17. Bộ Quốc phòng

18/10/2016 15:26

17. BỘ QUỐC PHÒNG

 

1. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị: Đề nghị Bộ quan tâm hỗ trợ kinh phí xây dựng các Trạm biên phòng, phương tiện thủy có công suất lớn hơn 300 CV và chịu được sức gió cấp 6, cấp 7 để đủ sức tham gia hoạt động cứu hộ, cứu nạn trên biển theo chức năng của Bộ đội Biên phòng (có văn bản, Tờ trình cụ thể).

Trả lời: (Tại Công văn số 4518/BQP-CT ngày 22 tháng 5 năm 2016)

- Về xây dựng các Trạm Biên phòng: Nội dung này thuộc chương trình mục tiêu của Bộ Quốc phòng; theo kế hoạch đến hết năm 2020 thì 100% Trạm Biên phòng sẽ được đầu tư xây dựng. Tính đến năm 2016, Bộ Quốc phòng đã hoàn thành việc xây dựng cho 295 Trạm, đạt 61,7% theo kế hoạch và đang triển khai xây dựng các Trạm còn lại.

- Về trang bị phương tiện thủy có công suất lớn hơn 300CV và chịu được sức gió cấp 6, cấp 7 để đủ sức tham gia hoạt động cứu hộ, cứu nạn trên biển theo chức năng của Bộ đội Biên phòng: Bộ Quốc phòng đang triển khai thực hiện theo lộ trình, đưa dần phương tiện thủy có công suất lớn hơn 300CV và chịu được sức gió cấp 6, cấp 7 vào trang bị cho đơn vị, thay thế các phương tiện cũ có công suất dưới 300CV. Tính đến năm 2016, Bộ Quốc phòng đã trang bị được 155 phương tiện thủy có công suất từ 300CV trở lên (trong đó tàu 133 chiếc, ca nô 22 chiếc) và dự kiến đến hết năm 2020 phấn đấu đạt trên 50% biên chế phương tiện thủy có công suất từ 300CV trở lên được đưa vào trang bị cho đơn vị để thực hiện nhiệm vụ.

Trên đây là những nỗ lực đảm bảo của Bộ Quốc phòng trong điều kiện ngân sách Trung ương còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, ngân sách chi cho hoạt động quân sự của địa phương nói chung, ngoài ngân sách Trung ương còn có ngân sách địa phương chi cho các nhiệm vụ về quốc phòng đã được quy định trong Luật Ngân sách nhà nước và Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước; mức hỗ trợ cho nhiệm vụ quốc phòng còn tùy thuộc vào khả năng ngân sách của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

2. Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Cử tri là quân đội công tác tại các Ban chỉ huy quân sự cấp quận, huyện cho rằng, kinh phí cấp để bảo đảm cho các hoạt động của đơn vị rất ít, nên rất khó khăn cho đơn vị, cán bộ, chiến sỹ trong thực hiện nhiệm vụ, vì trong thực tiễn hiện nay ngoài nhiệm vụ được giao, nhiều đơn vị tham gia rất nhiều vào các hoạt động ở địa phương khi mình là thành viên, một số lực lượng làm nhiệm vụ đặc thù với yêu cầu cao hơn điều kiện hoạt động quân sự bình thường; đơn vị tại vùng sâu, vùng xa, địa bàn rộng, đường đi lại khó khăn nên việc đi triển khai nhiệm vụ, đi cơ sở để nắm bắt thông tin đều đòi hỏi phải có kinh phí để thực hiện. Đề nghị Bộ Quốc phòng nghiên cứu có chính sách phù hợp hơn để tạo động lực cho cán bộ, chiến sỹ thực hiện nhiệm vụ tốt hơn.

Trả lời: (Tại Công văn số 4518/BQP-CT ngày 22 tháng 5 năm 2016)

Hàng năm, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ; tổ chức biên chế; chế độ, tiêu chuẩn, định mức của Nhà nước và Bộ Quốc phòng, Ban chỉ huy quân sự cấp quận, huyện được Bộ Quốc phòng bảo đảm và quản lý kinh phí để thực hiện nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, Ban chỉ huy quân sự quận, huyện còn được chính quyền địa phương cấp kinh phí để thực hiện nhiệm vụ quân sự địa phương theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước (ngân sách địa phương chi cho quốc phòng).

Tuy nhiên, trong bối cảnh ngân sách Trung ương và địa phương còn khó khăn, chưa đáp ứng được nhu cầu hoạt động quân sự ngày càng đa dạng, phong phú của địa phương. Bộ Quốc phòng rất cám ơn sự quan tâm của cử tri đối với những khó khăn của cán bộ, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ quân sự tại địa phương; Bộ Quốc phòng sẽ tiếp tục chỉ đạo các Quân khu kiểm tra, chỉ đạo cơ quan quân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ưu tiên tăng chi cho một số lĩnh vực quan trọng của quân sự địa phương trong quá trình lập, chấp hành dự toán ngân sách (kể cả ngân sách địa phương chi cho quốc phòng) những năm tới, để đáp ứng nhiệm vụ quân sự địa phương trong tình hình mới.

3. Cử tri tỉnh Hà Nam kiến nghị: Đề nghị Bộ quan tâm xem xét giải quyết cho các đồng chí quân nhân tham gia quân đội nay đã về phục viên, xuất ngũ đủ điều kiện được hưởng chế độ theo Quyết định 62/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Căm-pu-chi-a, giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc và Quyết định 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chế độ đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương.

Trả lời: (Tại Công văn số 4214/BQP-CT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

Thực hiện Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg, Quyết định số 38/2010/QĐ-TTg, Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đến nay toàn quốc đã giải quyết chế độ trợ cấp một lần cho gần 2 triệu đối tượng, với số tiền trợ cấp gần 9.000 tỷ đồng; ra quyết định hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng cho hơn 14.000 đối tượng (hơn 97 vạn đối tượng hưởng chế độ theo Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg và gần 1,1 triệu người theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg).

Hiện nay, Bộ Quốc phòng đang tập trung chỉ đạo các đơn vị, địa phương đẩy nhanh tiến độ thực hiện; dự kiến kết thúc việc giải quyết chế độ, chính sách đối với các đối tượng theo các Quyết định trong Quý II năm 2016. Đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Nam giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách đối với các đối tượng trên địa bàn theo quy định.

4. Cử tri tỉnh Ninh Thuận, Bình Dương kiến nghị: Cử tri cho rằng việc thực hiện chế độ chính sách đối với những người đã tham gia làm nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia và Lào như hiện nay là chưa công bằng. Đề nghị Chính phủ cần thực hiện chế độ chính sách cho tất cả những người đã từng tham gia nghĩa vụ quốc tế, không phân biệt họ hiện có hưởng chế độ hưu trí, mất sức hàng tháng hay không.

Trả lời: (Tại Công văn số 4228/BQP-CT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

Đối tượng, điều kiện hưởng chế độ, chính sách quy định tại Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ đã được các Bộ, ngành nghiên cứu, cân nhắc kỹ, báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Ban Cán sự đảng Chính phủ và Bộ Chính trị, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành; phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và cân đối chung với các chế độ, chính sách đã ban hành (Quyết định số 47/2002/QĐ-TTg, Quyết định số 290/2005/QĐ-TTg, Quyết định số 142/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Đây là chính sách có tính chất trợ cấp đối với những người trực tiếp tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế sau ngày 30/4/1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc hiện không hưởng chế độ hưu trí, chế độ trợ cấp hàng tháng từ ngân sách Nhà nước; không phải chế độ, chính sách chung cho tất cả các đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế sau ngày 30/4/1975.

5. Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị: Đề nghị xem xét và giải quyết chế độ cho đối tượng được hưởng theo Quyết định 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chế độ đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương đến nay vẫn còn tồn đọng. Đề nghị chỉ đạo giải quyết cho những đối tượng này.

Trả lời: (Tại Công văn số 4229/BQP-CT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

Thực hiện Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chế độ đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong Quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương; đến nay, toàn quốc đã giải quyết chế độ trợ cấp một lần đối với 979.259 đối tượng, với số tiền chi trả trên 4.200 tỷ đồng; ra quyết định hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng đối với 12.713 đối tượng; đã tổng kết thực hiện Quyết định nêu trên vào cuối năm 2011. Tuy nhiên, hiện nay còn tồn sót một số ít đối tượng chưa được giải quyết chế độ do những nguyên nhân khác nhau, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các đơn vị, địa phương khẩn trương rà soát, giải quyết dứt điểm chế độ đối với các đối tượng trong Quý II năm 2016.  

6. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: Việc triển khai thực hiện Quyết định 142/2008/QĐ-TTg về thực hiện chế độ đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương, Quyết định số 38/2010/QĐ-TTg ngày 06/5/2010 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định 142/2008 /QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chế độ đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống mỹ cứu nước dưới 20 năm công tác trong quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương và Quyết định số 62/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ Quốc tế ở Campuchia, giúp bạn Lào sau ngày 30/4/1975 đã xuất ngũ, phục viên, thôi việc là đúng đắn, mang tính nhân văn sâu sắc, nhưng tiến độ làm hồ sơ chậm, kéo dài, quy định một số thủ tục chưa hợp lý gây khó khăn cho cơ quan chuyên môn tham mưu công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này, gây phiền hà cho đối tượng được thụ hưởng. Đề nghị quý cơ quan có thẩm quyền quan tâm, đề quyền lợi chính đáng của người đang được thụ hưởng kịp thời.

Trả lời: (Tại Công văn số 4231/BQP-CT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

Thực hiện Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg, Quyết định số 38/2010/QĐ-TTg, Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đến nay toàn quốc đã giải quyết chế độ trợ cấp một lần cho gần 2 triệu đối tượng, với số tiền trợ cấp gần 9.000 tỷ đồng; ra quyết định hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng cho hơn 14.000 đối tượng (hơn 97 vạn đối tượng hưởng chế độ theo Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg và gần 1,1 triệu người theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg).

Hiện nay, Bộ Quốc phòng đang tập trung chỉ đạo các đơn vị, địa phương đẩy nhanh tiến độ thực hiện; dự kiến kết thúc việc giải quyết chế độ, chính sách đối với các đối tượng theo các Quyết định trong Quý II năm 2016. Đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách đối với các đối tượng trên địa bàn theo quy định.

Về thủ tục, hồ sơ, quy trình xét hưởng chế độ đối với các đối tượng theo các Quyết định nêu trên đã được các Bộ, ngành nghiên cứu kỹ, đáp ứng yêu cầu, phù hợp đặc điểm hồ sơ lưu giữ của các nhóm đối tượng; đơn giản hóa thủ tục hành chính, bảo đảm chặt chẽ nhưng thuận tiện. Quá trình tổ chức thực hiện, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo và yêu cầu các đơn vị, địa phương thực hiện đúng theo quy định, không tự quy định thêm thủ tục, giấy tờ.

