1. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: “Theo quy định tại Khoản 7 Điều 6 Thông tư số 15/2015/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ thì các cột đo xăng dầu phải gắn “thiết bị in chứng từ”, nay tại Thông tư số 08/2018/TT-BKHCN dùng khái niệm cột đo xăng dầu phải có “thiết bị ghi, in kết quả đo để ghi, in và cung cấp kết quả đo cho khách hàng khi có yêu cầu”. Đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn rõ hơn khái niệm“thiết bị ghi, in kết quả đo” có khác với khái niệm “thiết bị in chứng từ” hay không? Nếu khác nhau, đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn rõ để doanh nghiệp hiểu và thực hiện đúng quy định. Còn đối với các doanh nghiệp, các trạm kinh doanh xăng dầu đã lắp đặt thiết bị in chứng từ theo Thông tư 15/2015/TT-BKHCN thì sẽ giải quyết như thế nào (nếu thiết bị ghi và in kết quả đo có khác biệt với thiết bị in chứng từ)”.
Trả lời: (Tại Công văn số 45/BKHCN-VP ngày 8/01/2019)
Thông tư số 08/2018/TT-BKHCN của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ đã sửa đổi cụm từ “thiết bị in chứng từ” thành “thiết bị ghi, in kết quả đo” để khẳng định đây là một bộ phận cấu thành của cột đo xăng dầu, mục đích là tránh cách hiểu sai về thẩm quyền ban hành quy định tại Khoản 7 Điều 6 Thông tư số 15/2015/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ.
Đồng thời, Thông tư số 08/2018/TT-BKHCN đã sửa đổi, bổ sung quy định thiết bị ghi, in kết quả đo được dùng “để in và cung cấp kết quả đo cho khách hàng khi có yêu cầu” và sửa đổi, bổ sung quy định “các yêu cầu về đo lường” đối với thiết bị ghi, in kết quả đo nhằm: Làm rõ chỉ khi khách hàng có yêu cầu mới in và cung cấp kết quả đo để tạo thuận lợi về thời gian cho doanh nghiệp trong quá trình phục vụ khách hàng; làm rõ hơn mục đích sử dụng của thiết bị này, tránh cách hiểu suy diễn “thiết bị ghi, in kết quả đo” là “thiết bị giám sát, lưu trữ dữ liệu hoạt động” (kiểu Hộp đen) của cột đo xăng dầu.
Vì vậy, thực chất “thiết bị ghi, in kết quả đo” quy định tại Thông tư số 08/2018/TT-BKHCN là “thiết bị in chứng từ” quy định tại Thông tư số 15/2015/TT-BKHCN. Do vậy, doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ xăng dầu không phải thay đổi thiết bị in chứng từ đã lắp đặt.
2. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: “Về thời gian sửa đổi Thông tư số 15/2015/TT-BKHCN ngày 25/8/2015: Việc gắn thiết bị in chứng từ hiện nay chỉ theo yêu cầu quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước, về phía người tiêu dùng thực sự chưa có nhu cầu. Thời gian qua, một số Trạm kinh doanh xăng dầu có lắp đặt thiết bị in chứng từ, nhưng người dân không có nhu cầu lấy chứng từ. Do đó, khi lắp đặt thiết bị in chứng từ làm tăng chi phí của doanh nghiệp, nhưng chưa phát huy hiệu quả từ phía người tiêu dùng; chưa nói đến thời gian vận hành thiết bị in chứng từ làm ảnh hưởng đến thời gian phục vụ cho khách hàng (nhất là xe gắn máy). Đối với khách hàng là tổ chức thì vẫn phát hành hóa đơn theo quy định của Bộ Tài chính.
Việc Thông tư 08/2018/TT-BKHCN ban hành và yêu cầu các doanh nghiệp phải lắp đặt thiết bị ghi và in kết quả đo là chưa thỏa đáng vì các trạm kinh doanh xăng dầu đã thành lập và kinh doanh từ vài chục năm đến nay. Khi Thông tư mới ban hành điều chỉnh việc đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước thì nên áp dụng cho các Trạm kinh doanh xăng dầu mới đầu tư sau khi Thông tư có hiệu lực. Nay Thông tư hồi tố lại và yêu cầu tất cả các trạm kinh doanh xăng dầu phải đổi mới và lắp đặt thêm thiết bị in (có quy định thời gian) là chưa phù hợp. Trong trường hợp bắt buộc phải lắp đặt thiết bị ghi, in kết quả đo và chỉ in khi có yêu cầu sẽ làm tăng chi phí cho doanh nghiệp và thực tế hiện nay Người tiêu dùng chưa có nhu cầu lấy chứng từ. Còn việc kiểm tra kết quả lượng xăng dầu mua bán thì đã hiển thị qua cột đo xăng dầu. Việc lấy chứng từ chỉ để phòng ngừa trường hợp có gian lận trong kết quả đo, thì thực tế tất cả các cột đo xăng dầu phải được kiểm định và dán tem niêm phong của Chi cục Đo lường Chất lượng trước khi đưa vào sử dụng. Vì các lý do nêu trên, cử tri kiến nghị: Bộ Khoa học và Công nghệ xem xét về thời gian quy định các trạm kinh doanh xăng dầu phải lắp đặt thiết bị ghi, in và cung cấp kết quả đo cho các khách hàng khi có yêu cầu”.
Trả lời: (Tại Công văn số 45/BKHCN-VP ngày 8/01/2019)
Thiết bị ghi, in kết quả đo là bộ phận cấu thành của cột đo xăng dầu để in và cung cấp kết quả đo cho khách hàng khi có yêu cầu. Đa số cột đo xăng dầu nhập khẩu đều có thiết bị ghi, in kết quả đo. Tuy nhiên nhiều loại cột đo xăng dầu sản xuất trong nước chưa có thiết bị ghi, in kết quả đo, vì vậy, trong nhiều trường hợp: Người tiêu dùng không có chứng cứ, tài liệu để tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về đo lường, gây thiệt hại cho người tiêu dùng; cơ quan quản lý nhà nước không có đủ chứng cứ, tài liệu để xác định thu lợi bất chính từ việc vi phạm về đo lường trong kinh doanh xăng dầu để phục vụ xử phạt theo quy định.
Hiện nay, đa số các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đều nhận thức rõ mục tiêu bảo đảm văn minh thương mại, bảo vệ quyền lợi của khách hàng, bảo vệ uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp khi triển khai thực hiện quy định nêu trên. Nhiều đơn vị kinh doanh xăng dầu chủ động thực hiện ngay quy định mà không chờ đến ngày 01/7/2019[1].
Bộ Khoa học và Công nghệ ghi nhận kiến nghị của cử tri tỉnh Đồng Nai và sẽ tiếp tục theo dõi, đánh giá tình hình thực hiện quy định này trên phạm vi cả nước để có giải pháp tổng thể phù hợp.
3. Cử tri tỉnh Đồng Nai kiến nghị: “Cử tri kiến nghị xem xét quy định tại Khoản 6 Điều 6 của Thông tư 15/2015/TT-BKHCN vì theo quy định, khi phát hiện kết quả đo lượng xăng dầu không bảo đảm yêu cầu quy định, Doanh nghiệp liên hệ và đề nghị bằng văn bản (gửi trực tiếp tại trụ sở hoặc qua đường bưu điện, fax, thư điện tử) tới cơ sở sản xuất, nhập khẩu, cung cấp phương tiện đo hoặc các đơn vị, đại lý có giấy chứng nhận ủy quyền của cơ sở sản xuất, nhập khẩu, cung cấp phương tiện đo (sau đây viết tắt là đơn vị, đại lý được cơ sở ủy quyền) để tiến hành sửa chữa các bộ phận này. Doanh nghiệp có quyền lựa chọn cơ sở khác thực hiện sửa chữa đối với một trong các trường hợp sau:
+ Cơ sở sản xuất, nhập khẩu, cung cấp phương tiện đo đã giải thể, phá sản;
+ Cơ sở sản xuất, nhập khẩu, cung cấp phương tiện đo có văn bản từ chối thực hiện với lý do chính đáng gửi thương nhân và Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (để báo cáo);
Quy định này chưa phù hợp với cơ chế thị trường và tính khả thi không cao. Việc Doanh nghiệp hợp đồng với doanh nghiệp có chức năng để đầu tư cột đo xăng dầu là hợp đồng kinh tế; khi xảy ra sự cố hỏng hóc hoặc cần sửa chữa có nhất thiết phải tiếp tục hợp đồng với doanh nghiệp bán thiết bị hay doanh nghiệp có quyền hợp đồng với đơn vị khác có chức năng sửa chữa cột đo xăng dầu theo đúng quy định của Bộ Khoa học và Công nghê để tiến hành sửa chữa và sau khi hoàn thành việc sửa chữa, trước khi đưa vào sử dụng phải qua khâu kiểm định lại của cơ quan chức năng”.
