệm quản lý an toàn thực phẩm ở tuyến địa phương.
Trong đợt cao điểm (Tết Nguyên đán Bính Thân và mùa lễ hội Xuân 2016), Ban Chỉ đạo liên ngành VSATTPTW đã thành lập 06 đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành tiến hành thanh tra, kiểm tra tại 12 tỉnh, thành phố trọng điểm. Tại các địa phương có 9.441 đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành và chuyên ngành vệ sinh an toàn thực phẩm được thành lập và hoạt động ở 03 cấp. Tổng số cơ sở đã được kiểm tra trên cả nước là 109.231 cơ sở, phát hiện 20.586 cơ sở vi phạm về an toàn thực phẩm, đã xử lý 5.214 cơ sở trong đó phạt tiền 3.584 cơ sở với số tiền phạt: 10,817,167,500 đồng. Ngoài các hình thức xử phạt chính, còn áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả: đình chỉ hoạt động 75 cơ sở; đình chỉ lưu hành 55 loại thực phẩm; 173 cơ sở có nhãn phải khắc phục, 2739 loại thực phẩm bị tiêu hủy do không đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm.
51. Cử tri thành phố Hà Nội, Tiền Giang kiến nghị: Cử tri tiếp tục phản ánh tại nhiều địa phương thực phẩm bẩn, thực phẩm lạm dụng hóa chất độc hại, chất cấm... bày bán tràn lan, thiếu sự giám sát của các cơ quan chức năng; Kiến nghị Bộ phối hợp với các Bộ ngành có liên quan tăng cường thanh kiểm tra công tác vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm đảm bảo sức khỏe cho người dân. Bởi, hiện nay, vụ việc ngộ độc thực phẩm xảy ra ngày càng nhiều trong khi các vấn đề về quản lý chất cấm trong chăn nuôi, hàm lượng chất độc, thuốc bảo vệ thực vật tồn dư trong thực phẩm còn nhiều bất cập, thiếu chặt chẽ trong thực hiện trách nhiệm và công tác phối hợp quản lý của các ngành chức năng liên quan.
Trả lời:
Việc thanh tra, kiểm tra về an toàn thực phẩm đã được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật, ở Trung ương do Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương thực hiện; ở địa phương do các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh/thành phố và UBND cấp quận (huyện), xã (phường) thực hiện. Thanh tra, kiểm tra an toàn thực phẩm thực hiện theo hình thức liên ngành hoặc chuyên ngành theo quy định của Luật an toàn thực phẩm, Nghị định số 38/2012/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT/BYT-BNN-BCT và các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thanh tra. Bên cạnh việc thanh tra, kiểm tra, lấy mẫu hậu kiểm về an toàn thực phẩm, nhằm bảo đảm an toàn thực phẩm, các Bộ đã có các giải pháp quản lý bảo đảm an toàn thực phẩm như: Quản lý theo chuỗi, kiểm soát quá trình sản xuất, chế biến, quá trình chăn nuôi, trồng trọt v.v… Siết chặt các khâu nuôi, trồng, chế biến, sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh, kiểm soát chất cấm, kháng sinh cấm, thuốc thú y, hóa chất bảo vệ thực vật v.v…
Ngày 09/5/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 13/CT-TTg tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, Bộ Y tế đang phối hợp với các Bộ, ngành triển khai thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg, chỉ đạo các địa phương triển khai nghiêm Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, làm rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm và xử lý nghiêm những đơn vị, cá nhân không hoàn thành trách nhiệm, buông lỏng quản lý.
Về kết quả thanh kiểm tra, xử lý vi phạm: xin tham khảo nội dung trả lời Câu hỏi số 50.
52. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Hiện nay, cử tri rất lo lắng về an toàn vệ sinh thực phẩm, tình trạng sử dụng chất cấm quá mức quy định trong chăn nuôi ảnh hưởng đến sức khỏe người dân, trong khi người dân không thể có khả năng, điều kiện để phân biệt. Cử tri đề nghị Bộ Y tế quan tâm chỉ đạo mạnh công tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó nghiên cứu đầu tư trang, thiết bị, dụng cụ kiểm tra ở cơ sở địa phương và bố trí người kiểm tra thường xuyên những thực phẩm sử dụng hằng ngày để giúp người dân nhận biết, lựa chọn thực phẩm an toàn và an tâm sử dụng.
Trả lời:
Về hoạt động thanh kiểm tra, xin tham khảo phần trả lời Câu hỏi 50.