7. Cử tri tỉnh Quảng Nam kiến nghị: Hiện nay, một số đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc nhưng không nằm trong địa bàn theo quy định tại "Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Căm-pu-chi-a, giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc" nên không được hưởng chế độ chính sách. Đề nghị Bộ Quốc phòng rà soát, tham mưu Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 nêu trên để đảm bảo công bằng cho tất cả các đối tượng.

Trả lời: (Tại Công văn số 4232/BQP-CT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

Đối tượng, điều kiện và địa bàn xét hưởng chế độ, chính sách theo quy định tại Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ đã được các Bộ, ngành nghiên cứu, cân nhắc kỹ, báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Ban Cán sự đảng Chính phủ và Bộ Chính trị, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định; phù hợp với đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế sau ngày 30/4/1975 và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.

Đây là chế độ, chính sách đối với người trực tiếp tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế sau ngày 30/4/1975, không phải chế độ, chính sách cho tất cả các đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế. Tuy nhiên, Bộ Quốc phòng xin tiếp thu ý kiến, kiến nghị của cử tri để tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất theo thẩm quyền.

8. Cử tri tỉnh Quảng Trị kiến nghị: Về việc thực hiện Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Căm-pu-chi-a, giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc hiện nay ở cơ sở gặp một số khó khăn như đối tượng cùng có thời gian nhập ngũ, xuất ngũ như nhau, địa bàn công tác như nhau nhưng người làm thủ tục trước thì đã được giải quyết chế độ, người làm sau thì không được hưởng vì lý do thay đổi, thu hẹp địa bàn được hưởng. Cử tri đề nghị giữ nguyên địa bàn như trước để đảm bảo công bằng trong việc hưởng chế độ của các đối tượng.

Trả lời: (Tại Công văn số 4233/BQP-CT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

Theo quy định tại Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thực hiện thì đối tượng trực tiếp tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại các địa bàn xảy ra chiến sự và các địa bàn phụ cận có xảy ra chiến sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thuộc các huyện biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc (gồm cả các huyện đảo biên giới và khu vực Hoàng Sa, Trường Sa, DK1); truy quét FulRô thuộc địa bàn các tỉnh Tây Nguyên hoặc làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào, Cămpuchia trong khoảng thời gian quy định, hiện không thuộc diện hưởng chế độ hưu trí, mất sức lao động, bệnh binh hàng tháng đều thuộc đối tượng xem xét, giải quyết chế độ, chính sách theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg. Quá trình thực hiện, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo và yêu cầu các đơn vị, địa phương thực hiện đúng quy định của Thủ tướng Chính phủ; không có văn bản quy định thu hẹp địa bàn xét hưởng chế độ như cử tri phản ánh. Đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Trị giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách đối với các đối tượng trên địa bàn theo quy định.

9. Cử tri tỉnh Nghệ An kiến nghị: Cử tri phản ánh một số quân nhân có thời gian tham gia chiến đấu tại Lào (có quyết định ra quân, lý lịch quân nhân ghi rõ), nhưng khi làm để hưởng chế độ 62/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Căm-pu-chi-a, giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc thì không được giải quyết vì không có phiên hiệu của đơn vị. Đề nghị các cơ quan chức năng quan tâm giải quyết.

Trả lời: (Tại Công văn số 4234/BQP-CT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

Thực hiện Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam đã ban hành Quyết định số 2084/QĐ-TM ngày 09/11/2012, Quyết định số 1377/QĐ-TM ngày 06/8/2014, kèm theo Danh mục địa bàn, thời gian, đơn vị trực tiếp tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế sau ngày 30/4/1975; đồng thời, ban hành và đưa vào sử dụng phần mềm kết quả giải mã ký hiệu, phiên hiệu các đơn vị tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế để các đơn vị, địa phương tra cứu, xét duyệt, thẩm định thực hiện chế độ theo quy định tại Quyết định nêu trên.

Ngoài ra, trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị, địa phương xem xét, giải quyết chế độ, chính sách kịp thời đối với các đối tượng có hồ sơ gốc hoặc giấy tờ liên quan thể hiện rõ thời gian chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc làm nhiệm vụ quốc tế.

10. Cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị: Theo Quyết định 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chế độ đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương chỉ được giải quyết chế độ trợ cấp một lần, không được cấp thẻ bảo hiểm y tế và mai táng phí khi từ trần (trong khi đó các đối tượng thụ hưởng theo Quyết định 290/2005/QĐ-TTg ngày 08/11/2005, Quyết định 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011, Quyết định 47/2002/QĐ-TTg ngày 11/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ thì được cấp thẻ bảo hiểm y tế và mai táng phí khi từ trần). Đề nghị quan tâm xem xét.

Trả lời: (Tại Công văn số 4235/BQP-CT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

Theo quy định tại Điểm d, Khoản 1, Điều 1 Quyết định số 290/2005/QĐ-TTg ngày 08/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với đối tượng trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhưng chưa được hưởng chính sách của Đảng và Nhà nước thì quân nhân, công an nhân dân, công nhân, viên chức, thanh niên xung phong tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ ngày 30/4/1975 trở về trước, đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc, nếu chưa được hưởng chế độ bảo hiểm y tế thì được hưởng chế độ bảo hiểm y tế và khi từ trần được hưởng chế độ mai táng phí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội hiện hành.

Căn cứ quy định nêu trên, quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ ngày 30/4/1075 trở về trước đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc (bao gồm cả đối tượng theo quy định tại Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ) thuộc đối tượng được hưởng chế độ bảo hiểm y tế và khi từ trần được hưởng chế độ mai táng phí. Đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên giám sát việc thực hiện chế độ nêu trên đối với đối tượng trên địa bàn theo quy định.

11. Cử tri tỉnh Điện Biên kiến nghị: Nậm Pồ là huyện khó khăn, địa bàn dân cư rộng, có đường biên giới giáp Lào dài (119,7 km) và là khu vực phức tạp về hoạt động tuyên truyền đạo trái pháp luật, tuyên truyền thành lập "Vương quốc Mông". Đê tạo điều kiện cho địa phương thực hiện nhiệm vụ công tác quôc phòng, an ninh trên địa bàn đê nghị Bộ Quốc phòng quan tâm quan tâm đầu tư hệ thống đường tuần tra biên giới nối tuyến Nà Hỳ - Sam Lang (đang được Bộ Quốc phòng đầu tư) lên Vàng Đán Dạo - Nậm Tăt - Pá Kha, Nà Bủng - Ngải Thầu - Nậm Nhừ - Na Cô Sa dài 70km.

Trả lời: (Tại Công văn số 4523/BQP-KHĐT ngày 22 tháng 5 năm 2016)

1. Về việc đầu tư xây dựng đường tuần tra biên giới (TTBG) thuộc tỉnh Điện Biên Bộ Quốc phòng đã triển khai khoảng 80 km đường TTBG (gồm 02 đường vào đồn Biên phòng Nà Khoa (415) và đồn Biên phòng Mường Pồn (419), trên địa bàn 2 huyện: Mường Nhé và Điện Biên); hiện nay Bộ Quốc phòng đã trình Thủ tướng Chính phủ chương trình đầu tư đường TTBG giai đoạn II, trong đó trên địa bàn tỉnh Điện Biên dự kiến xây dựng 64 km từ mốc A0 - Mốc 12 thuộc địa bàn 02 xã Sìn Thầu và Chung Chải/huyện Mường Nhé, như vậy không trùng với đề nghị xây dựng 70 km của cử tri (trên địa bàn 05 xã Nậm Kè, Quang Lâm, Nà Hỳ, Nà Khoa, Nà Bủng/huyện Mường Nhé). Việc này đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin ý kiến trong quá trình thẩm định chương trình đầu tư đường TTBG giai đoạn II và đã được sự đồng thuận của UBND tỉnh Điện Biên tại văn bản số 1656/UBND-TH ngày 06/5/2015).

2. Về việc đầu tư xây dựng đường TTBG thuộc tỉnh Sơn La Bộ Quốc phòng đã triển khai 210 km trên địa bàn 03 huyện Sốp Cộp, Sông Mã và Mộc Châu; Bộ Quốc phòng đã trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị phê duyệt chương trình đầu tư đường TTBG giai đoạn II, trong đó trên địa bàn tỉnh Sơn La dự kiến đầu tư xây dựng 157 km (huyện Sốp Cộp 100 km đường dọc biên giới từ mốc 164 - mốc 187; huyện Mộc Châu 57 km đường dọc, đường ngang - đây là khu vực phức tạp về tội phạm ma túy giáp tỉnh Thanh Hóa); việc cử tri đề nghị xây dựng 20 km trên địa bàn huyện Sốp Cộp Bộ Quốc phòng đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề nghị được triển khai bằng nguồn vốn dư đã bố trí cho các dự án đường TTBG giai đoạn I, tuy nhiên đến nay vẫn chưa được Quốc Hội, Chính phủ cho phép sử dụng.

Bộ Quốc phòng đề nghị các Đoàn đại biểu Quốc hội kiến nghị với: Quốc hội, Chính phủ bố trí vốn giai đoạn 2016-2020 để tiếp tục triển khai xây dựng đường TTBG và cho phép sử dụng số vốn còn dư đã bố trí cho các dự án đường TTBG giai đoạn I để triển khai các đoạn tuyến thực sự cần thiết.

12. Cử tri tỉnh Điện Biên kiến nghị: Đề nghị sớm xem xét công nhận huyện Nậm Pồ là huyện hạng 1 trực chiến đấu; quan tâm công tác chính sách dân tộc trong quân đội.

Trả lời: (Tại Công văn số 5826/BQP-TM ngày 24 tháng 6 năm 2016)

1. Sớm xem xét công nhận huyện Nậm Pồ là huyện hạng 1 trực chiến đấu.

Thực hiện Nghị quyết số 45/NQ-CP ngày 25/8/2012 của Chính phủ về việc thành lập huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên.

- Huyện Nậm Pồ được chia tách thành từ 02 huyện Mường Nhé và Mường chà, Điện Biên;

- Đơn vị hành chính gồm 15 xã, trong đó có 08 xã biên giới;

- Vị trí địa lý: Phía Đông giáp huyện Mường Chà; phía Tây và Nam giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; phía Bắc giáp huyện Mường Tè, Lai Châu.

- Có đường biên giới Việt Nam-Lào là 119,7 km (là huyện biên giới).

- Huyện Nậm Pồ có vị trí quan trọng trong khu vực phòng thủ tỉnh Điện Biên.

Từ những căn cứ trên, Bộ Quốc phòng thống nhất với kiến nghị của cử tri tỉnh Điện Biên sớm xét công nhận huyện Nậm Pồ là huyện hạng 1, để tạo điều kiện cho địa phương thực hiện nhiệm vụ công tác quốc phòng, an ninh trên địa bàn.