- “Thông tư quy định doanh nghiêp phải liên hệ với doanh nghiệp lắp đặt cột đo ban đầu và chỉ được chọn cơ sở khác khi doanh nghiệp giải thể, phá sản hay từ chối là chưa phù hợp và mất khá nhiều thời gian cho doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu phải liên hệ cơ quan nào để xin giấy chứng nhận là Doanh nghiệp giải thể, phá sản; hoặc doanh nghiệp lắp đặt cột đo xăng dầu không có giấy từ chối thì doanh nghiệp phải làm thế nào? Do đó cử tri kiến nghị Bộ Khoa học và Công nghệ xem xét lại quy định này, vì chỉ nên quy định là khi sửa chữa cột đo xăng dầu, doanh nghiệp phải báo cáo Chi cục Đo lường Chất lượng và chủ động liên hệ với các doanh nghiệp có chức năng sản xuất, lắp đặt cột đo xăng dầu theo đúng quy định của Bộ Khoa học và Công nghệ. Các doanh nghiệp có chức năng sản xuất lắp đặt cột đo xăng dầu cũng phải cải tiến về công nghệ, giảm giá thành, cạnh tranh bình đẳng với nhau và thực hiện việc sửa chữa theo đúng quy định, có như vậy mới nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp; giảm giá thành và nâng cao hiệu quả kinh doanh.”.
Trả lời: (Tại Công văn số 45/BKHCN-VP ngày 8/01/2019)
a. Khoản 6 Điều 6 Thông tư số 15/2015/TT-BKHCN quy định như sau:
“Khi phát hiện kết quả đo lượng xăng dầu không bảo đảm yêu cầu quy định tại Khoản 3 Điều này hoặc trường hợp cột đo xăng dầu bị hư hỏng, phải tiến hành hiệu chỉnh, sửa chữa, thay thế (sau đây viết tắt là sửa chữa) các chi tiết, bộ phận, chức năng (viết tắt là bộ phận) đã được niêm phong hoặc kẹp chì...”.
Theo quy định trên, chỉ khi sửa chữa bộ phận đã được niêm phong, kẹp chì của cột đo xăng dầu, thương nhân mới phải liên hệ với cơ sở sản xuất, kinh doanh cột đo xăng dầu để thực hiện.
Các trường hợp sai hỏng khác của cột đo xăng dầu (không phải là bộ phận được niêm phong, kẹp chì), thương nhân hoàn toàn chủ động tổ chức thực hiện sửa chữa, không phải thông báo cho bất kỳ tổ chức, cá nhân nào.
b) Cơ sở pháp lý của quy định tại Khoản 6 Điều 6
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 35, Điều 17 Luật Đo lường và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đo lường, cơ sở sản xuất, nhập khẩu, cung cấp cột đo xăng dầu cho khách hàng có nghĩa vụ bảo đảm yêu cầu về cấu trúc và đặc tính kỹ thuật đo lường chính của cột đo xăng dầu này trong quá trình sử dụng.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 36 Luật Đo lường và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đo lường, tổ chức kiểm định sau khi kiểm định cột đo xăng dầu đạt yêu cầu quy định thì phải niêm phong, kẹp chì một số bộ phận như: buồng lường, bộ phát xung, IC chương trình... để ngăn ngừa tác động làm thay đổi kết quả đo nhằm bán thiếu lượng xăng dầu. Tổ chức kiểm định phải chịu trách nhiệm về niêm phong, kẹp chì, kết quả kiểm định của mình.
Vì vậy, nếu doanh nghiệp liên hệ với cơ sở khác để sửa chữa các bộ phận đã niêm phong, kẹp chì của cột đo xăng dầu thì sẽ phát sinh nghĩa vụ pháp lý đối với tổ chức kiểm định và cơ sở sản xuất, nhập khẩu, cung cấp cột đo xăng dầu này khi xảy ra vi phạm về đo lường.
Do đó, Khoản 6 Điều 6 của Thông tư số 15/2015/TT-BKHCN chỉ quy định về hoạt động sửa chữa bộ phận đã niêm phong, kẹp chì của cột đo xăng dầu để xác định rõ trách nhiệm của tổ chức kiểm định, của hãng sản xuất, nhập khẩu, cung cấp cột đo xăng dầu hoặc của doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu khi xảy ra vi phạm về đo lường; không điều chỉnh hoạt động sửa chữa bình thường khác của doanh nghiệp.
c) Kết quả thực tế sau gần 04 năm triển khai thực hiện các quy định của Thông tư số 15/2015/TT-BKHCN (đặc biệt là quy định tại Khoản 6 Điều 6), qua thông tin, báo cáo của các địa phương, tình hình vi phạm đo lường trong kinh doanh bán lẻ xăng dầu đã giảm rõ rệt (ví dụ như tại tỉnh Đồng Nai gần như không còn tồn tại hành vi vi phạm), dư luận xã hội đánh giá cao kết quả đã đạt được.
Như vậy, việc ban hành và thực hiện quy định này là hết sức cần thiết, đầy đủ cơ sở pháp lý và thực tiễn, mục tiêu chính của quy định là bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, hoàn toàn không cản trở quyền của doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, góp phần lành mạnh hóa hoạt động kinh doanh bán lẻ xăng dầu, bảo vệ uy tín của doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu cột đo xăng dầu, của tổ chức kiểm định, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước.
4. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị: “Về việc đầu tư để đưa Trạm quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường của tỉnh đi vào hoạt động: Đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ có phương án đầu tư các trang thiết bị và đào tạo nhân lực để đưa Trạm quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường vào hoạt động sau khi hoàn thành (Trạm quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường tỉnh Lạng Sơn thuộc mạng quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia đã được tỉnh Lạng Sơn đầu tư xây dựng, dự kiến sẽ hoàn thành và bàn giao đưa vào sử dụng cuối năm 2018)”.
Trả lời: (Tại Công văn số 46/BKHCN-VP ngày 8/01/2019)
Hiện tại, Bộ Khoa học và Công nghệ đã gửi đề xuất tới Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị thu xếp vốn vay ODA của Chính phủ Hungary để thực hiện Dự án xây dựng Mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang trong giai đoạn gửi xin ý kiến các bộ, ngành về đề xuất Dự án. Theo dự kiến, giai đoạn 1 (2019-2021), Dự án sẽ triển khai xây dựng Trung tâm điều hành quốc gia, 04 trạm vùng (Hà Nội, Đà Nẵng, Lâm Đồng và Tp. Hồ Chí Minh) và 04 trạm địa phương (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai và Nam Định). Dự án sẽ hỗ trợ kinh phí mua sắm trang thiết bị và xây dựng cơ sở vật chất (không bao gồm hạ tầng kỹ thuật) cho các trạm quan trắc. Bên cạnh đó, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đang xúc tiến thực hiện Dự án hợp tác vùng ASEAN-EU trong giai đoạn 2019-2022, trong đó có nội dung trang bịmột số thiết bị quan trắc suất liều bức xạ gamma trực tuyến cho các trạm quan trắc, trong đó có trạm quan trắc tại tỉnh Lạng Sơn.
Về vấn đề đào tạo cán bộ, hàng năm, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ) có tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn về quan trắc phóng xạ môi trường và sẵn sàng cung cấp bổ sung các khóa đào tạo phục vụ công tác quan trắc phóng xạ môi trường theo yêu cầu của tỉnh Lạng Sơn.
5. Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: “Đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ xem xét việc nghiên cứu ứng dụng hoặc chuyển giao các ứng dụng công nghệ để xử lý cát nước mặn làm vật liệu xây dựng (thay cho nguồn tài nguyên cát nước ngọt đang dần cạn kiệt)”.
Trả lời: (Tại Công văn số 65/BKHCN-VP ngày 09/01/2019)
Bộ Khoa học và Công nghệ luôn quan tâm, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan tập trung chỉ đạo xử lý các vấn đề cấp thiết phát sinh trong thực tiễn để đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trước tình hình cát tự nhiên sử dụng cho các công trình xây dựng ngày càng cạn kiệt, Bộ Khoa học và Công nghệ đã chủ động triển khai một số nghiên cứu nhằm ứng dụng, chuyển giao công nghệ để xử lý cát nhiễm mặn làm vật liệu xây dựng thay thế cho nguồn tài nguyên cát tự nhiên đang dần cạn kiệt.