Ngoài ra, năm 2015, ngành Nông nghiệp đã triển khai quyết liệt việc giám sát phát hiện sử dụng chất cấm trong chăn nuôi và cơ bản đã kiểm soát được. Năm 2016, Ban Chỉ đạo liên ngành trung ương chọn chủ để Tháng hành động vẫn tiếp tục tập trung vào rau, thịt là những sản phẩm tiêu dùng nhiều hàng ngày. Trên cơ sở đó các Bộ sẽ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và PTNT để thanh tra, kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông sản và công bố công khai.
Bộ Y tế đã phối hợp với các cơ quan chức năng tăng cường thanh tra, kiểm tra, đồng thờiyêu cầu các đơn vị, các địa phương phối hợp với các cơ quan truyền thông: Cung cấp thông tin về cơ sở trên địa bàn chấp hành tốt các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, cơ sở bán sản phẩm thực phẩm an toàn để người dân biết và lựa chọn. Công bố công khai cá nhân, tổ chức vi phạm về an toàn thực phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định.
- trang thiết bị dụng cụ kiểm tra, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 11/2014/TT-BYT hướng dẫn quản lý bộ xét nghiệm nhanh thực phẩm. Các kết quả thu được từ bộ xét nghiệm nhanh là kết quả ban đầu, chỉ mang tính định hướng, sàng lọc cho các thử nghiệm khẳng định tiếp theo trong phòng thí nghiệm. Kết quả của các bộ xét nghiệm nhanh không được sử dụng làm cơ sở để xử lý vi phạm.
53. Cử tri TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri tiếp tục kiến nghị các cơ quan chức năng cần có các biện pháp mạnh để xử lý các trường hợp vi phạm và tăng cường công tác kiểm tra đối với vấn đề chất lượng hàng hóa và an toàn vệ sinh thực phẩm đặc biệt là dược phẩm (thực phẩm chức năng) hàng gian, hàng giả nhằm đảm bảo, ổn định về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm là một trong những vấn đề quan trọng đầu tiên để sản phẩm tồn tại và cạnh tranh và đặc biệt là uy tín, thương hiệu và sức khỏe con người.
Đồng thời tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm để Luật an toàn thực phẩm thực sự đi vào cuộc sống người dân.
Trả lời:
1. Kiến nghị biện pháp xử lý các trường hợp vi phạm về an toàn thực phẩm và tăng cường quản lý về an toàn thực phẩm
Về hoạt động thanh kiểm tra và xử lý các vi phạm, xin tham khảo phần trả lời Câu hỏi 50.
Bên cạnh đó, trước thực trạng An toàn thực phẩm hiện nay, Chính phủ đã chỉ đạo rất quyết liệt các bộ ngành và địa phương về việc tăng cường trách nhiệm quản lý Nhà nước về an toàn thực phẩm, thể hiện rõ trong Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 09/5/2016, trong đó có các nội dung:
- Bộ Y tế cùng với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đặc biệt là thanh tra, kiểm tra đột xuất về an toàn thực phẩm đối với ngành hàng được phân công quản lý, giải quyết kịp thời các sự cố mất an toàn thực phẩm; xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân vi phạm và các cơ quan, công chức thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý an toàn thực phẩm.
Ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm về bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn; xác định việc bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm là nhiệm vụ cấp thiết cần tập trung chỉ đạo và lãnh đạo các cấp từ xã đến tỉnh phải chịu trách nhiệm khi để xảy ra vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn.
- Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động thực hiện an toàn thực phẩm: Bộ Y tế cùng với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương tăng cường phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và các cơ quan thông tấn báo chí thực hiện chương trình truyền thông về an toàn thực phẩm.
- Các bộ, ngành, chính quyền các cấp thực hiện và tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc thực hiện hiệu quả Chương trình phối hợp vận động và giám sát bảo đảm an toàn thực phẩm giữa Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tập trung thực hiện tại một số địa bàn trọng điểm và địa phương theo sự thống nhất với Mặt trận Tổ quốc.
Để tăng cường quản lý bảo đảm an toàn thực phẩm, Bộ Y tế đã ban hành Công văn số 2362/BYT-ATTP ngày 27/4/2016 chỉ đạo Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tham mưu cho UBND tỉnh/thành phố thực hiện các hoạt động bảo đảm an toàn thực phẩm trên địa bàn, phân công và quy trách nhiệm rõ ràng cho từng cơ quan, tổ chức và cá nhân chịu trách nhiệm theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền quy định; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về an toàn thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, quảng cáo thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của Bộ Y tế.