2. Quan tâm công tác chính sách dân tộc trong quân đội.

Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn xác định công tác dân tộc có một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng đều đề ra đường lối, chủ trương, chính sách nhằm không ngừng củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Quân ủy Trung ương đã ban hành Chỉ thị 572/CT/QUTW ngày 05/10/2012 “Về Quân đội thực hiện công tác dân tộc trong tình hình mới”. Thực tế, những năm qua, công tác chính sách dân tộc trong Quân đội luôn luôn được quan tâm, thể hiện các mặt sau:

- Trước hết, các đơn vị quân đội trong cả nước, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng sa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc, cấp ủy, chỉ huy các đơn vị vừa quán triệt tốt đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước, vừa chủ động, tích cực phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương động viên đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS) không ngừng phấn đấu, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh. Chú trọng xây dựng cơ sở Đảng, phát triển đảng viên, góp phần xóa tình trạng (thôn) bản chưa có Đảng viên, chi bộ; giúp đồng bào phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, cải tạo mạng lưới giao thông, y tế, văn hóa cơ sở, xây dựng, củng cố hệ thống trường học nội trú, từng bước thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học, xóa mù chữ, nâng cao dân trí.

- Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, cơ quan quân sự địa phương nâng cao chất lượng tuyển quân theo chỉ tiêu đề ra, đồng thời bố trí, tạo việc làm phù hợp cho quân nhân là người DTTS hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương. Các đơn vị làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện, nâng cao trình độ mọi mặt cho quân nhân, có kế hoạch bồi dưỡng, phát triển đảng viên, đoàn viên và đào tạo cán bộ là người dân tộc để phục vụ lâu dài trong quân đội. Có chính sách ưu tiên cho quân nhân là người DTTS, cư trú vùng đặc biệt khó khăn, góp phần chăm lo tạo nguồn cán bộ có chất lượng tốt cho địa phương. Các trường trong Quân đội thực hiện tốt chế độ tuyển sinh, cử tuyển, đào tạo nghề cho con em đồng bào các DTTS và tạo điều kiện cho họ hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời gian học tập tại trường.

13. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đề nghị Bộ Quốc phòng xem xét tiếp tục đầu tư 20km đường tuần tra biên giới còn lại trên địa bàn huyện Sốp Cộp để thuận tiện cho việc tuần tra đường  biên mốc giới, đảm bảo quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế - xã hội khu vực biên giới Việt - Lào.

Trả lời: (Tại Công văn số 4523/BQP-KHĐT ngày 22 tháng 5 năm 2016)

1. Về việc đầu tư xây dựng đường tuần tra biên giới (TTBG) thuộc tỉnh Điện Biên Bộ Quốc phòng đã triển khai khoảng 80 km đường TTBG (gồm 02 đường vào đồn Biên phòng Nà Khoa (415) và đồn Biên phòng Mường Pồn (419), trên địa bàn 2 huyện: Mường Nhé và Điện Biên); hiện nay Bộ Quốc phòng đã trình Thủ tướng Chính phủ chương trình đầu tư đường TTBG giai đoạn II, trong đó trên địa bàn tỉnh Điện Biên dự kiến xây dựng 64 km từ mốc A0 - Mốc 12 thuộc địa bàn 02 xã Sìn Thầu và Chung Chải/huyện Mường Nhé, như vậy không trùng với đề nghị xây dựng 70 km của cử tri (trên địa bàn 05 xã Nậm Kè, Quang Lâm, Nà Hỳ, Nà Khoa, Nà Bủng/huyện Mường Nhé). Việc này đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin ý kiến trong quá trình thẩm định chương trình đầu tư đường TTBG giai đoạn II và đã được sự đồng thuận của UBND tỉnh Điện Biên tại văn bản số 1656/UBND-TH ngày 06/5/2015).

2. Về việc đầu tư xây dựng đường TTBG thuộc tỉnh Sơn La Bộ Quốc phòng đã triển khai 210 km trên địa bàn 03 huyện Sốp Cộp, Sông Mã và Mộc Châu; Bộ Quốc phòng đã trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị phê duyệt chương trình đầu tư đường TTBG giai đoạn II, trong đó trên địa bàn tỉnh Sơn La dự kiến đầu tư xây dựng 157 km (huyện Sốp Cộp 100 km đường dọc biên giới từ mốc 164 - mốc 187; huyện Mộc Châu 57 km đường dọc, đường ngang - đây là khu vực phức tạp về tội phạm ma túy giáp tỉnh Thanh Hóa); việc cử tri đề nghị xây dựng 20 km trên địa bàn huyện Sốp Cộp Bộ Quốc phòng đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề nghị được triển khai bằng nguồn vốn dư đã bố trí cho các dự án đường TTBG giai đoạn I, tuy nhiên đến nay vẫn chưa được Quốc Hội, Chính phủ cho phép sử dụng.

Bộ Quốc phòng đề nghị các Đoàn đại biểu Quốc hội kiến nghị với: Quốc hội, Chính phủ bố trí vốn giai đoạn 2016-2020 để tiếp tục triển khai xây dựng đường TTBG và cho phép sử dụng số vốn còn dư đã bố trí cho các dự án đường TTBG giai đoạn I để triển khai các đoạn tuyến thực sự cần thiết.

14. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đề nghị Bộ Quốc phòng xem xét sớm triến khai thực hiện đầu tư các điểm dân cư biên giới trên địa bàn huyện Sốp Cộp theo Chỉ thị số 84/CT-BQP ngày 15/6/2015 của Bộ Quốc phòng về thực hiện chiến lược công tác dân tộc trong Quân đội đến năm 2020.

Trả lời: (Tại Công văn số 4236/BQP-KHĐT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngày 15/6/2015 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ban hành Chỉ thị số 84/CT-BQP về thực hiện Chiến lược công tác dân tộc trong Quân đội đến năm 2020, trong đó Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho các Quân khu thực hiện Đề án “Xây dựng các điểm dân cư tập trung, bố trí việc làm cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở khu vực biên giới; bảo vệ và phát triển rừng vành đai đến năm 2020”. Thực hiện Chỉ thị trên, Quân khu 2 đã xây dựng Đề án, trong đó dự kiến xây dựng 13 điểm trên địa bàn 05 tỉnh biên giới; theo đó, tỉnh Sơn La được xác định xây dựng 03 điểm ở 02 xã tại huyện Sốp Cộp (điểm Huổi Khi thuộc xã Mường Lạn; điểm Pá Khoang và điểm Huổi Lạ thuộc xã Mường Lèo). Hiện nay, dự thảo Đề án của Quân khu 2 đang chỉnh sửa để xin ý kiến các cơ quan Ban, Bộ, ngành Trung ương, sau đó hoàn chỉnh Đề án báo cáo Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và trình Thủ tướng Chính phủ; sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì Đề án mới được triển khai thực hiện.

15. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu xem xét có chính sách hỗ trợ đối với lực lượng dự bị động viên là công nhân đang làm việc tại các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài nhằm thực hiện tốt Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên, đảm bảo sức mạnh quân đội, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.

Trả lời: (Tại Công văn số 4361/BQP-CT ngày 18 tháng 5 năm 2016)

Chế độ chính sách đối với lực lượng dự bị động viên được quy định tại Nghị định số 39/CP ngày 28/4/1997 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên; theo quy định tại Điều 23, Mục I, Chương V của Nghị định này thì quân nhân dự bị (QNDB) trong thời gian tập trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu được hưởng các chế độ chính sách, cụ thể: Tùy từng đối tượng, được đơn vị quân đội cấp một khoản phụ cấp bằng mức lương theo cấp bậc quân hàm của sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp hoặc bằng mức phụ cấp theo cấp bậc quân hàm của hạ sĩ quan, binh sĩ; được cấp tiền tàu xe và phụ cấp đi đường như đối với quân nhân tại ngũ; được mượn quân trang, hưởng tiền ăn theo chế độ hiện hành. Gia đình được hưởng một khoản trợ cấp như sau: Quân nhân dự bị không hưởng tiền lương, tiền công thì gia đình được trợ cấp mỗi ngày bằng hệ số 0,1 so với tiền lương tối thiểu (cơ sở); Quân nhân dự bị đang hưởng tiền lương, tiền công thì gia đình được trợ cấp mỗi ngày bằng hệ số 0,05 so với tiền lương tối thiểu (cơ sở). Được hưởng chế độ bảo hiểm y tế; nếu bị thương hoặc hy sinh mà được xác nhận là thương binh, liệt sĩ thì bản thân và gia đình được hưởng chế độ chính sách ưu đãi người có công theo quy định hiện hành; có thành tích được xét khen thưởng theo quy định và được hưởng một số chế độ chính sách khác theo quy định của pháp luật.

16. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: Cử tri tỉnh Đắk Lắk rất quan tâm đến hoạt động của khu kinh tế, quốc phòng thuộc Binh đoàn 16, Bộ Quốc phòng. Đề nghị cho cử tri biết hiệu quả kinh tế đối với các dự án của Binh đoàn 16 trên địa bàn huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk và các chính sách an sinh xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh vùng dự án.

Trả lời: (Tại Công văn số 4520/BQP-KT ngày 22 tháng 5 năm 2016)

Dự án đầu tư khu kinh tế quốc phòng (KTQP) trên địa bàn biên giới huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 43/2002/QĐ-TTg Ngày 21/3/2002 và Bộ Quốc phòng đã phê duyệt tại các Quyết định số 2041/QĐ-BQP ngày 31/8/2001; Quyết định số 1606/QĐ-BQP ngày 07/8/2003 và Quyết định số 1804/QĐ-BQP ngày 27/5/2011.

Địa điểm thực hiện hiện trên 3 xã: Ia Tờ Mốt, Ea Bung và Yalốp, nay là 2 xã Ia Rvê, Ya lốp, huyện Ea Súp.

Quy mô của dự án: Khai thác 29,695 ha đất tự nhiên, đất trống đồi núi trọc và nghèo kiệt của 2 Lâm trường Chư Ma Lanh và Ya lốp, địa phương giao để phát triển 12.000 ha điều cao sản; 4000 ha bông vải; khai hoang lúa nước (giao cho dân): 1000 ha; khai hoang đất sản xuất, đất ở cho dân: 3000 ha; khoanh nuôi bảo vệ rừng: 8000 ha; hỗ trợ chăn nuôi bò: 10.000 con; bố trí sắp xếp 3000 hộ, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Giao thông, thủy lợi, kiến trúc, điện, trạm y tế, nhà trẻ, trường học…

Thời gian bắt đầu 2001 và kết thúc 2014.