Đặc biệt, sau khi Văn phòng Chính phủ có Thông báo số 161/TB-VPCP ngày 24/3/2017, trong đó giao "Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ quan liên quan nghiên cứu sử dụng cát nhiễm mặn phục vụ xây dựng trong nước; xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sử dụng cát nhiễm mặn làm vật liệu xây dựng, ban hành hoặc trình ban hành theo quy định" và Công văn số 5517/VPCP-CN ngày 29/5/2017 giao "Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ nghiên cứu, sản xuất các loại vật liệu xây dựng thay thế cát tự nhiên”, Bộ Khoa học và Công nghệ đã triển khai một số hoạt động liên quan đến vấn đề xử lý cát nhiễm mặn thành vật liệu xây dựng, cụ thể:
a) Về hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ
Đã xem xét, hỗ trợ các tổ chức nghiên cứu trong nước triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ để nghiên cứu, sử dụng cát nhiễm mặn làm vật liệu xây dựng trong xây dựng các công trình hạ tầng ven biển và hải đảo[2]; xử lý, sử dụng cát nhiễm mặn thay thế cát tự nhiên trong xây dựng giao thông, san lấp mặt bằng, xây dựng công trình xây dựng dân dụng[3],… Các nghiên cứu thành công sẽ là một trong các giải pháp hiệu quả góp phần giảm đáng kể lượng cát tự nhiên tiêu thụ hiện nay.
b) Về xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
Cùng với tiêu chuẩn quốc gia TCVN 7570:2006 về cốt liệu cho bê tông và vữa - yêu cầu kỹ thuật đã được thẩm định và công bố từ năm 2006, Bộ đã chủ trì thẩm định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 16:2017/BXD về sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng. Qua đó, tạo hành lang pháp lý đưa cát nhiễm mặn sau khi được xử lý vào sử dụng trong thực tiễn. Hiện nay, Bộ đang chủ trì tiến hành xây dựng 02 TCVN đối với phụ gia cho bê tông và vữa chế tạo từ cát nhiễm mặn và nước nhiễm mặn (gồm TCVN phụ gia cho bê tông và vữa chế tạo từ cát nhiễm mặn và nước nhiễm mặn - Yêu cầu kỹ thuật; TCVN phụ gia cho bê tông và vữa chế tạo từ cát nhiễm mặn và nước nhiễm mặn - Phương pháp thử).
Trước đó, từ năm 2015, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp, hỗ trợ Bộ Xây dựng triển khai Chương trình “Nghiên cứu xây dựng thực nghiệm công trình trên biển đảo” (Quyết định số 571/QĐ-BXD ngày 21/5/2015 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng). Trong số các nhiệm vụ đã và đang triển khai thuộc chương trình này có nhiều nội dung liên quan đến việc sử dụng cát nhiễm mặn thay thế cát tự nhiên như: Nghiên cứu tạo bê tông dùng cát biển và nước biển kèm theo hướng dẫn quy trình thiết kế, thi công và nghiệm thu. Qua đó giúp quá trình thi công các công trình trên biển, đảo được hiệu quả hơn (nhanh hơn, chi phí thấp hơn… do sử dụng vật liệu tại chỗ).
Trong thời gian tới, nhằm thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về sử dụng cát nhiễm mặn làm vật liệu xây dựng thay thế cát tự nhiên, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ Xây dựng tiếp tục xem xét, ưu tiên triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ để xử lý, sử dụng cát nhiễm mặn thay thế cát tự nhiên; lập kế hoạch xây dựng, thẩm định và công bố các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia liên quan đến việc sử dụng cát nhiễm mặn làm vật liệu xây dựng.
6. Cử tri tp Hồ Chí Minh kiến nghị: “Kiến nghị cần có chính sách thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, cụ thể: Đối với Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp: các thủ tục để thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học cần đơn giản hóa”.
Trả lời: (Tại Công văn số 48/BKHCN-VP ngày 8/01/2019)
Ngày 28/6/2016, liên Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 12/2016/TTLT-BKHCN-BTC hướng dẫn nội dung chi và quản lý quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp (sau đây gọi tắt là quỹ). Trong đó, quy định một số nội dung chính về trích lập và sử dụng quỹ như sau:
- Về trích lập quỹ: Doanh nghiệp nhà nước hàng năm phải trích từ 3% đến 10% thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp để lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ (KH&CN) của doanh nghiệp; Doanh nghiệp ngoài nhà nước được quyền trích từ thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp một tỷ lệ hợp lý, tối đa 10% để lập quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp”.
- Về sử dụng quỹ: Doanh nghiệp chỉ được sử dụng quỹ cho hoạt động đầu tư KH&CN của doanh nghiệp như: Thực hiện các nhiệm vụ KH&CN; hỗ trợ phát triển KH&CN của doanh nghiệp; đào tạo nhân lực KH&CN của doanh nghiệp; thực hiện các hoạt động hợp tác về KH&CN.
Có thể nói quy định về việc trích lập quỹ là một hình thức khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm đầu tư cho hoạt động KH&CN, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, hợp lý hóa sản xuất của doanh nghiệp… Nguồn hình thành quỹ được trích từ lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp cũng là một ưu đãi của nhà nước dành cho doanh nghiệp khi trích lập quỹ.
Doanh nghiệp được chủ động và linh hoạt trong việc sử dụng quỹ phát triển KH&CN của mình, đồng thời để bảo đảm linh hoạt trong việc xử lý đối với trường hợp doanh nghiệp chưa có nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng không hết quỹ, doanh nghiệp được lựa chọn nộp phần kinh phí chưa sử dụng hoặc sử dụng không hết vào các quỹ phát triển KH&CN quốc gia, bộ và của tỉnh/thành phố trước khi quy định bắt buộc nộp lại NSNN phần thuế thu nhập doanh nghiệp tính trên khoản thu nhập đã trích lập quỹ mà không sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích và phần lãi phát sinh từ số thuế thu nhập doanh nghiệp đó...
Ngày 01/01/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021. Theo Nghị quyết, một trong các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia được Chính phủ đưa ra là “phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, hỗ trợ khuyến khích doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo”. Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ sửa đổi và ban hành Thông tư hướng dẫn nội dung chi và quản lý quỹ phát triển của doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tinh thần, hoạt động đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ tại doanh nghiệp; cho phép doanh nghiệp tự chủ, tự quyết định sử dụng quỹ nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp cho đổi mới sáng tạo và đầu tư cho khởi nghiệp sáng tạo.
Như vậy, theo những chính sách đã ban hành thời gian qua và chủ trương chỉ đạo của Chính phủ trong thời gian tới đều hướng đến các cơ chế thông thoáng hơn, khuyến khích, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được tự chủ trong hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo.
7. Cử tri tp Hồ Chí Minh kiến nghị: "Đề nghị có chính sách quy định cho các tổ chức KH&CN công lập được đầu tư vốn, tài sản trí tuệ, dịch vụ,... vào doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và doanh nghiệp khác".
Trả lời: (Tại Công văn số 48/BKHCN-VP ngày 8/01/2019)
- Tại Khoản 4 Điều 13 Luật KH&CN năm 2013 có quy định, tổ chức KH&CN được quyền: Hợp tác, liên doanh, nhận tài trợ của tổ chức, cá nhân; góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) để hoạt động KH&CN và hoạt động sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật.
- Tại Thông tư số 15/2014/TT-BKHCN ngày 13/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ đã quy định về trình tự, thủ tục giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN) dưới dạng tài sản vô hình (sau đây viết tắt là kết quả nghiên cứu) nhằm mục đích: Chuyển giao công nghệ; đầu tư nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KH&CN; thành lập, góp vốn thành lập doanh nghiệp, tổ chức KH&CN; ứng dụng trong sản xuất, kinh doanh; cung cấp dịch vụ công phục vụ lợi ích cộng đồng, an sinh xã hội và các hoạt động khác theo quy định của Luật KH&CN và pháp luật liên quan.
- Theo Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 quy định cơ chế tự chủ của tổ chức KH&CN công lập, hằng năm, sau khi hạch toán đầy đủ các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp NSNN khác, phần chênh lệch thu lớn hơn chi thường xuyên (nếu có), đơn vị sử dụng để trích tối thiểu từ 5-25% (tỷ lệ trích quỹ tùy theo mức độ tự chủ của tổ chức KH&CN công lập) để lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. Tại Điểm b Khoản 3 Điều 8 Nghị định số 54/2016/NĐ-CP, quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp chi cho các nội dung sau: Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đổi mới công nghệ, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc; phát triển năng lực hoạt động sự nghiệp; nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho công chức, viên chức, người lao động trong đơn vị; góp vốn, liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (đối với đơn vị được giao vốn theo quy định) để sản xuất, kinh doanh phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao và các khoản chi khác (nếu có).
- Đối với Luật quản lý sử dụng tài sản công năm 2017, liên quan đến việc sử dụng tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập vào mục đích kinh doanh, theo quy định tại Điều 56 “Sử dụng tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập vào mục đích kinh doanh”, đơn vị sự nghiệp công lập được sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh trong các trường hợp sau đây: Tài sản được giao, được đầu tư xây dựng, mua sắm để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao nhưng chưa sử dụng hết công suất; tài sản được đầu tư xây dựng, mua sắm theo dự án được cơ quan, người có thẩm quyền phê duyệt để phục vụ hoạt động kinh doanh mà không do NSNN đầu tư.
Thẩm quyền phê duyệt đề án sử dụng tài sản vào mục đích kinh doanh được quy định như sau: “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định phê duyệt đề án đối với tài sản là cơ sở hoạt động sự nghiệp; tài sản khác có giá trị lớn theo quy định của Chính phủ. Hội đồng quản lý hoặc người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập phê duyệt đề án đối với tài sản không thuộc phạm vi quy định tại điểm a khoản này”.