3. Kiến nghị hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm
Tiếp thu kiến nghị của cử tri, cùng với tăng cường quản lý bảo đảm an toàn thực phẩm nói chung, thực phẩm chức năng nói riêng, Bộ Y tế sẽ rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để trình Quốc hội, Chính phủ hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy định nhằm quản lý chặt đối với thực phẩm chức năng các khâu: Điều kiện sản xuất, công bố tiêu chuẩn, quảng cáo, kiểm soát chất lượng và sẽ tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với thực phẩm chức năng; kiến nghị Chính phủ không kinh doanh đa cấp đối với thực phẩm chức năng.
Quản lý thực phẩm trong đó có thực phẩm chức năng đã được quy định trong Luật An toàn thực phẩm, Nghị định sô 38/2012/NĐ-CP và các Thông tư của Bộ Y tế: Quy định về điều kiện sản xuất, nhập khẩu, công bố tiêu chuẩn, ghi nhãn, bảo đảm chất lượng, quản lý nội dung quảng cáo, thanh tra, kiểm tra v.v… Bộ Y tế đang hoàn thiện hướng dẫn thực hành tốt sản xuất đối với thực phẩm chức năng (GMP) và sẽ ban hành trong thời gian sớm nhất.
Tính đến 01/6/2016, Bộ Y tế đã xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn 20 nội dung trên tổng số 22 nội dung Bộ Y tế được giao hướng dẫn Luật an toàn thực phẩm và Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày 25/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn thực phẩm; còn 2 nội dung hiện Bộ Y tế đã đưa vào Kế hoạch ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2016.
54. Cử tri tỉnh An Giang, Tiền Giang, Quảng Ngãi, TP. Hồ Chí Minh, Thái Bình kiến nghị: Đề nghị tăng cường đầu tư các trang thiết bị y tế phục vụ cho việc khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu khám chữa bệnh của người dân trong thời gian tới, nhất là tạo uy tín để việc thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân đạt hiệu quả cao. Kiến nghị Bộ xem xét, nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ y, bác sĩ và bổ sung trang bị, cấp máy siêu âm tại các trạm y tế cấp xã để hỗ trợ cho các bác sĩ trong việc chẩn đoán bệnh ban đầu, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại các đơn vị này nhằm thu hút người dân đăng ký khám chữa bệnh ban đầu tại tuyến xã, góp phần giảm tải các bệnh viện tuyến trên, nhất là đối với một số bệnh phổ biến cần thực hiện thăm khám và lấy thuốc định kỳ như bệnh cao huyết áp, bệnh đái tháo đường;...
Trả lời:
1. Về kiến nghị tăng cường đầu tư các trang thiết bị y tế phục vụ cho việc khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế
Trong những năm vừa qua, Bộ Y tế đã tham mưu trình Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và đã được phê duyệt một số Chương trình, Đề án, dự án đầu tư từ các nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ, ODA,..(Đề án 47, Đề án 930, Đề án 362, Đề án 317, chương trình mục tiêu quốc gia y tế dân số, Đề án 125, các dự án ODA hỗ trợ y tế địa phương,..) nhằm tăng cường năng lực cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế cho các cơ sở y tế từ tuyến Trung ương, tuyến tỉnh, tuyến huyện, nâng cao năng lực khám, chữa bệnh cho cả hệ thống dần dần đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.
Trong giai đoạn tới, Bộ Y tế tiếp tục trình Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ triển khai tiếp các Đề án, chương trình, dự án đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ, ODA nhằm tiếp tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng nhất là trang thiết bị y tế hiện đại để phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh của người dân trong thời gian tới.
Về cơ chế tài chính, thực hiện chủ trương cải cách tài chính công của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Bộ Y tế đã trình Chính phủ điều chỉnh giá khám, chữa bệnh nhằm tính đúng tính đủ chi phí, tạo được nguồn thu phục vụ tái đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị y tế phục vụ cho hoạt động khám chữa bệnh; thúc đẩy lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân, người dân mua bảo hiểm sẽ được hưởng quyền lợi khám, chữa bệnh với chất lượng dịch vụ đảm bảo và ngày càng nâng cao.