Tổng mức đầu tư dự án Khu KTQP Ea Súp là 297,543 tỷ đồng, bằng vốn Đầu tư phát triển và vốn ngân sách Nhà nước, ngoài ra Bộ Quốc phòng bố trí ngân sách quốc phòng thường xuyên đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng: thủy lợi, nước sạch với giá trị khoảng 150 tỷ đồng. Vốn NSNN đã đầu tư đến hết năm 2016 là 208,95 tỷ đồng.

Qua hơn 14 năm triển khai thực hiện, kết quả thu được của dự án về chính sách an sinh xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh được thể hiện cụ thể sau:

1. Về phát triển kinh tế- xã hội

- Bố trí sắp xếp và ổn định dân cư: Tiếp nhận, bố trí sắp xếp dân cư, tạo việc làm cho 2.688 hộ dân, khoảng 12.000 nhân khẩu, (trong đó hộ dân Bến Tre 1.004 hộ; Thanh Hóa 410 hộ, hộ gia đình CNV 420 hộ, Krông ANa 137 hộ, di cư tự do 382 hộ); tổ chức thành 24 đội sản xuất gắn với việc hình thành 24 cụm, điểm dân cư; giúp dân xóa đói, giảm nghèo theo mô hình phát triển kinh tế hộ, từng bước ổn định cuộc sống.

- Thực hiện chính sách đối với các hộ dân: Giao đất sản xuất 1 ha/hộ và cấp đất ở 1.000 m2/hộ. Ngoài ra còn được giao khoán, quản lý, chăm sóc vườn điều bình quân 6-7 ha/hộ, sau khi chuyển đổi từ trồng điều sang trồng keo nguyên liệu giấy đã giao khoán, quản lý, chăm sóc bình quân 3 - 4 ha/hộ và kết hợp trồng xen cây ngắn ngày tăng thu nhập cho người lao động (thu nhập từ việc nhận khoán vườn cây từ 15 - 20 triệu đồng/hộ/năm; thu nhập từ trồng xen cây ngắn ngày từ 10 - 15 triệu đồng/hộ/năm).

- Quản lý sử dụng đất: Tổng diện tích được UBND tỉnh Đắk Lắk giao cho dự án là 29.695 ha đất tự nhiên, diện tích đã được chuyển đổi mục đích là 20.904,7 ha, trong đó giao địa phương 7.389,2 ha; diện tích đất còn lại 22.306 ha; diện tích đất khoanh nuôi bảo vệ rừng 8.790 ha; đất quốc phòng 102 ha; đất trồng điều 13.516 ha.

- Đầu tư phát triển sản xuất: Binh đoàn 16 đã tổ chức khai hoang trồng được 13.516 ha điều cao sản, vượt 1.516 ha so với dự án được duyệt; đầu tư hạ tầng kỹ thuật như: đường giao thông 164,9 km, 93 km đường điện và 27 trạm biến áp, 4 công trình thuỷ lợi (hồ, đập), bệnh xá quân dân y 3.000 m2, nhà trẻ, trường học 7.125 m2, doanh trại, nhà ở và làm việc, nhà văn hóa, các công trình kiến trúc khác 29.712 m2, hệ thống nước sạch 8 giếng khoan, hệ thống xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản đã hoàn thành, các công trình đưa vào sử dụng có hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất và phục vụ đời sống dân sinh.

2. Về quốc phòng- an ninh

Đi đôi với phát triển kinh tế xã hội, Binh đoàn 16 đã chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân trên địa bàn; trong đó đặc biệt quan tâm củng có xây dựng lực lượng khung thường trực và tổ chức lực lượng dân quân tự vệ phù hợp với tổ chức mô hình khu kinh tế quốc phòng. Trên cơ sở tổ chức biên chế, mỗi trung đoàn (KTQP) xây dựng một Đại đội tự vệ có đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, sẵn sàng cơ động làm nhiệm vụ khi tình huống xảy ra. Lực lượng tự vệ được tổ chức chặt chẽ dưới sự chỉ huy thống nhất của Binh đoàn nên hoạt động ngày càng hiệu quả. Cụ thể, Binh đoàn 16 đã tập trung xây dựng các cụm điểm dân cư dọc tuyến biên giới (tổ chức thành 24 đội sản xuất gắn với việc hình thành 24 cụm, điểm dân cư); phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và lực lượng đóng quân trên địa bàn, nắm chắc tình hình an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới, duy trì nghiêm chế độ SSCĐ, đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động tôn giáo trái phép và dân di cư tự do. Đặc biệt trong sự kiện gây rối năm 2001 và 2004 không có đồng bào dân tộc địa phương trong vùng dự án tham gia biểu tình, bạo loạn.

Dự án triển khai thực hiện trên tuyên biên giới Việt Nam- Campuchia, phía Tây của tỉnh Đắk Lắk và phía Tây Nam của tỉnh Gia Lai với chiều dài biên giới khoảng 34 km đóng xen kẽ với 4 Đồn biên phòng đã góp phần ngăn chặn hiện tượng vượt biên, nhập biên trái phép. Thông qua phát triển kinh tế của dự án đã đưa dân khép kín dọc tuyến biên giới, góp phần xây dựng hệ thống chính trị 2 xã mới trong vùng dự án ổn định dân cư, làm phên dậu biên giới quốc gia.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện dự án cũng gặp khó khăn, như: Khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng không thích hợp với sự phát triển, sinh trưởng của cây điều; diện tích vườn điều kém phát triển chiếm tỷ lệ cao; Binh đoàn chuyển sang trồng keo và bạch đàn, tình hình keo chết cao. Do vậy, sản xuất vườn điều, keo không hiệu quả, thua lỗ, đơn vị lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, mất cân đối, không có khả năng trả nợ ngân hàng, đời sống nhân dân ảnh hướng lớn và khó khăn, tình hình an ninh, chính trị vùng dự án có nguy cơ mất ổn định.

3. Tình hình thực hiện dự án Khu KTQP Ea Súp, tỉnh Đăk Lăk từ năm 2015 đến nay

Khắc phục trình trạng trên đây, Bộ Quốc phòng đã ban hành Quyết định số 160/QĐ-BQP ngày 20/01/2015 (chuyển nguyên trạng và tổ chức lại Trung đoàn 736, Trung đoàn 737 từ Binh đoàn 16 về Quân khu 5 và tổ chức lại thành Đoàn kinh tế quốc phòng 737/QK5); ngày 25/5/2015, Binh đoàn 16 đã bàn giao nguyên trạng Dự án khu KTQP địa bàn huyện Ea Súp tỉnh Đắk Lắk cho Quân khu 5.

 Dưới sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Quân khu 5, Đoàn kinh tế quốc phòng 737/QK5 đã trực tiếp xử lý nợ xấu và hỗ trợ trực tiếp cho các hộ dân khu kinh tế quốc phòng để ổn định sản xuất và đời sống, cụ thể: 

- Hỗ trợ trên 44 tỷ đồng, cấp cho 2.453 hộ trên địa bàn Khu KTQP Ea Súp thanh lý vườn điều do không hiệu quả.

- Hỗ trợ 35 tỷ đồng để BTL Quân khu 5 tổ chức khai hoang 1.819,14 ha đất, bàn giao và phối hợp chặt chẽ với địa phương để cấp thêm đất cho người dân 02 xã Ia Rvê, Ia Lốp ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất.

 - Xây dựng nhà ở cho các hộ đặc biệt khó khăn, nhà tình nghĩa được 37 căn nhà, giá trị 2,59 tỷ đồng; phối hợp với 02 xã Ia Rvê và Ia Lốp tổ chức khám bệnh, tư vấn sức khỏe, thu dung điều trị cho nhân dân, cấp phát thuốc miễn phí, tặng quà cho các gia đình chính sách, giúp dân sửa chữa, lợp mái nhà do bị lốc xoáy (tổng giá trị khoảng 300 triệu đồng).

- Ngày 23/3/2016, BTL Quân khu 5 đã chủ trì phối hợp với UBND tỉnh Đắk Lắk cùng một số cơ quan Bộ Quốc phòng và một số các nhà khoa học tổ chức hội thảo, nghe tham luận các nội dung như khí hậu, thời tiết, về lựa chọn cây trồng phù hợp cho sản xuất, kinh phí, mối quan hệ hợp tác, điều kiện phát triển phục vụ việc Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội Khu KTQP huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk/QK5.

 Sau khi Hội thảo, BTL Quân khu 5 đã tiếp thu toàn bộ ý kiến định hướng chỉ đạo của UBND tỉnh Đắk Lắk và ý kiến tham luận của các nhà khoa học, hoàn thiện hồ sơ dự án trên trình Bộ Quốc phòng phê duyệt. Hiện nay, các cơ quan Bộ Quốc phòng đang tích cực thẩm định trình Thủ trưởng Bộ Quốc phòng phê duyệt quy hoạch làm cơ sở triển khai thực hiện đầu tư vào kế hoạch năm 2017. Trước mắt, năm 2016, Bộ Quốc phòng tiếp tục đầu tư ngân sách QPTX để triển khai xây dựng các dự án hạ tầng phục vụ trực tiếp đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân.

Nhờ những chỉ đạo kịp thời của QUTW và Bộ Quốc phòng, quyết tâm của BTL Quân khu 5, tình hình an ninh chính trị trên địa bàn đã ổn định, niềm tin của người dân và chính quyền địa phương vào Quân đội được củng cố.

17. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Đề nghị bổ sung các đối tượng là người phục vụ chiến đấu chiến trường Campuchia; những người tham gia sau năm 1975 đã phục viên xuất ngũ (giai đoạn từ 1975-1989)... được thụ hưởng chính sách theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/11/2011 quy định về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quôc tê ở Cămpuchia, giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc.

Trả lời: (Tại Công văn số 4240/BQP-CT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ quy định: Quân nhân, công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân, công an nhân dân nhập ngũ, tuyển dụng sau ngày 30/4/1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc trước ngày 01/4/2000 hoặc chuyển ngành rồi thôi việc trước ngày 01/01/1995; cán bộ, công nhân viên chức đã thôi việc trước ngày 01/01/1995; cán bộ xã, dân quân tự vệ, công an xã, thanh niên xung phong nếu có thời gian trực tiếp tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, làm nhiệm vụ truy quét FulRô thuộc địa bàn các tỉnh Tây Nguyên hoặc các địa bàn phụ cận có chiến sự xảy ra hoặc có thời gian làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào, Cămpuchia trong khoảng thời gian quy định sau ngày 30/4/1975, hiện không thuộc diện đang hưởng chế độ hưu trí, mất sức lao động, bệnh binh hàng tháng hoặc đang công tác hưởng lương từ ngân sách Nhà nước có tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, đều thuộc đối tượng được xem xét, giải quyết chế độ, chính sách theo Quyết định nêu trên.

Đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Tây Ninh giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách đối với các đối tượng trên địa bàn theo quy định trong thời gian sớm nhất.

18. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị: Tại Điều 30 của Luật Nghĩa vụ Quân sự quy định: “Công dân đủ 18 tuổi được gọi nhập ngũ; độ tuổi gọi nhập ngũ từ đủ 18 tuổi đến hết 25 tuổi; công dân đào tạo trình độ cao đẳng, đại học đã được tạm hoãn gọi nhập ngũ thì độ tuổi gọi nhập ngũ đến hết 27 tuổi”, như vậy, sau khi hoàn thành NVQS thì thanh niên đã gần 30 tuổi, ảnh hưởng đến cơ hội tìm việc làm sau khi hoàn thành NVQS. Kiến nghị ngành chức năng xem xét tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người tham gia NVQS.

Trả lời: (Tại Công văn số 5605/BQP-CT ngày 19 tháng 6 năm 2016)

Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 (Luật NVQS 2015) được Quốc hội Khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ 9, ngày 19 tháng 6 năm 2015, Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2016. Tại Điều 30 quy định độ tuổi gọi nhập ngũ: ‘Công dân đủ 18 tuổi được gọi nhập  ngũ; độ tuổi gọi nhập ngũ từ đủ 18 tuổi đến hết 25 tuổi; công dân được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học đã được tạm hoãn gọi nhập ngũ thì độ tuổi gọi nhập ngũ đến hết 27 tuổi”; Điều 21 quy định về thời hạn phục vụ tại ngũ trong thời bình của hạ sĩ quan, binh sĩ là 24 tháng; như vậy những công dân nhập ngũ ở độ tuổi 27, sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự gần 30 tuổi. Vấn đề cử tri nêu là một trong những điểm mới so với quy định của Luật NVQS trước đây; quá trình soạn thảo, các Bộ, nghành, các địa phương và cơ quan soạn thảo thấy rằng:

- Quy định như trên đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực  cao để xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại, nhất là những công dân tốt nghiệp đại học, cao đẳng có trình độ chuyên môn, nghành nghề cần cho Quân đội;

- Tạo điều kiện cho những công dân đã được tạm hoãn trong thời gian học đại học có cơ hội thực hiện quyền và nghĩa vụ thiêng liêng của mình đối với Tổ quốc đã được ghi trong Hiến pháp năm 2013.

- Việc gọi nhập ngũ những công dân đã được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong quá trình học tập chương trình cao đẳng, đại học hệ chính quy cũng một phần nhằm góp phần đảm bảo công bằng xã hội đối với mọi công dân trong thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định của Luật; hơn nữa Luật NVQS 2015 cũng quy định cụ thể về chế độ chính sách ưu tiên đối với hạ sĩ quan, binh sĩ hoàn thành nghĩa vụ quân sự được ưu tiên trong xét tuyển, thi tuyển công chức; được hỗ trợ tạo việc làm v.v, vì vậy Luật NVQS 2015 quy định những công dân được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học độ tuổi gọi nhập ngũ đến hết 27 tuổi là phù hợp với thực tiễn xây dựng Quân đội và đời sống xã hội hiện nay.

19. Cử tri tỉnh Bình Định kiến nghị: Cử tri cho rằng hiện nay việc tuyển chọn công dân nhập ngũ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là nhóm đối tượng đã hoàn thành chương trình học đại học, cao đẳng có trình độ cao lại càng khó tuyển chọn. Cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành liên quan sớm xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Nghĩa vụ Quân sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2016); Luật Quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng (có hiệu lực từ ngày 01/7/2016); cụ thể hóa các chính sách đối với nhóm đối tượng này để thu hút những công dân có trình độ, chuyên môn cao tham gia lâu dài lực lượng quân đội nhằm xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng.

Trả lời: (Tại Công văn số 5604/BQP-QL ngày 19 tháng 6 năm 2016)

Luật quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2015, Luật có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2016, đã tạo hành lang pháp lý quan trọng để quản lý Nhà nước về quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành về quân sự quốc phòng; Luật được ban hành đã giải quyết nhiều vấn đề về vị trí chức năng, quyền, nghĩa vụ của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; về việc phong, thăng quân hàm của quân nhân chuyên nghiệp; chế độ tiền lương của công nhân và viên chức quốc phòng; một số nội dung cơ bản được thể hiện như sau:

- Căn cứ quy định của Luật, Bộ Quốc phòng đang chủ trì phối hợp với bộ, ngành Trung ương xây dựng hệ thống các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; theo đó, công dân Việt Nam có đủ các tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, sức khỏe, lý lịch rõ ràng; tự nguyện phục vụ trong Quân đội; có văn bằng chứng chỉ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ phù hợp với các chức danh mà Quân đội có nhu cầu thì được xem xét tuyển dụng vào quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; trường hợp tốt nghiệp đại học hệ chính quy loại giỏi, xuất sắc hoặc có trình độ kỹ thuật bậc cao, người đạt giải trong các cuộc thi tay nghề quốc gia, quốc tế thì được tuyển chọn, tuyển dụng thông qua xét tuyển và được xếp thang bảng lương là ngành lao động đặc biệt.

- Tiền lương và các chế độ chính sách khác của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng được xác định theo trình độ đào tạo, chức danh, diện bố trí và vị trí việc làm; các chức danh nghề nghiệp phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của Quân đội được nhà nước đảm bảo chung, đó là: Được hưởng phục cấp thâm niên; phụ cấp, trợ cấp như đối với cán bộ, công chức, viên chức có cùng điều kiện làm việc; được hưởng chính sách ưu tiên hỗ trợ về nhà ở, thuê nhà công vụ theo quy định của pháp luật và một số chế độ ưu đãi khác. Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2016, trong đó có quy định về việc tuyển chọn, tuyển dụng và quy định về chế độ chính sách sẽ có tác động tích cực đến đội ngũ quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng trong lực lượng vũ trang nhân dân, nhằm thu hút những công dân được đào tạo có trình độ cao đẳng, đại học vào phục vụ trong Quân đội, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

20. Cử tri tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu kiến nghị: Cử tri phản ánh một số sinh viên đại học, cao đẳng, trung cấp nghề chưa tốt nghiệp do còn nợ môn nhưng vẫn bị gọi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Cử tri đề nghị nhà nước cần có chính sách tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự đối với các sinh viên này với thời hạn 01 năm.

Trả lời: (Tại Công văn số 5607/BQP-QL ngày 19 tháng 6 năm 2016)

Đối với đối tượng sinh viên đã học xong một khóa đào tạo của một chương trình đào tạo nhưng chưa tốt nghiệp vì con nợ môn; theo quy định của Luật NVQS 2015 thì hết thời gian của khóa học đã được tạm hoãn nên công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự; quy định trên của Luật vừa thể hiện tính nghiêm minh, vừa đảm bảo công bằng với mọi công dân, mặt khác thực tế tỷ lệ sinh viên nợ môn không nhiều; nếu công dân trước khi nhập ngũ còn nợ môn thi thì được bảo lưu, sau khi hoàn thành nghĩa vụ tiếp tục ôn thi; tuy nhiên với những trường hợp cá biệt nêu trên, việc được xem xét tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ quân sự thời hạn 01 năm hay không do thẩm quyền của Hội đồng nghĩa vụ quân sự cấp huyện xem xét, quyết định.

21. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: nghiên cứu, xem xét có chính sách ưu tiên cho đối tượng là sinh viên đại học hệ chính quy được tạm hoãn nhập ngũ (theo Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2016) tạo điều kiện cho đối tượng này không bị gián đoạn trong quá trình học tập.

Trả lời: (Tại Công văn số 5608/BQP-QL ngày 19 tháng 6 năm 2016)

Điều 41 Luật NVQS 2015 quy định đối tượng tạm hoãn gọi nhập ngũ được thu hẹp hơn, riêng đối với diện học sinh, sinh viên được quy định tại Điểm g, Khoản 1, Điều 41 như sau: “Đang học tại cơ sở giáo dục phổ thông; đang được đào tạo trình độ đại học hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục đại học, trình độ cao đẳng hệ chính quy thuộc cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong thời gian một khóa đào tạo của một trình độ đào tạo”, như vậy đối tượng là sinh viên đang học cao đẳng, đại học hệ chính quy thuộc diện được tạm hoãn gọi nhập ngũ trong thời gian đang theo học do đó không bị gián đoạn trong quá trình học tập.

22. Cử tri tỉnh Thừa Thiên Huế kiến nghị: Thời gian vừa qua, Trung Quốc đã tiến hành xây dựng và đưa các hệ thống trang thiết bị quân sự ra các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Đây là hành động leo thang gây căng thẳng cho vùng Biển Đông nước ta. Cử tri đề nghị Chính phủ ngoài các biện pháp đấu tranh ngoại giao, tiếp tục đầu tư, hỗ trợ đóng mới các hệ thống tàu thuyền cho lực lượng Kiểm ngư, Cảnh sát biển nhằm phục vụ tuần tra dài ngày, bảo vệ chủ quyền và bảo vệ ngư dân trên vùng biển nước ta.

Trả lời: (Tại Công văn số 5609/BQP-TM ngày 19 tháng 5 năm 2016)

Trong những năm vừa qua, Bộ Quốc phòng đã tham mưu cho Đảng, Chính phủ hàng năm dành một phần ngân sách đầu tư mua sắm, cải tiến vũ khí, trang bị cho Quân đội nói chung, Quân chủng Hải quân và Cảnh sát biển nói riêng, đây là lực lượng được ưu tiên đầu tư vũ khí trang bị hiện đại nhất hiện nay; Bộ Quốc phòng có chủ trương kết hợp mua sắm phương tiện, trang thiết bị mới với tăng cường sản xuất, nâng cấp, sửa chữa trong nước; đồng thời đầu tư phát triển ngành công nghiệp quốc phòng để từng bước phát huy khả năng tự lực, tự cường, tự sản xuất được các loại phương tiện tàu thuyền, trang thiết bị, đã đóng mới các loại tàu tuần tiễu, tàu kiểm ngư, tàu chuyên dụng trọng tải lớn, hiện đại tăng cường, bổ sung cho lực lượng Kiểm ngư, Cảnh sát biển để thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát thường xuyên, dài ngày trên các vùng biển xa bờ, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc; phát hiện và ngăn ngừa tàu thuyền vi phạm; giữ vững ổn đình tình hình an ninh, trật tự trên các vùng biển, nhất là vùng biến tiếp giáp với nước ngoài, vùng biển phức tạp về an ninh, kịp thời bảo vệ, hỗ trợ ngư dân khi có tình huống xảy ra; tạo điều kiện để ngư dân yên tâm sản xuất.

23. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: đề nghị lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển cần tăng cường bảo vệ để ngư dân bám biển, giữ biển.