- Tại Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 hướng dẫn thi hành Luật quản lý tài sản công quy định một đơn vị sự nghiệp công lập hoàn toàn có thể tham gia góp vốn bằng tài sản của đơn vị sự nghiệp công lập đó nhằm mục đích kinh doanh, có thể là thành lập doanh nghiệp, thông qua hợp đồng hợp tác đầu tư, tuy nhiên phải đảm bảo những yêu cầu cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với việc sử dụng tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập vào mục đích kinh doanh, theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP, đơn vị sự nghiệp công lập hoàn toàn có thể tham gia góp vốn bằng tài sản của đơn vị sự nghiệp công lập đó nhằm mục đích kinh doanh, có thể là thành lập doanh nghiệp, thông qua hợp đồng hợp tác đầu tư phải đảm bảo những yêu cầu về tài sản theo quy định.
Tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập được sử dụng vào mục đích kinh doanh bao gồm: Tài sản được giao, đầu tư xây dựng, mua sắm để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao nhưng chưa sử dụng hết công suất mà không thể áp dụng hình thức thu hồi, điều chuyển; tài sản được đầu tư xây dựng, mua sắm theo dự án được cơ quan, người có thẩm quyền phê duyệt để phục vụ hoạt động kinh doanh mà không do NSNN đầu tư.
Thứ hai, đơn vị sự nghiệp công lập phải có Đề án sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh và đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định tại Điều 44 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP "Đề án sử dụng tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết”.
Như vậy, trong thời gian gần đây, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính và các bộ, ngành có liên quan hoàn thiện các quy định của pháp luật để tạo hành lang pháp lý làm căn cứ cho tổ chức KH&CN công lập đầu tư vốn, tài sản trí tuệ, dịch vụ,... vào doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và các doanh nghiệp khác.
8. Cử tri tp Hồ Chí Minh kiến nghị: “Về nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách pháp luật về phát triển khoa học, công nghệ: Kiến nghị sớm ban hành các giải pháp hỗ trợ cho trường, viện trong việc thúc đẩy nghiên cứu khoa học và thương mại hóa; có cơ chế tài trợ cho các chương trình nghiên cứu KH&CN mục tiêu mang tính dài hạn; cần xem xét lại các quy định về giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và cơ chế thu hồi kinh phí theo hướng thông thoáng hơn; ban hành quy định về việc thành lập doanh nghiệp KH&CN trong trường đại học và viện nghiên cứu để thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học hiệu quả hơn”.
Trả lời: (Tại Công văn số 48/BKHCN-VP ngày 8/01/2019)
1. Về kiến nghị sớm ban hành các giải pháp hỗ trợ cho trường, viện trong việc thúc đẩy nghiên cứu khoa học và thương mại hóa
Hiện nay, trong các trường đại học, viện nghiên cứu, các hướng nghiên cứu đã ngày càng gắn với thực tiễn nhiều hơn. Chính sách khuyến khích của nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để liên kết trường đại học và các doanh nghiệp, phát triển thị trường KH&CN, thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu đại học - doanh nghiệp. Nhiều Luật, Nghị định liên quan đến vấn đề này như: Luật KH&CN năm 2013, Luật chuyển giao công nghệ năm 2017, Luật SHTT năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Luật quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đã tạo ra các hành lang pháp lý phù hợp để thúc đẩy các mối liên kết này. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, việc thương mại hóa công nghệ trong các trường đại học ở Việt Nam vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn cần khắc phục. Từ phía trường đại học, nhu cầu và khả năng liên kết với doanh nghiệp của các trường đại học chưa cao do thiếu động lực và thiếu cơ chế gắn kết, sản phẩm KH&CN còn ít và kém chất lượng, năng lực và trang thiết bị còn hạn chế, thời gian nghiên cứu dài trong khi nhu cầu doanh nghiệp cần sớm có công nghệ, thiếu cơ quan chuyên trách hiểu biết và gắn kết với doanh nghiệp…
Về phía doanh nghiệp, phần lớn là doanh nghiệp Việt Nam với quy mô nhỏ, quy trình sản xuất đơn giản, tài chính hạn chế, khó có điều kiện liên kết. Các doanh nghiệp vẫn chưa quan tâm đúng mức đến cơ chế đầu tư tài chính cho việc nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ, thẩm định giá công nghệ; nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thật sự tin tưởng vào các trường đại học… Về phía nhà nước, còn nhiều chính sách khuyến khích, ưu tiên cho trường đại học, doanh nghiệp nhưng thông tin từ các chính sách khuyến khích chưa được phổ biến đầy đủ, kịp thời; thiếu cơ quan chuyên môn xúc tiến liên kết đại học - doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, một trong số những yếu tố giữ vai trò quan trọng giúp thương mại hóa công nghệ thành công tại Việt Nam chính là quyền SHTT. Việc sử dụng, bảo hộ, thương mại hóa tài sản trí tuệ và tuyên truyền kiến thức về SHTT không chỉ là mối quan tâm của nhà nước, trường đại học mà còn của rất nhiều doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, Bộ Khoa học và Công nghệ đã triển khai một số giải pháp nhằm thúc đẩy thương mại hóa công nghệ trong trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp, cụ thể như:
- Hỗ trợ kinh phí cho các trường đại học, viện nghiên cứu tiếp tục nghiên cứu, đồng thời hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp tiếp cận với các công nghệ được nghiên cứu bởi các trường đại học, viện nghiên cứu thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN;
- Tổ chức các Hội chợ công nghệ và thiết bị (Techmart) với đối tượng tham gia là các tổ chức KH&CN Việt Nam (các Viện nghiên cứu và phát triển KH&CN; Tổ chức dịch vụ KH&CN; trường đại học, học viện, cao đẳng; doanh nghiệp KH&CN) và các tổ chức, cá nhân khác có nhu cầu mua, bán công nghệ, thiết bị. Các công nghệ và thiết bị tham gia là các công nghệ và thiết bị tiên tiến đã được kiểm nghiệm, ứng dụng thành công, đã hoàn thiện và sẵn sàng chuyển giao.
- Phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức sự kiện ngày hội khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia (Techfest). Trong đó, tổ chức các sự kiện, tọa đàm, hội thảo thuộc các lĩnh vực công nghệ với những nội dung thiết thực cùng sự tham gia chia sẻ, thảo luận của các nhà quản lý, nhà đầu tư, các doanh nghiệp khởi nghiệp thành công và các chuyên gia giàu kinh nghiệm trong nước và quốc tế với mục tiêu nâng cao nhận thức xã hội về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và định hướng các giải pháp thúc đẩy lĩnh vực này. Đồng thời, tổ chức các triển lãm sản phẩm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp cho các doanh nghiệp. Có thể nói đây cũng là cơ hội để kết nối tạo mối liên kết giữa trường đại học - doanh nghiệp khởi nghiệp.
- Thúc đẩy thành lập doanh nghiệp KH&CN và vườn ươm công nghệ, phát triển chương trình hỗ trợ thương mại hóa công nghệ và chính sách ưu đãi về thuế hỗ trợ chuyển giao công nghệ đại học - doanh nghiệp, tổ chức gặp mặt thường xuyên giữa nhà nước - trường đại học - doanh nghiệp.
Có thể coi mối quan hệ trường đại học - doanh nghiệp là tác nhân chính của hoạt động đổi mới sáng tạo. Vấn đề cấp thiết hiện nay là thiết lập được cơ chế và chính sách thúc đẩy hoạt động SHTT và chuyển giao công nghệ tại trường đại học, nhằm khuyến khích chuyển giao công nghệ, hỗ trợ và tư vấn về kỹ thuật, SHTT cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần tích cực thúc đẩy việc nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo. Về phía Chính phủ, cần tiếp tục thúc đẩy hợp tác chuyển giao công nghệ đại học - doanh nghiệp; tư vấn đào tạo về SHTT và giúp các trường đại học cung cấp thông tin về kết quả nghiên cứu khoa học nhằm đưa ra thêm lựa chọn đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp.
2. Về cơ chế tài trợ cho các chương trình KH&CN mục tiêu mang tính dài hạn
Trong Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012, đã xác định những lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và các hướng công nghệ ưu tiên của ngành KH&CN, bao gồm: Công nghệ thông tin và truyền thông; công nghệ sinh học; công nghệ vật liệu mới; công nghệ Chế tạo máy - Tự động hóa và công nghệ môi trường.
Trong năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số văn bản quan trọng để định hướng phát triển một số lĩnh vực KH&CN, cụ thể:
- Quyết định số 553/QĐ-TTg ngày 21/4/2017 về việc phê duyệt “Kế hoạch tổng thể phát triển công nghệ sinh học đến 2030” với mục tiêu tập trung nguồn lực đầu tư phát triển công nghiệp sinh học, đổi mới cơ chế chính sách, tranh thủ hợp tác và hỗ trợ quốc tế, tạo điểu kiện thuận lơi để doanh nghiệp đầu tư và sản xuất sản phẩm từ công nghệ sinh học trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, y dược, bảo vệ môi trường, quốc phòng an ninh và trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục vụ an sinh xã hội, bảo vệ môi trường bền vững, bảo đảm quốc phòng an ninh.