2. Về kiến nghị xem xét, nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ y bác sỹ cho các trạm y tế xã
Về việc luân chuyển cán bộ y tế từ tuyến trên về tuyến dưới nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực cho y tế tuyến đưới, trên cơ sở tham mưu của Bộ Y tế, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg, ngày 20/02/2013 về việc thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Theo quy định này người hành nghề (Bác sỹ, Điều dưỡng, Hộ sinh, Kỹ thuật viên) phải thực hiện chế độ đi luân phiên tối thiểu từ 6 tháng đến 12 tháng xuống tuyến dưới khi có nhu cầu tăng cường về nhân lực; tuyến Trung ương xuống tuyến Tỉnh, tuyến Tỉnh xuống tuyến Huyện, tuyến Huyện xuống tuyến Xã, để giải quyết sự thiếu hụt về số lượng và chất lượng cán bộ y tế của tuyến dưới, từng bước cải thiện về chất lượng nguồn nhân lực của tuyến dưới, tạo lòng tin cho nhân dân sử dụng dịch vụ y tế của các cơ sở y tế gần nhất.
Triển khai chính sách trên, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 18/2014/TT-BYT ngày 02/6/2014 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Hiện tại chính sách đang được triển khai thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Bộ Y tế sẽ tổng kết, đánh giá và để xuất triển khai ra các địa phương khác.
Bên cạnh đó, Bộ Y tế tiếp tục nghiên cứu tìm các nguồn tài trợ từ các dự án, trong đó có các nội dung về nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ y tế tuyến cơ sở, trong đó có các trạm y tế xã.
3. Kiến nghị bổ sung trang thiết bị, cấp máy siêu âm tại các trạm y tế xã
Ngày 07/11/2014, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 4667/QĐ-BYT kèm theo Bộ Tiêu chí Quốc gia về y tế xã đến năm 2020. Theo quy định tại Tiêu chí thứ 4 có Chỉ số 13 quy định trạm y tế xã phải bảo đảm có đủ trang thiết bị để thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao theo phân vùng và điều kiện cụ thể của từng địa phương; cán bộ y tế có khả năng sử dụng các trang thiết bị y tế được cấp.
Như vậy, trên cơ sở hướng dẫn tại Quyết định 4667/QĐ-BYT, các địa phương sẽ tự cân đối vốn Trung ương hỗ trợ có mục tiêu và vốn của địa phương đề đầu tư cho các hạng mục, công trình theo nhu cầu và mục tiêu xác định ưu tiên của địa phương.
55. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri kiến nghị Bộ Y tế đẩy mạnh triển khai các giải pháp giảm quá tải bệnh viện gắn với nâng cao chất lượng khám chữa bệnh; đầu tư thực hiện, bảo đảm tiến độ ứng dụng tin học hóa tại các cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc để làm cơ sở phục vụ việc giám định, thanh toán bảo hiểm y tế.
Trả lời:
1. Kiến nghị về các giải pháp giảm quá tải bệnh viện gắn với nâng cao chất lượng khám chữa bệnh (xin xem phần trả lời Câu hỏi số 17).
2. Kiến nghị đầu tư thực hiện, bảo đảm tiến độ ứng dụng tin học hóa tại các cơ sở khám chữa bệnh
Nhận thức được tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh, trong thời gian qua Bộ Y tế đã có nhiều văn bản chỉ đạo để đẩy mạnh ứng dụng tin học hóa tại các cơ sở khám chữa bệnh như Chỉ thị số 02/CT-BYT ngày 25/02/2009 về việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong ngành Y tế, trong đó đã có chỉ đạo "Tùy theo điều kiện cụ thể, các đơn vị cần dành tối thiểu 1% các nguồn kinh phí của đơn vị để chi cho việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin".
Hiện nay, thực hiện Nghị Quyết 36a/NQ-CP 14/10/2015 về Chính phủ điện tử trong đó có nội dung "Kết nối hệ thống quản lý thông tin khám chữa bệnh và thanh toán bảo hiểm y tế qua mạng điện tử trước 01/01/2016", Bộ Y tế đang tích cực triển khai nhiều hoạt động hợp tác với Tổng Công ty Viễn thông Quân đội Viettel và Tập đoàn Viễn thông VNPT là hai đơn vị phối hợp triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý khám chữa bệnh và thanh toán bảo hiểm y tế để khảo sát, đánh giá hiện trạng và triển khai thực hiện chuẩn dữ liệu đầu ra, kết xuất dữ liệu, liên thông dữ liệu phục vụ quản lý khám chữa bệnh và thanh toán bảo hiểm y tế theo Công văn số 9324/BYT-BH và Quyết định số 5084/QĐ-BYT ngày 30/11/2015, bảo đảm việc ứng dụng công nghệ thông tin trong khám chữa bệnh và thanh toán bảo hiểm y tế.