Trả lời: (Tại Công văn số 5610/BQP-TM ngày 19 tháng 6 năm 2016)

- Vấn đề này, Bộ Quốc phòng đã tham mưu cho Chính phủ tăng cường đầu tư phát triển lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, Biên phòng, Kiểm ngư và lực lượng vũ trang các quân khu ven biển để vừa tăng cường sức mạnh quản lý, bảo vệ biển đảo, vừa thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ngư dân ta trên các vùng biển đảo, đặc biệt trên các vùng biển xa bờ; phát triển đội tàu đánh bắt xa bờ làm nòng cốt, chỗ dựa bảo vệ ngư dân đánh bắt hải sản; tăng cường huấn luyện, diễn tập bảo vệ ngư dân hoạt động trên biển xa.

- Tham mưu cho Đảng, Nhà nước về phát triển các cơ sở bảo đảm, hỗ trợ cho ngư dân làm ăn trên biến, như xây dựng các âu tàu, khu tránh trú, neo đậu tàu thuyền phục vụ ngư dân, các trạm bảo đảm hậu cần, kỹ thuật nghề cá trên các đảo Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, Đá Tây, Song Tử Tây...; xây dựng các công trình dân sinh kết hợp quốc phòng trên các đảo thuộc quân đảo Trường Sa, đảo Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, Thổ Chu... như đường giao thông, cầu tàu, trạm phát điện, dự trữ nước ngọt, đèn biển, phủ sóng thông tin liên lạc, y tế,...để ngư dân ổn định đời sống, yên tâm bám biển.

- Chính phủ đã đầu tư đóng mới, bổ sung cho lực lượng Hải quân, Biên phòng, Cảnh sát biển, lực lượng Kiểm ngư hàng trăm tàu để tăng cường tuần tra, kiểm soát trên các vùng biển, đặc biệt những khu vực tình hình an ninh phức tạp để bảo đảm ổn định tình hình, giữ gìn an ninh, trật tự, tạo điều kiện cho ngư dân ta yên tâm sản xuất. Bộ Quốc phòng đang triển khai Đề án đóng mới hàng chục tàu tuần tra kết hợp tìm kiếm cứu nạn trang bị cho Biên phòng các tỉnh ven biển và các lực lượng hoạt động trên biển để hỗ trợ, cứu giúp ngư dân khi gặp sự cố.

- Lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, Biên phòng thường xuyên tuần tra, kiểm soát vùng biển, duy trì an ninh, trật tự bảo đảm cho ngư dân yên tâm làm ăn. Đồng thời tổ chức lực lượng cứu hộ, cứu nạn trên biển và thiết lập hệ thống thông tin liên lạc với ngư dân để nắm tình hình, sẵn sàng hỗ trợ khi ngư dân có yêu cầu.

Bộ Quốc phòng xác định, để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc phải bằng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân; đặc biệt là sự gắn kết chặt chẽ giữa các lực lượng quản lý, bảo vệ biển của Bộ Quốc phòng với ngư dân họat động trên các vùng biển để kịp thời phát hiện và xử lý có hiệu qủa các tình huống xảy ra.

24. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Theo quy định hiện hành, việc tuyển chọn lực lượng Dân quân tự vệ ở cơ sở không cần phải khám sức khoẻ, trong khi chức năng, nhiệm vụ của lực lượng này là rất quan trọng: sẵn sàng chiến đấu bảo vệ cách mạng, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Cử tri đề nghị Bộ Quốc phòng nghiên cứu bổ sung việc khám sức khoẻ trước khi tuyển chọn và khám sức khoẻ định kỳ đối với lực lượng Dân quân tự vệ ở cơ sở như khám tuyển nghĩa vụ quân sự.

Trả lời: (Tại Công văn số 5611/BQP-TM ngày 19 tháng 6 năm 2016)

Căn cứ vào Pháp Luật Dân quân tự vệ (DQTV) và các văn bản pháp luật có liên quan. Bộ Quốc phòng có ý kiến như sau:

Tại Điểm c Khoản 4 Điều 11 Luật DQTV năm 2009 quy định Tiêu chuẩn và tuyển chọn vào dân quân tự vệ : “ Đủ sức khoẻ thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ”.

Tại Điểm a Khoản 1 Điều 12 Luật DQTV năm 2009  quy định Tạm hoãn, miễn, thôi trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ  trong thời bình “Sức khỏe bị suy giảm Không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ nòng cốt theo kết luận của cơ sở y tế từ cấp xã trở lên”.

Tại Điểm c Khoản 1 Điều 4 Thông tư số 33/2016/TT- BQP ngày 29 tháng 03 năm  2016 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về hướng dẫn một số điều của Luật Dân quân tự vệ và Nghị định số 03/2016/NĐ-CP ngày 05 tháng 01 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật Dân quân tự vệ Quy định. “ Có đủ sức khỏe do y tế cấp xã và tương đương xác nhận”.

Tại Điều 40 Luật Nghĩa vụ quân sự  năm 2015 quy định: Hội đồng khám sức khỏe của Ủy ban nhân dân cấp huyện chỉ áp dụng cho đối tượng là công dân gọi nhập ngũ và thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân.

Như vậy tiêu chuẩn sức khỏe đối với lực lượng Dân quân tự vệ do y tế cấp xã và tương đương xác nhận đã được quy định cụ thể trong Pháp luật DQTV,vì vậy không sử dụng Hội đồng khám sức khỏe của Ủy ban nhân dân cấp huyện khám sức khỏe cho Dân quân tự vệ  như kiến nghị của cử tri tỉnh Ninh Thuận.

25. Cử tri tỉnh Hà Nam kiến nghị: Đề nghị Nhà nước quan tâm hơn nữa đến chế độ chính sách đối với quân nhân sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự xuất ngũ trở về địa phương cụ thể như nâng mức trợ cấp xuất ngũ và quan tâm đến công tác đào tạo giải quyết việc làm cho đối tượng quân nhân xuất ngũ.

Trả lời: (Tại Công văn số 4214/BQP-CT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

Thi hành Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015, ngày 06/4/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 27/2016/NĐ-CP quy định một số chế độ, chính sách đối với hạ sĩ quan, binh sĩ phục vụ tại ngũ, xuất ngũ và thân nhân của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ. Theo đó, kể từ ngày 01/01/2016, hạ sĩ quan, binh sĩ khi xuất ngũ, ngoài chế độ bảo hiểm xã hội một lần theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, còn được hưởng trợ cấp xuất ngũ một lần, trợ cấp tạo việc làm, nếu có nhu cầu học nghề còn được hỗ trợ đào tạo nghề theo quy định tại Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 của Chính phủ về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và quỹ quốc gia về việc làm.

26. Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị Bộ chỉ đạo Ban quản lý dự án đường Trường Sơn Đông thi công nâng cao các mặt đường dân sinh đấu nối với đường Trường Sơn Đông đoạn qua huyện Krông Pa, nhằm tạo điều kiện cho nhân dân đi lại dễ dàng; đồng thời, làm hoàn chỉnh các cống thoát nước một số đoạn đường để tránh ngập úng diện tích hoa màu của nhân dân.

Trả lời: (Tại Công văn số 5612/BQP-TM ngày 19 tháng 6 năm 2016)

Về vấn đề này Bộ Quốc phòng có ý kiến như sau: Theo hồ sơ gói thầu Đ32 (Km440+00 - Km458+00) bao gồm 55 cống thoát nước ngang và 71 đường giao dan sinh; gói thầu Đ33 (Km458+00 - 475+00) gồm 37 đường giao và 40 cống ngang. Thực tế kiểm tra các đường giao đã được thi công đúng hồ sơ thiết kế bảo đảm an sinh cho người dân, cống thoát nước phù hợp với địa hình.

Ý kiến cử tri đưa ra chung chung, không cụ thể và chưa rõ từng vị trí nên khi đối chiếu với hồ sơ thiết kế không đánh giá được các nội dung cụ thế theo phản ánh của cử tri. Bộ Quốc phòng sẽ chỉ đạo Ban quản lý dự án tiếp tục làm việc với địa phương để giải quyết các vướng mắc tại từng vị trí.

27. Cử tri tỉnh Yên Bái kiến nghị: Cử tri đề nghị đối với lực lượng cán bộ, công nhân viên ngành quân giới Việt Nam khi nghỉ hưu cũng được nhà nước cho hưởng chế độ, chính sách như là người phục vụ trong lực lượng vũ trang nghỉ hưu để tránh thiệt thòi cho đối tượng này.

Trả lời: (Tại Công văn số 4242/BQP-CT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

Ý kiến kiến nghị của cử tri nêu chưa rõ, do đó, Bộ Quốc phòng không có cơ sở để trả lời cụ thể. Tuy nhiên, theo các văn bản quy định hiện hành, cán bộ, công nhân viên ngành Quân giới công tác trong Quân đội (kể cả là quân nhân hay không phải là quân nhân), khi nghỉ hưu đều được thực hiện chế độ nghỉ hưu theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái nắm lại ý kiến kiến nghị cụ thể trên của cử tri để có phúc đáp phù hợp.

28. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: xem xét nâng mức hỗ trợ bảo hiểm y tế cho đối tượng là thân nhân của sỹ quan quân đội khi bị bệnh hiểm nghèo vì mức hỗ trợ như hiện nay còn thấp (chỉ bằng hoặc dưới mức 40%), trong khi điều kiện sống của đối tượng này còn nhiều khó khăn.

Trả lời: (Tại Công văn số 4361/BQP-CT ngày 18 tháng 5 năm 2016)

Về mức hưởng bảo hiểm y tế, tại Điều 22 Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ sung năm 2014, quy định: Nếu thân nhân quân nhân không thuộc đối tượng có mức hưởng cao hơn thì được hưởng 80% chi phí khám bệnh, chữa bệnh, phần còn lại (20%) người bệnh phải thực hiện cùng tri trả.

Theo đó, ngày 17/11/2014, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 40/2014/TT-BYT hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc tân dược thuộc phạm vi thanh toán của quỹ BHTY. Thông tư này quy định các thuốc dùng để điều trị bệnh ung thư gồm 65 loại, trong đó, có 52 loại thuốc được thanh toán 100%, 13 loại thuốc được thanh toán 50% kèm theo một số điều kiện.

Như vậy, thân nhân quân nhân có mức hưởng bảo hiểm y tế là 80% chi phí khám bệnh, chữa bệnh, nếu phải dùng thuốc được thanh toán 100% thì được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 80% giá tiền của thuốc đó (80% x 100% giá thuốc), nếu dùng thuốc được thanh toán 50% thì người bệnh được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 40% giá tiền của thuốc đó (80% x 50% giá thuốc = 40% giá thuốc).

Đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội và UBND tỉnh Đồng Nai phối hợp với Bộ Y tế  nghiên cứu, đề xuất báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định.

29. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan xem xét, quy định chế độ, chính sách hợp lý cho lực lượng dân quân tự vệ khi điều động làm nhiệm vụ. Hiện nay việc chi trả ngày công cho các đối tượng này còn thấp so với mặt bằng toàn xã hội; các cán bộ xã, phường đội phó hiện chủ yếu là hợp đồng, chưa được đóng bảo hiểm xã hội.

Trả lời: (Tại Công văn số 5613/BQP-TM ngày 19 tháng 6 năm 2016)

- Nội dung thứ nhất: Chế độ chính sách cho lực lượng dân quân tự vệ khi điều động làm nhiệm vụ. Hiện nay việc chi trả ngày công lao động cho các đối tượng này còn thấp so với mặt bằng toàn xã hội;

Điểm a, Điểm b Khoản 2 Điều 47 Luật Dân quân tự vệ (DQTV) năm 2009 quy định Chế độ, chính sách đối với dân quân, trừ dân quân biển và dân quân thường trực, được quy định như sau:

“ a) Được trợ cấp ngày công lao động theo mức do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định nhưng không thấp hơn hệ số 0,08 mức lương tối thiểu chung; nếu làm nhiệm vụ từ 22 giờ đến 06 giờ hoặc ở nơi có yếu tố nguy hiểm, độc hại thì được hưởng chế độ theo quy định của Bộ luật lao động;”.

b) Khi làm nhiệm vụ cách xa nơi cư trú, không có điều kiện đi, về hằng ngày thì được bố trí nơi nghỉ, hỗ trợ phương tiện, chi phí đi lại hoặc thanh toán tiền tàu, xe một lần đi, về; được hỗ trợ tiền ăn theo mức do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định”.

 Như vậy, Luật DQTV năm 2009 quy định trợ cấp ngày công lao động  cho lực lượng dân quân không thấp hơn hệ số 0,08 mức lương cơ sở của cán bộ công chức. Mức này do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định; nếu địa phương có điều kiện quy định mức hỗ trợ cao hơn, quy định của Luật vẫn hoàn toàn đúng.

  Nội dung thứ hai: Cán bộ xã, phường đội phó hiện chủ yếu là hợp đồng chưa được đóng bảo hiểm xã hội của Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã.

 Tại  Khoản 1 Điều 21 Luật DQTV quy định chế độ bảo hiểm xã hội của Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã. “ Ban chỉ huy quân sự cấp xã gồm Chỉ huy trưởng là thành viên Uỷ ban nhân dân cấp xã; Chỉ huy phó; Chính trị viên, Chính trị viên phó là cán bộ kiêm nhiệm. Số lượng Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã do Chính phủ quy định”.  

Tại Khoản 2 Điều 46 Luật DQTV năm 2009 quy định chế độ bảo hiểm xã hội của Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã.“ Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp hàng tháng; đóng và hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật; trường hợp có thời gian công tác liên tục từ đủ 60 tháng trở lên, nếu nghỉ việc có lý do chính đáng mà chưa đủ điều kiện nghỉ hưu thì được hưởng trợ cấp một lần”.

Tại Điểm b Khoản 1; Khoản 4 Điều 17 Nghị định số 03/2016/NĐ-CP ngày 05/4/2016 của Chính phủ quy định chế độ bảo hiểm xã hội của Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã: “ Được đóng và hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong thời gian giữ chức vụ theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế” và Khoản 4 “4. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định mức phụ cấp tháng, tiền ăn, hỗ trợ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã; phụ cấp hằng tháng của Thôn đội trưởng; mức chi phí đi lại cho dân quân tự vệ”.

Tại Điểm i Khoản 1 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định “ người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường thị trấn thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc”.

Tại Khoản 3 Điều 14 Nghị định số 92 của Chính phủ quy định “ Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quy định chức danh những người hoạt động không chuyên trách”.

Như vậy việc trợ cấp ngày công lao động  cho lực lượng dân quân không thấp hơn hệ số 0,08 mức lương tối thiểu chung và chế độ bảo hiểm xã hội của Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự cấp xã thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo đó 2 nội dung kiến nghị của cử tri tỉnh Hà Tĩnh luật đã giao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định

30. Cử tri tỉnh Bình Phước kiến nghị: Cử tri và nhân dân tỉnh Bình Phước Đề nghị Bộ quốc phòng, Bộ Tư lệnh quân chủng phòng không - không quân, Bộ Tư lệnh binh chủng Tăng thiết giáp, Bộ Tư lệnh quân khu 7 tạo điều kiện hỗ trợ cho thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước sưu tầm hiện vật như: 01 máy bay A37 và 01 xe tăng T54, để trưng bày tại Nhà truyền thống thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước, nhằm góp phần làm tốt hơn việc lưu giữ, tuyên truyền và giáo dục truyền thống cách mạng của tỉnh, của quân đội cho thế hệ trẻ mai sau, đồng thời tạo nên sự đa dạng, phóng phú về số lượng hiện vật lịch sử cách mạng để trưng bày tại bảo tàng tỉnh.

Trả lời: (Tại Công văn số 5839/BQP-QL ngày 24 tháng 6 năm 2016)

Để có hiện vật vũ khí trưng bày tại các bảo tàng là kiến nghị chính đáng của địa phương, cơ quan, đơn vị; tuy nhiên nhu cầu nhiều nhưng hiện tại số vũ khí cấp 5 loại khỏi biên chế thuộc chủng loại máy bay, xe tăng rất ít; đa số đã được tận dụng để lấy phụ tùng sửa chữa phục hồi hoặc làm mô hình học cụ để phục vụ học tập, huấn luyện cho các đơn vị. Theo quy định về thủ tục hồ sơ, đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước có tờ trình gửi Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Bộ Tư lệnh Binh chủng Tăng thiết giáp và Bộ Tư lệnh Quân khu 7 để các cơ quan rà soát, trình, cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

31. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị: Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ tháng 5 năm 2015 nhưng đến nay vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định của Chính phủ, Thông tư liên bộ, các văn bản hướng dẫn cụ thể,...). Do đó, tại địa phương chưa quan tâm thực hiện chính sách nhà ở, đất ở cho sĩ quan. Đề nghị sớm cụ thể hóa Luật đảm bảo được thực hiện tại các địa phương.

Trả lời: (Tại Công văn số 4243/BQP-CT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

1. Thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2014, Chính phủ và Bộ Quốc phòng đã ban hành các văn bản triển khai thực hiện, gồm: Nghị định số 107/2015/NĐ-CP ngày 24/10/2015 của Chính phủ quy định chức vụ, chức danh tương đương của Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; Thông tư số 44/2015/TT-BQP ngày 09/6/2015 của Bộ Quốc phòng quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Điều 25a Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam về trình tự, thủ tục phong, thăng, giáng, tước cấp bậc quân hàm đối với sĩ quan cấp tá, cấp úy và nâng lương sĩ quan; Thông tư số 45/2015/TT-BQP ngày 09/6/2015 của Bộ Quốc phòng quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Điều 13 và Điều 16 Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam về hạn tuổi của sĩ quan giữ chức vụ chỉ huy, quản lý; kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ của sĩ quan; phong quân hàm học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan tại ngũ.

Các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam do Bộ Quốc phòng chủ trì soạn thảo, đề xuất đã được thực hiện theo đúng quy định và kế hoạch đề ra.

2. Về nhà ở, đất ở Chính phủ đã ban hành các Nghị định sau:

- Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở, tại Khoản 4, Điều 20, Mục 3 quy định “Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có trách nhiệm lập kế hoạch phát triển nhà ở công vụ của đơn vị mình và gửi xin ý kiến thống nhất của Bộ Xây dựng. Sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ Xây dựng, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an báo cáo Thủ tướng Chính phủ chấp thuận kế hoạch”. Thời gian vừa qua, Bộ Quốc phòng đã triển khai thực hiện gần 200 dự án nhà ở công vụ, từng bước đáp ứng yêu cầu về nhà ở công vụ cho các cơ quan, đơn vị.

- Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý nhà ở xã hội, tại Khoản 5, Điều 8, Chương II quy định “Bộ Quốc phòng, Bộ Công an được phép triển khai các dự án nhà ở xã hội theo quy định tại Nghị định này để giải quyết nhà ở cho các đối tượng quy định tại Khoản 6, Điều 49 của Luật Nhà ở phù hợp với tình hình và điều kiện đặc thù riêng, nhưng phải bảo đảm nguyên tắc mỗi đối tượng chỉ được hỗ trợ một lần”. Hiện nay, Bộ Xây dựng chưa ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định nêu trên, do đó Bộ Quốc phòng chưa có cơ sở để ban hành, hướng dẫn thực hiện trong Quân đội.

32. Cử tri tỉnh Bạc Liêu kiến nghị: Quy định đối với Bộ đội Biên phòng còn nhiều bất cập cụ thể: Cùng là cấp tỉnh nhưng có tỉnh được biên chế cấp Ban (trực thuộc Phòng) có tỉnh không có. Do vậy, việc triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyên môn gặp khó khăn; mặt khác chế độ chính sách đội ngũ Trợ lý, có phụ cấp chức vụ; trần quân hàm thấp hơn một cấp chế độ. Đề nghị Bộ Quốc phòng quy định thống nhất chế độ, quyền lợi cấp ba trực thuộc phòng và đội ngũ trợ lý giữa các tỉnh như nhau.

Trả lời: (Tại Công văn số 5615/BQP-CT ngày 19 tháng 6 năm 2016)

Căn cứ đặc điểm địa lý các tỉnh thành phố trong cả nước có đường biên giới trên đất liền và trên biển, đảo để xây dựng và tổ chức lực lượng biên phòng. Trên cơ sở đó hệ thống tổ chức, biên chế của lực lượng BĐBP hiện nay được kiện toàn thống nhất từ Bộ Tư lệnh đến các đơn vị bảo đảm đủ về số lượng và chất lượng để thực hiện nhiệm vụ; Bộ Tổng Tham mưu đã ký Quyết định số 475/QĐ-TM ngày 05 tháng 4 năm 2010 về việc ban hành biểu tổ chức - biên chế của Cục Hậu cần và Phòng hoặc Ban Hậu cần thuộc các BCH BP các tỉnh, thành phố; Quyết định số 474/QĐ-TM ngày 05/4/2010 về việc ban hành biểu tổ chức - biên chế Cục Kỹ thuật và Phòng hoặc Ban Kỹ thuật thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, trong đó quy định cụ thể đối với Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh, thành phố hạng 1(2 tuyến), các Phòng (Tham mưu, Chính trị, Trinh sát, Ma túy) thì tổ chức các Ban, riêng Phòng Hậu cần chỉ tổ chức Ban Doanh trại, Phòng Kỹ thuật chỉ tổ chức Ban xe máy hoặc Ban Tàu thuyền (trực thuộc phòng); các ngành chuyên môn khác như: Quân nhu, Quân y, Xăng dầu, Vận tải; Quân khí không tổ chức Ban chỉ biên chế Trợ lý đảm nhiệm công tác chuyên môn.