- Quyết định số 562/QĐ-TTg ngày 25/4/2017 về việc phê duyệt “Chương trình phát triển KH&CN cơ bản trong lĩnh vực hóa học, khoa học sự sống, khoa học trái đất và khoa học biển giai đoạn 2017-2025” với mục tiêu nâng cao tiểm lực khoa học cơ bản trong bốn lĩnh vực: Hóa học, khoa học trái đất, khoa học sự sống và khoa học biển; phấn đấu đưa vị thế của khoa học Việt Nam đến năm 2025 đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, nghiên cứu có định hướng để tiếp thu làm chủ các công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và góp phần bảo đảm quốc phòng an ninh.
Ngoài các chương trình KH&CN trong các lĩnh vực được ưu tiên, định hướng phát triển dài hạn, Bộ Khoa học và Công nghệ vẫn đang triển khai các chương trình quốc gia về KH&CN khác như: Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020; Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến 2020; Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước (KC, KX)…
Hiện nay, Bộ Khoa học và Công nghệ đang tích cực triển khai các chương trình đã được phê duyệt, đồng thời rà soát, cơ cấu, sắp xếp lại các chương trình KH&CN thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo hướng: Lồng ghép một số chương trình hoặc nội dung thuộc chương trình KH&CN trọng điểm cấp nhà nước vào các chương trình quốc gia về KH&CN; điều chỉnh hợp lý số lượng nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản và nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng trong một số chương trình để đạt mục tiêu đầu tư dài hạn, không trùng lắp và có hiệu quả cho các nhiệm vụ.
3. Các quy định về cơ chế giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và cơ chế thu hồi kinh phí theo hướng thông thoáng hơn
Ngày 21/6/2017, Quốc hội đã ban hành Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018). Tiếp theo đó, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ trình Chính phủ ban hành Nghị định số 70/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 quy định việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước. Tại Nghị định, một số nội dung đã được điều chỉnh lại để phù hợp với thực tiễn triển khai, đã quy định rõ các đối tượng được giao quyền sở hữu, giao quyền sử dụng tài sản là kết quả nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN. Nghị định đã quy định những điểm mới như:
- Về cơ chế giao quyền sở hữu hoặc giao quyền sử dụng tài sản là kết quả nhiệm vụ KH&CN:
(i) Đối với tài sản là kết quả nhiệm vụ KH&CN do ngân sách cấp, trường hợp không áp dụng được các hình thức giao quyền sử dụng hoặc giao quyền sở hữu và hoàn trả giá trị tài sản (tổ chức, cá nhân không có nhu cầu nhận giao tài sản) thì giao quyền sử dụng tài sản cho tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ (có thể là các cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập hoặc doanh nghiệp không có vốn nhà nước…) để tiếp tục nghiên cứu, phát triển công nghệ, sản phẩm công nghệ, ứng dụng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Tổ chức, cá nhân chủ trì phải có phương án ứng dụng, thương mại hóa kết quả, có phương án phân chia lợi nhuận thu được, bảo đảm quyền lợi của nhà nước, có trách nhiệm báo cáo cơ quan quản lý nhiệm vụ kết quả thực hiện ứng dụng, thương mại hóa.
(ii) Đối với tài sản là kết quả nhiệm vụ ngân sách hỗ trợ: Nghị định có quy định ưu tiên đối với các nhiệm vụ KH&CN mà nhà nước hỗ trợ đến 30% tổng số vốn và các chương trình KH&CN theo quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ thì giao quyền sở hữu không thu hồi kinh phí nhà nước hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ.
Đối với các đối tượng khác, trường hợp không áp dụng được các hình thức giao quyền sử dụng, quyền sở hữu tài sản theo quy định thì thực hiện giao quyền sử dụng phần tài sản thuộc về nhà nước cho tổ chức, cá nhân chủ trì để tổ chức, cá nhân chủ trì tiếp tục nghiên cứu, phát triển công nghệ, ứng dụng, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và tổ chức, cá nhân chủ trì phải có phương án ứng dụng, thương mại hóa kết quả, phương án phân chia lợi nhuận thu được, bảo đảm quyền lợi của Nhà nước, có trách nhiệm báo cáo cơ quan quản lý nhiệm vụ việc thực hiện ứng dụng, thương mại hóa.
Nghị định số 70/2018/NĐ-CP quy định cơ quan được Nhà nước giao nhiệm vụ ký kết hợp đồng chịu trách nhiệm về nội dung ký kết của mình. Trường hợp nội dung xử lý tài sản là kết quả trong hợp đồng đã ký kết không phù hợp với nguyên tắc nêu trên thì việc xử lý tài sản được thực hiện theo quy định pháp luật. Cơ quan, người ký hợp đồng không đúng quy định phải bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật và bị xử lý theo quy định pháp luật về tài sản công và pháp luật có liên quan.
- Về cơ chế thu hồi kinh phí (hoàn trả giá trị tài sản):
Nghị định số 70/2018/NĐ-CP quy định về hoàn trả giá trị tài sản là kết quả nhiệm vụ KH&CN trong các trường hợp:
+ Đối với tài sản là kết quả nhiệm vụ ngân sách cấp: Giao quyền sở hữu tài sản cho các tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ (không phải là cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân …) hoặc tổ chức cá nhân khác đề nghị được nhận giao quyền sở hữu và hoàn trả giá trị tài sản.
+ Đối với tài sản là kết quả nhiệm vụ ngân sách hỗ trợ: Giao quyền sở hữu phần tài sản là kết quả thuộc về nhà nước cho các tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ ngân sách hỗ trợ trên 30% tổng số vốn; tổ chức cá nhân chủ trì nhiệm vụ có trách nhiệm hoàn trả giá trị tài sản.
Riêng đối với các nhiệm vụ mà nhà nước hỗ trợ đến 30% tổng số vốn và các chương trình KH&CN theo quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ thì Nhà nước giao quyền sở hữu không thu hồi phần kinh phí hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ.
Căn cứ Điều 22 Nghị định số 70/2018/NĐ-CP, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 63/2018/TT-BTC ngày 30/7/2018 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 70/2018/NĐ-CP của Chính phủ, trong đó hướng dẫn việc quản lý, sử dụng số tiền thu được từ tài sản; việc xuất hóa đơn khi bán tài sản trang bị để thực hiện nhiệm vụ KH&CN, giao quyền sở hữu tài sản là kết quả của nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước; hướng dẫn mẫu Biên bản kiểm kê tài sản khi kết thúc nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước và mẫu phương án nghiên cứu, phát triển công nghệ, sản phẩm công nghệ, ứng dụng, thực hiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu để đề nghị nhận giao quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản là kết quả của nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước.
Hiện nay, để tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý, sử dụng tài sản hình thành thông qua triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ đang tiếp tục xây dựng hoàn thiện các văn bản hướng dẫn sau: (i) Thông tư hướng dẫn xác định giá trị tài sản là kết quả của nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước do Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng. Dự thảo Thông tư này phục vụ việc thực hiện giao quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản sau khi nhiệm vụ KH&CN được nghiệm thu; (ii) Thông tư hướng dẫn giao quyền sử dụng tài sản, việc hoàn trả giá trị tài sản và việc phân chia lợi nhuận với nhà nước do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng. Dự thảo Thông tư nhằm mục đích giao quyền sử dụng cho tổ chức, cá nhân chủ trì ngoài công lập và có phương án hoàn trả giá trị và phân chia lợi nhuận với nhà nước.
4. Quy định về việc thành lập doanh nghiệp KH&CN trong trường đại học và viện nghiên cứu để thúc đẩy thương mại hóa kết quả hiệu quả hơn
Hiện nay, Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp KH&CN. Dự thảo đã được tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành, địa phương và trình Chính phủ ban hành trong thời gian tới. Sau khi Nghị định được ban hành, các trường đại học, viện nghiên cứu có thể căn cứ vào đó để có đề xuất cụ thể trong việc thành lập doanh nghiệp KH&CN trực thuộc trong trường hợp đủ điều kiện.
9. Cử tri tp Hồ Chí Minh kiến nghị: (Ý thứ nhất) Cần có văn bản hướng dẫn về chế độ chi lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định đối với tổ chức KH&CN công lập theo hướng cho phép tổ chức KH&CN công lập chi tiền lương cho công chức, viên chức, người lao động tùy vào kết quả tài chính trong năm, bảo đảm mức chi không thấp hơn mức tiền lương theo ngạch, bậc, hạng chức danh nghề nghiệp, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định. Khi Nhà nước điều chỉnh tiền lương cơ sở, đơn vị tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ nguồn thu của đơn vị để tạo điều kiện cho tổ chức KH&CN công lập thu hút nhân sự có chất lượng cao.
(Ý thứ hai) Cần có sự thống nhất giữa các bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện các ưu đãi cho tổ chức KH&CN công lập. Các quy định ưu đãi trong lĩnh vực KH&CN khác với quy định liên quan đến thuế thu nhập doanh nghiệp nên các tổ chức KH&CN công lập rất khó khăn trong việc giải trình để được hưởng ưu đãi. Ví dụ, hiện nay tổ chức KH&CN công lập đang được nhận một số ưu đãi về thuế quy định tại Điều 5 Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính phủ: Tổ chức KH&CN công lập được vận dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp thì được hưởng ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp như đối với doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.” Tuy nhiên, để được hưởng chính sách ưu đãi này, các tổ chức KH&CN rất khó khăn để giải trình với các cơ quan chức năng có liên quan vì KH&CN là ngành đặc thù.