56. Cử tri P. Hồ Chí Minh kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Y tế sớm thẩm định và phê duyệt dự án trang thiết bị y tế của Bệnh viện Nhi đồng Thành phố (đang đầu tư xây dựng dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 9 năm 2016 và đưa vào hoạt động phục vụ khám, chữa bệnh cho bệnh nhân nhi thành phố và các tỉnh phía Nam vào cuối năm 2016) để kịp tổ chức đấu thầu theo đúng quy định.
Để chuẩn bị nguồn lực cho Bệnh viện Nhi đồng thành phố và Bệnh viện Ung bướu – cơ sơ 2 quy mô 1000 giường/Bệnh viện, được đầu tư từ nguồn vốn Chính phủ: kiến nghị Bộ Y tế sớm phê duyệt kinh phí hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho Thành phố triển khai đào tạo;
Để phát triển nguồn nhân lực cho Trung tâm Cấp cứu 115: kiến nghị Bộ Y tế cho phép Sở Y tế triển khai thí điểm đề án Paramedic theo mô hình của các nước phát triển và phù hợp với đặc thù của thành phố Hồ Chí Minh;
Về cơ chế tài chính: Đề xuất Bộ Y tế kiến nghị với Chính phủ xem xét về việc trích lập nguồn cải cách tiền lương phù hợp với cơ chế tự chủ tài chính theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ tạo điều kiện cho các Bệnh viện có nguồn kinh phí để hoạt động và phát triển;
Về hỗ trợ, chuyển giao kỹ thuật cho các tỉnh khu vực phía Nam (Đề án 1816): Đề xuất Bộ Y tế có ý kiến với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tích cực chỉ đạo, bố trí kinh phí hỗ trợ các Bệnh viện vệ tinh chuẩn bị sẵn sàng đầu tư trang thiết bị, nhân lực để tiếp nhận kỹ thuật từ các Bệnh viện của Thành phố theo chỉ đạo của Bộ Y Tế.
Trả lời:
1. Kiến nghị thẩm định và phê duyệt dự án trang thiết bị y tế của Bệnh viện Nhi đồng thành phố
Thực hiện Quyết định số 125/QĐ-TTg ngày 16/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đầu tư xây dựng mới 05 bệnh viện, viện tuyến trung ương và tuyến cuối đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Y tế đã tổ chức thẩm định và có các văn bản thỏa thuận dây chuyền công năng, thỏa thuận danh mục và tính năng kỹ thuật trang thiết bị y tế của dự án “Đầu tư xây dựng bệnh viện Nhi Đồng thành phố”.
Đối với việc phê duyệt Dự án, theo phân quyền, Ủy ban nhân dân đã có Quyết định số 5820/QĐ-UBND ngày 24/11/2014 phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình Bệnh viện Nhi Đồng thành phố Hồ Chí Minh.
2. Kiến nghị về kinh phí đào tạo nhân lực
Trong Đề án “Đầu tư xây dựng mới 05 bệnh viện, viện tuyến Trung ương và tuyến cuối đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh” phê duyệt theo Quyết định số 125/QĐ-TTg ngày 16/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ đã có bố trí nguồn kinh phí đào tạo nhân lực cho các bệnh viện này.
Hiện nay, Bộ Y tế đang phối hợp với Bộ Tài chính để xây dựng cơ chế sử dụng kinh phí đào tạo được cấp từ nguồn vốn đầu tư hay vốn sự nghiệp. Trong thời gian tới, Bộ Y tế và Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ cơ chế để triển khai thực hiện vấn đề này. Tuy nhiên vấn đề đào tạo nhân lực y tế cho các Bệnh viện này rất quan trọng và cần rất nhiều nguồn lực, Bộ Y tế đề nghị Đại biểu có ý kiến để địa phương quan tâm đầu tư cho y tế.
3. Kiến nghị Bộ Y tế cho phép triển khai thí điểm đề án Paramedic
Mô hình cấp cứu ngoài bệnh viện (Paramedic) là một mô hình tốt và đang áp dụng ở nhiều nước có nền y tế phát triển. Bộ Y tế nhận thấy Paramedic là cần thiết để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân khi cần gọi cứu thương ngoại viện.