Đối với BCH BĐBP tỉnh, thành phố hạng 1(1 tuyến) và hạng 2 trong đó có tỉnh Bạc Liêu thì Phòng Hậu cần, Phòng Kỹ thuật các ngành Doanh trại, Quân nhu, Quân y, Xăng dầu, Vận tải; Xe máy, Tàu thuyền, Quân khí không tổ chức Ban, chỉ biên chế Trợ lý đảm nhiệm công tác chuyên môn.

Về chế độ chính sách đội ngũ trợ lý, có phụ cấp chức vụ; trần quân hàm thấp hơn một chế độ; Bộ trưởng BQP đã ban hành Thông tư số 100/2013/TT-BQP ngày 16/7/2013 về quy định tên gọi, nhóm chức vụ, cấp bậc quân hàm cao nhất của sĩ quan thuộc BĐBP; trong đó quy định chức vụ chỉ huy, quản lý đơn vị có nhóm chức vụ (phụ cấp chức vụ); các chức danh là trợ lý không quy định nhóm chức vụ (phụ cấp chức vụ); tuy nhiên có một số trợ lý như: Trợ lý Thanh tra, Ủy Ban kiểm tra, Điều tra viên, trợ lý Pháp chế...thì được hưởng phụ cấp trách nhiệm ngành (không phải là phụ cấp chức vụ); về trần quân hàm của sĩ quan được quy định trong Thông tư theo nguyên tắc chỉ huy “Cấp trên - cấp dưới”; phạm vi và trách nhiệm công việc của cơ quan, đơn vị và từng chức danh; do đó cùng chức danh trợ lý trần quân hàm quy định trợ lý có sự khác nhau.

33. Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Cử tri đề nghị Bộ Quốc phòng xem xét bố trí biên chế cán bộ chuyên trách đảm nhiệm công tác giáo dục quốc phòng và an ninh ở Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để đảm bảo tốt hơn nhiệm vụ theo yêu cầu trong tình hình mới và phối hợp Bộ Tài chính ban hành văn bản quy định cụ thể về chế độ cho các đối tượng tham gia bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh và trang thiết bị phục vụ công tác bỗi dưỡng theo Luật giáo dục quốc phòng và an ninh.

Trả lời: (Tại Công văn số 5614/BQP-TM ngày 19 tháng 6 năm 2016)

Nội dung thứ nhất: Xem xét bố trí cán bộ chuyên trách đảm nhiệm công tác giáo dục quốc phòng và an ninh ở Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Tại Điều 44 của Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh quy định Hội đồng Giáo dục quốc phòng và an ninh các cấp.

Theo đó Cơ quan Thường trực Hội đồng Giáo dục quốc phòng và an ninh  cấp tỉnh là cơ quan Bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa quy định cán bộ làm nhiệm vụ công tác giáo dục quốc phòng và an ninh cấp tỉnh là cán bộ chuyên trách. Tuy nhiên hầu hết cơ quan thường trực công tác giáo dục quốc phòng và an ninh đều cử  cán bộ chuyên sâu nắm về giáo dục quốc phòng và an ninh. Bộ Quốc phòng ghi nhận ý kiến để báo cáo cấp có thẩm quyền.

Nội dung thứ hai: Đề nghị Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ Tài chính ban hành văn bản quy định cụ thể chế độ cho các đối tượng tham gia bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh và trang thiết bị phục vụ công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh.

Theo Điều 7 của Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh quy định: “Công dân có quyền và trách nhiệm học tập, nghiên cứu để nắm vững kiến thức quốc phòng và an ninh. Người tham gia giáo dục quốc phòng và an ninh được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật”.

Theo Điều 18 Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh quy định:

- Đối tượng  cán bộ, công chức, viên chức quản lý, đại biểu dân cử, người quản lý trong doanh nghiệp nhà nước; những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là cấp xã); trưởng thôn, bản, phun, sóc, tổ dân phố (sau đây gọi là thôn); trưởng các đoàn thể ở thôn; Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam khi bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh được hưởng nguyên lương, phụ cấp; trường hợp xa nơi cư trú được bố trí nơi nghỉ, hỗ trợ phương tiện hoặc thanh toán tiền tàu, xe một lần đi, về và hỗ trợ tiền ăn do ngân sách nhà nước bảo đảm.

- Người quản lý doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, người quản lý đơn vị sự nghiệp ngoài công lập khi bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh được hưởng nguyên lương, phụ cấp, hỗ trợ phương tiện hoặc thanh toán tiền tàu, xe một lần đi, về và hỗ trợ tiền ăn do doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập bảo đảm; chi phí bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh, nơi nghỉ cho đối tượng xa nơi cư trú do ngân sách nhà nước bảo đảm.

- Doanh nghiệp hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo khi bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh xa nơi cư trú được bố trí nơi nghỉ, hỗ trợ phương tiện hoặc thanh toán tiền tàu, xe một lần đi, về và hỗ trợ tiền ăn do ngân sách nhà nước bảo đảm.

Theo Khoản 4, 5 Điều 10 Nghị định số 13/2014/NĐ-CP ngày 25/02/2014 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh quy định:

- Bảo đảm phương tiện, vật chất, giáo trình, tài liệu giáo dục quốc phòng và an ninh cho cơ quan, đơn vị, cơ sở giáo dục của địa phương.

- Bảo đảm hoạt động của Hội đồng giáo dục quốc phòng và an ninh, cơ quan Thường trực Hội đồng giáo dục quốc phòng và an ninh cấp tỉnh, cấp huyện; Hội đồng giáo dục quốc phòng và an ninh cấp xã.

34. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị: Cử tri đề nghị xem xét, bổ sung trường hợp được xét tặng hoặc truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” đối với bà mẹ có 01 con là liệt sĩ và có công nuôi dưỡng 01 liệt sĩ.

Trả lời: (Tại Công văn số 4726/BQP-CT ngày 28 tháng 5 năm 2016)

Danh hiệu Vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” nhằm tôn vinh những bà mẹ đã có nhiều cống hiến, hy sinh về sự nghiệp giả phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và nghĩa vụ quốc tế vì đã có những người con, bản thân, người chồng công hiến, hy sinh cho sự nghiệp các mạng giải phóng dân tộc; thể hiện truyền thống, đạo lý” uống nước nhơ nguồn” “Đền ơn đáp nghĩa” của Đảng, nhà nước và nhân dân ta, nét dẹp văn hóa của dân tộc Việt Nam.

Đối với bà mẹ có 01 con là liệt sỹ và có công nuôi dưỡng 01 liệt sĩ, không thuộc đối tượng xét tặng hoạch truy tặng danh hiệu vinh dự nhà nước” Bà mẹ Việt nam anh hùng” theo quy định tại Pháp lệnh sô 05/2012/UBTVQH 13 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, vấn đề cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị, Bộ Quốc phòng sẽ tổng hợp, phối hợp với các bộ ngành xem xet, nghiên cứu, đề xuất trong thời gian tới.

35. Cử tri tỉnh Long An kiến nghị: Kiến nghị hướng dẫn về việc chi tiền tổ chức lễ tang cho Mẹ Việt Nam anh hùng khi từ trần (2 tháng lương tối thiểu, tại khoản 5 Điều 3 Nghị định 56/2013/NĐ-CP ngày 22/5/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”).

Trả lời: (Tại Công văn số /BQP-CT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

Vấn đề cử tri Long An nêu trên, thuộc thẩm quyền của Bộ Nội vụ được  Chính phủ giao chủ trì, hướng dẫn tổ chức thực hiện Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22/5/2013 của Chính phủ. Đề nghị Ban Dân nguyện/UBTV Quốc hội chuyển đến Bộ Nội vụ để được xem xét, trả lời cụ thể.

36. Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Theo quy định hiện hành, việc tuyển chọn lực lượng Dân quân tự vệ ở cơ sở không cần phải khám sức khoẻ, trong khi chức năng, nhiệm vụ của lực lượng này là rất quan trọng: sẵn sàng chiến đấu bảo vệ cách mạng, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Cử tri đề nghị Bộ Quốc phòng nghiên cứu bổ sung việc khám sức khỏe trước khi tuyển chọn và khám sức khoẻ định kỳ đối với lực lượng Dân quân tự vệ ở cơ sở như khám tuyển nghĩa vụ quân sự.

Trả lời: (Tại Công văn số 5611/BQP-CT ngày 19 tháng 6 năm 2016)

Tại Điểm c Khoản 4 Điều 11 Luật DQTV năm 2009 quy định Tiêu chuẩn và tuyển chọn vào dân quân tự vệ : “ Đủ sức khoẻ thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ”.

Tại Điểm a Khoản 1 Điều 12 Luật DQTV năm 2009  quy định Tạm hoãn, miễn, thôi trước thời hạn thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ  trong thời bình “Sức khỏe bị suy giảm Không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ nòng cốt theo kết luận của cơ sở y tế từ cấp xã trở lên”.

Tại Điểm c Khoản 1 Điều 4 Thông tư số 33/2016/TT- BQP ngày 29 tháng 03 năm  2016 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về hướng dẫn một số điều của Luật Dân quân tự vệ và Nghị định số 03/2016/NĐ-CP ngày 05 tháng 01 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều của Luật Dân quân tự vệ Quy định. “ Có đủ sức khỏe do y tế cấp xã và tương đương xác nhận”.

Tại Điều 40 Luật Nghĩa vụ quân sự  năm 2015 quy định: Hội đồng khám sức khỏe của Ủy ban nhân dân cấp huyện chỉ áp dụng cho đối tượng là công dân gọi nhập ngũ và thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân.

Như vậy tiêu chuẩn sức khỏe đối với lực lượng Dân quân tự vệ do y tế cấp xã và tương đương xác nhận đã được quy định cụ thể trong Pháp luật DQTV,vì vậy không sử dụng Hội đồng khám sức khỏe của Ủy ban nhân dân cấp huyện khám sức khỏe cho Dân quân tự vệ  như kiến nghị của cử tri tỉnh Ninh Thuận.

37. Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị Chính phủ xem xét, quy định chế độ phụ cấp đặc thù đối với tất cả lực lượng phòng chống ma túy và tội phạm của lực lượng Bộ đội biên phòng bằng với phụ cấp đặc thù của lực lượng công an (phụ cấp 20% lương cơ bản).

Trả lời: (Tại Công văn số 4241/BQP-CT ngày 16 tháng 5 năm 2016)

Thực hiện Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật năm 2016, hiện nay, Bộ Quốc phòng đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Quyết định số 15/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp đặc thù quân sự đối với một số đối tượng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó có lực lượng phòng chống ma túy và tội phạm của lực lượng Bộ đội Biên phòng; dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trong Quý IV năm 2016.

 

(Ban Dân nguyện)