(Ý thứ ba) Cần có quy định về chi đầu tư từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp theo hướng bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp KH&CN tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư. Vì theo Công văn số 3168/BKHĐT- LĐVX ngày 27/4/2016 xác định nguồn vốn Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp của Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh được hình thành chủ yếu từ nguồn quảng cáo, là nguồn thu được để đầu tư theo cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập,… là nguồn thu được để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách, được xác định là nguồn vốn đầu tư công.
Trả lời: (Tại Công văn số 48/BKHCN-VP ngày 8/01/2019)
Ý thứ nhất:
Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của tổ chức KH&CN công lập có quy định: Tổ chức KH&CN công lập thực hiện chi tiền lương cho công chức, viên chức, người lao động theo ngạch, bậc, hạng chức danh nghề nghiệp, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định đối với tổ chức KH&CN công lập và tính vào chi phí hợp lý trước thuế. Sau khi nộp thuế, phần chênh lệch thu - chi sẽ được trích quỹ bổ sung thu nhập, cụ thể như sau:
- Tổ chức KH&CN công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư: không hạn chế mức trích Quỹ bổ sung thu nhập.
- Tổ chức KH&CN công lập tự bảo đảm chi thường xuyên: Quỹ bổ sung thu nhập không quá 3 lần quỹ tiền lương.
- Tổ chức KH&CN công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên: Quỹ bổ sung thu nhập không quá 2,5 lần quỹ tiền lương.
- Tổ chức KH&CN công lập do Nhà nước bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên: Quỹ bổ sung thu nhập không quá 1 lần quỹ tiền lương.
Nguyên tắc chi tiền lương và thu nhập tăng thêm nói trên cũng đã được quy định khung tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.
Thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính phủ theo hướng: Giao quyền tự chủ cho tổ chức KH&CN được chi tiền lương cho công chức, viên chức, người lao động tùy vào kết quả tài chính trong năm, bảo đảm mức chi không thấp hơn mức tiền lương theo ngạch, bậc, hạng chức danh nghề nghiệp, chức vụ và các khoản phụ cấp do Nhà nước quy định và được tính vào chi phí hợp lý trước thuế. Khi Nhà nước điều chỉnh tiền lương cơ sở, đơn vị tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ nguồn thu của đơn vị để tạo điều kiện cho tổ chức KH&CN công lập thu hút nhân sự có chất lượng cao.
Ý thứ hai:
Theo Khoản 1 Điều 5 Nghị định 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của tổ chức KH&CN công lập: “Tổ chức khoa học và công nghệ công lập được hưởng chính sách ưu đãi về thuế theo quy định hiện hành. Tổ chức khoa học và công nghệ công lập được vận dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp thì được hưởng ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp như đối với doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ”. Những ưu đãi về thuế này được quy định cụ thể tại các văn bản quy phạm pháp luật về thuế, cụ thể:
- Ưu đãi về thuế suất: Căn cứ theo Khoản 7 Điều 1 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi năm 2013, áp dụng thuế suất 10% trong thời gian mười lăm năm đối với “Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới, bao gồm: Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật công nghệ cao; ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật công nghệ cao; đầu tư xây dựng - kinh doanh cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của Nhà nước theo quy định của pháp luật; sản xuất sản phẩm phần mềm; sản xuất vật liệu composit, các loại vật liệu xây dựng nhẹ, vật liệu quý hiếm; sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, năng lượng từ việc tiêu hủy chất thải; phát triển công nghệ sinh học; bảo vệ môi trường”
- Ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp: Căn cứ vào Khoản 8 Điều 1 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi năm 2013: “Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới quy định tại khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 13 của Luật này và doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao được miễn thuế tối đa không quá bốn năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá chín năm tiếp theo”.
Các bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm triển khai thực hiện chính sách ưu đãi thuế thu nhập đối với tổ chức KH&CN công lập theo các quy định hiện hành.
Vì vậy, trong quá trình thực hiện chính sách ưu đãi thuế thu nhập đối với tổ chức KH&CN công lập, nếu các đơn vị có vướng mắc, khó khăn, đề nghị phản ánh về Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế để nghiên cứu, giải quyết theo thẩm quyền.
Ý thứ ba:
Tại Điểm b Khoản 3 Điều 12 Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập và Điểm b Khoản 3 Điều 8 Nghị định số 54/2016/NĐ-CP quy định rõ: “Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp chi cho các nội dung sau: Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đổi mới công nghệ, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc; phát triển năng lực hoạt động sự nghiệp; nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho công chức, viên chức, người lao động trong đơn vị; góp vốn, liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (đối với đơn vị được giao vốn theo quy định) để sản xuất, kinh doanh phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao và các khoản chi khác (nếu có)”.
Tại Điểm a Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, ghi rõ việc sử dụng nguồn tài chính chi đầu tư từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp được thực hiện như sau: “Căn cứ nhu cầu đầu tư và khả năng cân đối các nguồn tài chính, đơn vị chủ động xây dựng danh mục các dự án đầu tư, báo cáo cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Trên cơ sở danh mục dự án đầu tư đã được phê duyệt, đơn vị quyết định dự án đầu tư, bao gồm các nội dung về quy mô, phương án xây dựng, tổng mức vốn, nguồn vốn, phân kỳ thời gian triển khai theo quy định của pháp luật về đầu tư; đơn vị sự nghiệp công được vay vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước hoặc được hỗ trợ lãi suất cho các dự án đầu tư sử dụng vốn vay của các tổ chức tín dụng theo quy định; căn cứ yêu cầu phát triển của đơn vị, nhà nước xem xét bố trí vốn cho các dự án đầu tư đang triển khai, các dự án đầu tư khác theo quyết định của cấp có thẩm quyền“.
Tuy nhiên, quy định tại Nghị định số 54/2016/NĐ-CP chỉ áp dụng đối với tổ chức KH&CN công lập, Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh không phải là tổ chức KH&CN công lập. Vì vậy, Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh cần nghiên cứu quy định tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập và Nghị định số 141/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác để áp dụng, triển khai cơ chế tự chủ cho phù hợp với hoạt động sự nghiệp của Đài truyền hình.
10. Cử tri tp Hồ Chí Minh kiến nghị: “Theo Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH12, thời gian thẩm định đơn đăng ký sở hữu công nghiệp mất nhiều thời gian (thẩm định hình thức đơn 01 tháng; công bố đơn đăng ký sở hữu công nghiệp 02 tháng; thẩm định nội dung: đối với sáng chế là 18 tháng, đối với nhãn hiệu là 9 tháng, đối với kiểu dáng công nghiệp là 7 tháng, đối với chỉ dẫn địa lý là 6 tháng kể từ ngày công bố đơn). Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ, đề nghị sửa đổi quy định trên theo hướng rút ngắn thời gian thẩm định, cấp văn bằng bảo hộ sở hữu công nghiệp”.
Trả lời: (Tại Công văn số 47/BKHCN-VP ngày 8/01/2019)
Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, thủ tục xử lý đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) bao gồm 03 giai đoạn chính: Thẩm định hình thức đơn, công bố đơn và thẩm định nội dung đơn.
1. Thẩm định hình thức đơn nhằm xem xét đơn có hay không đạt các yêu cầu về hình thức như: Yêu cầu về số lượng cũng như cách trình bày các tài liệu có trong hồ sơ đơn, lệ phí… để đơn có thể được chấp nhận hợp lệ và được ghi nhận ngày nộp đơn, là ngày rất quan trọng đối với chủ đơn để hưởng quyền ưu tiên.
2. Đơn hợp lệ được công bố đơn trên công báo SHCN trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày đơn được Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) ban hành Quyết định chấp nhận đơn hợp lệ (đối với đơn nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp). Do số lượng đơn này tăng nhanh trong những năm gần đây (khoảng 46.000 đơn/năm) nên việc công bố đơn đúng thời hạn đang là một áp lực với Cục SHTT. Đối với nội dung công bố đơn sáng chế, giải pháp hữu ích (khoảng 6.000 đơn/năm) cũng cần nhiều thời gian để biên tập và chỉnh sửa cho phù hợp. Đây là các đối tượng chiếm lượng lớn nhất nội dung của công báo. Do đó, thời hạn 02 tháng như quy định hiện nay là phù hợp để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của mọi tổ chức, cá nhân đối với đối tượng đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
3. Thẩm định nội dung đơn đăng ký bảo hộ quyền SHCN là việc đánh giá đối tượng nêu trong đơn đăng ký có phù hợp các tiêu chuẩn bảo hộ hay không. Đây là một quá trình phức tạp và đòi hỏi một khoảng thời gian đủ để tra cứu thông tin, so sánh đánh giá giữa đối tượng trong đơn đăng ký (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu…) với các đối tượng đã được cấp văn bằng bảo hộ, cũng như các tài liệu liên quan khác đang tồn tại trên cơ sở dữ liệu Việt Nam và trên toàn thế giới. Do số lượng cơ sở dữ liệu và dung lượng dữ liệu là rất lớn và đa dạng nên việc tra cứu thông tin rất phức tạp và cần nhiều thời gian. Ngoài ra, theo quy định tại Điểm 1 Khoản c Điều 4 Công ước Paris về bảo hộ SHCN (mà Việt Nam là thành viên) về “quyền ưu tiên” thì việc thẩm định nội dung đơn SHCN không thể kết thúc trước thời hạn hưởng quyền ưu tiên của các đơn SHCN đã được nộp ở các nước thành viên Công ước (6 tháng đối với đơn kiểu dáng công nghiệp và đơn nhãn hiệu; 12 tháng đối với đơn sáng chế).