Để có cơ sở triển khai rộng rãi, đề nghị Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh khẩn trương xây dựng và trình Bộ Y tế, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thẩm định, phê duyệt Đề án thí điểm phát triển mạng lưới cấp cứu ngoại viện.
4. Đề xuất Bộ Y tế kiến nghị với Chính phủ xem xét về việc trích lập nguồn cải cách tiền lương phù hợp với cơ chế tự chủ tài chính
Trong thời gian tới, thực hiện Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về một số vấn đề về cải cách chính sách tiền lương, Bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập và trên cơ sở Nghị định về cơ chế tự chủ đối với từng lĩnh vực, Bộ Y tế sẽ kiến nghị với Bộ Tài chính để quy định cơ chế tạo nguồn thực hiện cải cách tiền lương cho phù hợp.
5. Về hỗ trợ, chuyển giao kỹ thuật cho các tỉnh khu vực phía Nam
Về hỗ trợ kinh phí chuyển giao kỹ thuật nâng cao năng lực bệnh viện địa phương bao gồm các tỉnh khu vực phía Nam, Bộ Y tế đã thực hiện:
- Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong đó nêu rõ nguồn kinh phí thực hiện luân phiên cán bộ về tuyến dưới để đào tạo, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới. Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 18/2014/TT-BYT Hướng dẫn thực hiện Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg nêu trên.
- Căn cứ: Quyết định số 92/QĐ-TTg ngày 09/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án giảm quá tải bệnh viện giai đoạn 2013-2020; Nghị quyết số 62/NĐ-CP ngày 7/9/2015, phiên họp thường kỳ Chính phủ thường ký tháng 8/2015; Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 11/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các giải pháp giảm quá tải bệnh viện, mở rộng mạng lưới bệnh viện vệ tinh; Quyết định số 774/QĐ-BYT ngày 11/3/2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc phê duyệt Đề án “Bệnh viện vệ tinh giai đoạn 2013-2020”; Bộ Y tế đã có Quyết định số 1303/QĐ-BYT về việc phê duyệt bổ sung danh sách Bệnh viện Vệ tinh và có công văn đề nghị các Sở Y tế trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt cho phép bệnh viện tham gia Đề án bệnh viện vệ tinh, đồng thời cấp kinh phí cải tạo cơ sở vật chất, nâng cấp trang thiết bị y tế, bổ sung nhân lực cho bệnh viện vệ tinh đủ điều kiện cấp chuyển giao kỹ thuật.
Hiện nay, Bộ Y tế đang tiếp tục xem xét bổ sung danh sách bệnh viện vệ tinh khu vực phía Nam.
57. Cử tri tỉnh Đắc Nông kiến nghị: Cử tri đề nghị nhà nước có hướng xây dựng một bệnh viện riêng để phục vụ cho bệnh nhân khám bảo hiểm y tế được chăm sóc tốt hơn, mới thu hút được toàn dân tham gia bảo hiểm y tế.
Trả lời:
Chủ trương của Nhà nước là không có sự phân biệt giữa các nhóm đối tượng có thẻ bảo hiểm y tế và không có thẻ bảo hiểm y tế. Việc chẩn đoán và điều trị là dựa trên tình trạng bệnh, mà không phụ thuộc vào hình thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh. Việc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế chỉ là thay đổi hình thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh chứ không làm thay đổi hoạt động khám chữa bệnh và người dân khi có nhu cầu khám chữa bệnh thì dù có thẻ bảo hiểm y tế hay không đều được xử trí như nhau.
Bộ Y tế cảm ơn sự quan tâm của cử tri tới công tác khám chữa bệnh, việc xây dựng một bệnh viện riêng để phục vụ cho bệnh nhân khám chữa bệnh bảo hiểm y tế là không cần thiết, nhất là trong bối cảnh nước ta đang tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân.
[1] Mẫu rau phát hiện hoạt chất cấm: rau ngót, cải ngồng, cà pháo, đậu cô ve, cần tây, cải bẹ xanh, cải ngọt.
Mẫu rau có dư lượng hoạt chất thuốc BVTV vượt mức giới hạn cho phép: cải ngồng, xà lách xoăn,đậu cô ve, cà chua, dưa leo, ớt ngọt, đậu đỗ, cải mèo, bắp cải, rau cải, cà rốt, dưa chuột, su hào, hành tây, khoai tây