Với việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO và luật pháp sở hữu trí tuệ ngày càng hoàn thiện hơn, số lượng đơn đăng ký SHCN nộp vào Cục SHTT ngày càng gia tăng. Đặc biệt, do sự phát triển nhanh chóng và thành lập mới của các doanh nghiệp trong thời gian qua làm đơn đăng ký gia tăng một cách đột biến, kéo theo sự gia tăng các đơn khiếu nại và đơn phản đối cấp văn bằng bảo hộ (VBBH). Do đó, công tác thẩm định đơn càng thêm phức tạp và nếu bị rút ngắn về mặt thời gian thì sẽ dẫn đến kết quả thẩm định không chính xác. Đối với sáng chế nộp vào Việt Nam, hầu hết đơn là của người nước ngoài (chủ yếu là Nhật Bản, Hoa Kỳ và châu Âu), nếu thời gian thẩm định không đủ dài thì ta không sử dụng được kết quả thẩm định của nước ngoài, nhất là đối với các sáng chế thuộc công nghệ cao mà ta chưa tự thẩm định được.
Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, nguyện vọng của người nộp đơn muốn được xét, cấp VBBH SHCN sớm là chính đáng. Hiện nay, Cục SHTT đang thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ xử lý đơn như rà soát, đơn giản hóa quy trình thẩm định, tuyển dụng thêm nhân lực, tăng định mức lao động, nâng cao năng lực của hệ thống công nghệ thông tin,... Tuy nhiên, nếu việc thẩm định được thực hiện trong một thời gian quá ngắn hoặc bị rút ngắn do nhu cầu cải cách hành chính thì tác dụng sẽ ngược lại. Các VBBH được cấp ra không bảo đảm chất lượng, dễ phát sinh khiếu kiện, gây thiệt hại cho chính chủ đơn đăng ký SHCN và làm mất thêm thời gian của cơ quan quản lý nhà nước.
11. Cử tri tp Hồ Chí Minh kiến nghị: “Hiện nay Đảng, Nhà nước ta tập trung lãnh đạo nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản, tiểu thủ công nghiệp, ngoài việc sản xuất sản phẩm sạch, an toàn còn có nội dung, nhãn hiệu, lôgô sản phẩm, mã vạch truy xuất nguồn gốc sản phẩm,… Tuy nhiên, việc công nhận logo, nhãn hiệu độc quyền do Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện nhưng rất chậm. Đề nghị Bộ xem xét lại quy trình, thời gian cấp logo nhãn hiệu cho phù hợp, giúp người nông dân sản xuất, kinh doanh có điều kiện để mở rộng sản phẩm”.
Trả lời: (Tại Công văn số 47/BKHCN-VP ngày 8/01/2019)
Theo số liệu thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ (đơn vị trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ), riêng đối với các sản phẩm nông sản, tiểu thủ công nghiệp, Cục Sở hữu trí tuệ đã thực hiện cấp 27.353 Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, 935 Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận và 69 Giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý trên tổng số 293.961 đơn đã được cấp.
Trong thời gian vừa qua, lượng đơn đăng ký nhãn hiệu nộp vào Cục Sở hữu trí tuệ hằng năm tăng nhanh (khoảng 10%/năm), bao gồm cả đơn nhãn hiệu đăng ký cho các sản phẩm nông sản, tiểu thủ công nghiệp. Tuy nhiên, donhiều đơn không thể hiện đầy đủ nội dung theo yêu cầu dẫn đến mất thời gian trao đổi, hoàn thiện. Vì vậy, có sự chậm trễ nhất định trong việc cấp Giấy chứng nhận nhãn hiệu. Tuy nhiên, riêng đối với các đơn đăng ký nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận và chỉ dẫn địa lý, Cục Sở hữu trí tuệ đều xử lý và cấp Giấy chứng nhận đăng ký đúng thời hạn, thậm chí trước thời hạn quy định theo yêu cầu của các địa phương để công bố trong dịp các ngày Lễ, hội chợ và sự kiện quan trọng của địa phương.
Hiện nay, Bộ Khoa học và Công nghệ đang chỉ đạo Cục Sở hữu trí tuệ thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ xử lý đơn như: Rà soát, đơn giản hóa quy trình thẩm định, tuyển dụng thêm nhân lực, tăng định mức lao động, nâng cao năng lực của hệ thống công nghệ thông tin, hướng dẫn chuẩn bị đơn đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp ...
Đối với tỉnh Trà Vinh, tính đến nay, Cục Sở hữu trí tuệ đã nhận được 40 đơn đăng ký nhãn hiệu tập thể cho các sản phẩm nông sản và đã thực hiện cấp 29 Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể; 11 đơn khác đang trong quá trình thẩm định khả năng bảo hộ.
12. Cử tri tỉnh Vĩnh phúc kiến nghị: “Đề nghị xem xét sửa Luật Khoa học và công nghệ theo hướng chỉ những dự án sử dụng công nghệ hạn chế chuyển giao theo điểm b, khoản 1, Điều 32 Luật Đầu tư, nhà đầu tư mới phải làm thủ tục xin thẩm định công nghệ thực hiện Dự án”.
Trả lời: (Tại Công văn số 15/BKHCN-VP ngày 4/01/2019)
Về thẩm định công nghệ dự án đầu tư, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn cần tăng cường kiểm soát công nghệ từ đầu vào, Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ ba Quốc hội Khóa XIV ngày 19/6/2017 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2018, đã dành một chương quy định về thẩm định/có ý kiến về công nghệ của dự án đầu tư, cụ thể:
Tại Điều 13 Luật Chuyển giao công nghệ quy định: “Trong giai đoạn quyết định chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư, dự án đầu tư sau đây phải được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thẩm định hoặc có ý kiến về công nghệ:
a) Dự án đầu tư sử dụng công nghệ hạn chế chuyển giao;
b) Dự án đầu tư có nguy cơ tác động xấu đến môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường có sử dụng công nghệ”.
Như vậy, việc thẩm định/có ý kiến về công nghệ của dự án đầu tư từ ngày 01/7/2018 sẽ thực hiện theo quy định tại Luật Chuyển giao công nghệ. Bộ Khoa học và Công nghệ đã có văn bản đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư cần bổ sung loại dự án đầu tư có nguy cơ tác động xấu đến môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường có sử dụng công nghệ vào đối tượng phải thẩm định/có ý kiến về công nghệ trong quá trình xem xét, quyết định chủ trương đầu tư.
13. Cử tri tỉnh Vĩnh phúc kiến nghị: “Đề nghị sửa đổi Nghị định số 95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy định đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ theo hướng mở rộng đối tượng thụ hưởng từ nguồn chi đầu tư phát triển khoa học và công nghệ”.
Trả lời: (Tại Công văn số 15/BKHCN-VP ngày 8/01/2019)
- Tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 95/2014/NĐ-CP quy định:
“1. Chi đầu tư phát triển khoa học và công nghệ
Chi phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, đầu tư và hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các tổ chức khoa học và công nghệ không phân biệt thành phần kinh tế theo các nội dung sau:
a) Xây dựng mới, nâng cấp, tăng cường năng lực nghiên cứu của các tổ chức khoa học và công nghệ bao gồm: Phòng thí nghiệm, xưởng thực nghiệm, trạm thực nghiệm; trung tâm phân tích, kiểm nghiệm, kiểm định, hiệu chuẩn và đánh giá sự phù hợp; các cơ sở thiết kế, chế tạo, thử nghiệm chuyên dụng; các cơ sở ứng dụng và chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng; tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ;
b) Xây dựng khu nghiên cứu và phát triển cho các khu công nghệ cao;
c) Xây dựng hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia và thống kê về khoa học và công nghệ;
d) Các hoạt động đầu tư khác phục vụ phát triển khoa học và công nghệ.”
- Tại Điểm a Khoản 2 Điều 12 Luật NSNN năm 2015 quy định:
“2. Chi ngân sách nhà nước chỉ được thực hiện khi đã có trong dự toán ngân sách được giao, trừ trường hợp quy định tại Điều 51 của Luật này; đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, chủ đầu tư hoặc người được ủy quyền quyết định chi và đáp ứng các điều kiện trong từng trường hợp sau đây:
a) Đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công và xây dựng;”
- Tại Khoản 15 Điều 3 Luật Xây dựng năm 2014 quy định:
“15. Dự án đầu tư xây dựng là tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc sử dụng vốn để tiến hành hoạt động xây dựng để xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo công trình xây dựng nhằm phát triển, duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch vụ trong thời hạn và chi phí xác định. Ở giai đoạn chuẩn bị dự án đầu tư xây dựng, dự án được thể hiện thông qua Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đầu tư xây dựng, Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng hoặc Báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng.”
Căn cứ vào những quy định trên, tổ chức KH&CN không phân biệt thành phần kinh tế có thể đề xuất dự án sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn chi đầu tư phát triển KH&CN thông qua dự án đầu tư phát triển để xây dựng mới, nâng cấp, tăng cường năng lực nghiên cứu của doanh nghiệp KH&CN (như phòng thí nghiệm, xưởng thực nghiệm, trạm thực nghiệm; trung tâm phân tích, kiểm nghiệm, kiểm định, cơ sở thiết kế, chế tạo, thử nghiệm chuyên dụng…) và thực hiện các bước theo quy trình đối với dự án đầu tư phát triển.
Việc kiến nghị mở rộng đối tượng thụ hưởng từ nguồn chi đầu tư phát triển KH&CN của cử tri tỉnh Vĩnh Phúc trên đây phù hợp với chủ trương, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội và Chính phủ về việc đưa khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự thành đột phá trong tái cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình, nâng cao chất lượng tăng trưởng. Trong thời gian tới, ngoài tổ chức KH&CN, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền xem xét phê duyệt việc mở rộng đối tượng thụ hưởng từ nguồn chi đầu tư phát triển KH&CN phù hợp với quy định của Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 và các văn bản pháp luật có liên quan.
14. Cử tri tỉnh Vĩnh phúc kiến nghị: “Đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ xem xét hỗ trợ doanh nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc triển khai các chương trình do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì: Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN; Chương trình hỗ trợ đổi mới công nghệ quốc gia; Chương trình doanh nghiệp công nghệ cao”.
Trả lời: (Tại Công văn số 15/BKHCN-VP ngày 8/01/2019)
1. Đối với chương trình hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm (Chương trình 592):
Trong năm 2018, hai doanh nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc đã đề xuất nhiệm vụ tham gia Chương trình 592 bao gồm:
(i) Nghiên cứu hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất phân hữu cơ vi sinh chuyên dùng cho sản xuất lúa và rau an toàn (do Công ty TNHH MTV Quế Lâm Phương Bắc (Tập đoàn Quế Lâm) đề xuất;
(ii) Hoàn thiện công nghệ sản xuất cát nhân tạo từ nguyên liệu đá vôi trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc (Công ty cổ phần đầu tư Tân Phát đề xuất).
Hai nhiệm vụ này đã được Ban Chủ nhiệm xem xét, thông qua và kiến nghị Lãnh đạo Bộ cho phép tổ chức họp Hội đồng để tư vấn xác định nhiệm vụ. Đề xuất của Công ty TNHH MTV Quế Lâm Phương Bắc đã được Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ ký phê duyệt đặt hàng/giao trực tiếp cho doanh nghiệp thực hiện. Hiện tại, doanh nghiệp đang hoàn thiện hồ sơ theo quy định của Chương trình.
Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Chương trình 592 sẽ kết thúc vào năm 2020. Do vậy, thời điểm hiện tại, Bộ Khoa học và Công nghệ tạm ngừng tiếp nhận đề xuất mới tham gia vào Chương trình để chuẩn bị tổng kết và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép tiếp tục thực hiện Chương trình trong giai đoạn mới. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép tiếp tục triển khai Chương trình, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục hướng dẫn các doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện để tham gia Chương trình 592.
2. Đối với Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020:
Đến thời điểm hiện tại, Bộ Khoa học và Công nghệ chưa nhận được đề xuất nhiệm vụ nào của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân của tỉnh Vĩnh Phúc đề xuất thực hiện đối với Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia.
Các văn bản quy định về quản lý, hướng dẫn đề xuất thực hiện nhiệm vụ trong Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia hiện đã được công khai trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Khoa học và Công nghệ, Trang thông tin điện tử của Văn phòng các Chương trình KH&CN quốc gia trực thuộc Bộ, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có thể tham khảo các thông tin về Chương trình và thực hiện theo hướng dẫn tại các văn bản quản lý Chương trình.
3. Đối với Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020
Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020 được ban hành kèm theo Quyết định số 2457/QĐ-TTg ngày 31/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ gồm 03 Chương trình thành phần cụ thể:
(i) Chương trình nghiên cứu, đào tạo và xây dựng hạ tầng kỹ thuật công nghệ cao do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì;
(ii) Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì;
(iii) Chương trình phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao do Bộ Công Thương chủ trì.
Với vai trò là Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực công nghệ cao, Bộ Khoa học và Công nghệ đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan trong việc tổ chức triển khai thực hiện Chương trình. Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Thông tư số 02/2012/TT-BKHCN ngày 18/02/2012 hướng dẫn quản lý Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020.
Theo kế hoạch, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020 sẽ kết thúc vào năm 2020. Để tiếp tục nâng cao hiệu quả triển khai 03 Chương trình quốc gia về KH&CN trong đó có Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020, Bộ Khoa học và Công nghệ đang phối hợp với các Bộ có liên quan nghiên cứu đề xuất gia hạn các Chương trình này.
Trong thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục xem xét các đề xuất tham gia các Chương trình KH&CN quốc gia từ các doanh nghiệp trong cả nước, trong đó có tỉnh Vĩnh Phúc. Đề nghị các doanh nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc nghiên cứu các văn bản hướng dẫn thực hiện các Chương trình KH&CN quốc gia, qua đó xây dựng đề xuất phù hợp với nội dung của từng Chương trình tương ứng, gửi Bộ Khoa học và Công nghệ tổng hợp, xem xét theo quy định.
[1] Số liệu cụ thể:
- Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) hiện chiếm khoảng 50% thị phần bán lẻ xăng dầu cả nước đã chủ động phối hợp với Tổng cục TCĐLCL triển khai quy định cột đo xăng tại Thông tư 08/2018/TT-BKHCN áp dụng cho toàn hệ thống bán lẻ của Tập đoàn trong phạm vi cả nước.
- Ngoài ra, hiện nay đã có gần 16.000 cột đo xăng dầu có thiết bị ghi, in kết quả đo.
[2] Hỗ trợ trường Đại học Xây dựng thực hiện đề tài “Nghiên cứu sử dụng tro bay nhiệt điện kết hợp với cát mặn, nước mặn và cốt sợi thuỷ tinh FRP trong công trình hạ tầng ven biển và hải đảo”với mục tiêu (i) Làm chủ công nghệ vật liệu và xây dựng công trình hạ tầng ven biển, hải đảo sử dụng tro bay nhiệt điện kết hợp với cát mặn, nước mặn và cốt sợi thuỷ tinh GFRP; (ii) Ứng dụng được sản phẩm nghiên cứu vào 02 công trình thực tế trong lĩnh vực xây dựng dân dụng, giao thông đáp ứng các tiêu chuẩn chuyên ngành. Với các sản phẩm dự kiến gồm: (i) Hỗn hợp cốt liệu đắp nền đường có sử dụng tro bay, cát biển; bê tông đầm lăn có sử dụng tro bay, cát mặn, nước mặn trong thi công đường ô tô; bê tông có sử dụng tro bay, cát mặn, nước mặn và GFRP thay thế cốt thép; bê tông không xi măng (geopolymer) có sử dụng tro bay, cát mặn, nước mặn và GFRP thay thế cốt thép; (ii) Thí điểm: Công trình nền đường ô tô dài 100m, tương đương đường cấp IV theo TCVN 4054:2005 hoặc đường đô thị có nền rộng 7m theo TCVN104:2007; hạng mục sửa chữa công trình nhà dân dụng cấp III (hoặc tương đương), phù hợp tiêu chuẩn TCVN 5574:2012; (iii) Dự thảo Chỉ dẫn thiết kế, thi công và nghiệm thu: Nền đường đắp bằng hỗn hợp cốt liệu có sử dụng tro bay, cát mặn; bê tông tro bay, cát mặn. (iv) Dự thảo Hướng dẫn phương pháp đánh giá độ bền bê tông tro bay, cát mặn và GFRP trong môi trường biển.
[3] Cụm 04 nhiệm vụ về xử lý, sử dụng cát mặn thay thế cát tự nhiên trong xây dựng giao thông, san lấp mặt bằng, xây dựng công trình dân dụng: (i) Nghiên cứu sử dụng cát nhiễm mặn san nền, đắp nền đường; (ii) Nghiên cứu sử dụng cát nhiễm mặn trong bê tông xi măng cho kết cấu bê tông cốt thép dân dụng; (iii) Nghiên cứu sử dụng cát nhiễm mặn để xây dựng công trình giao thông; (iv) Nghiên cứu công nghệ cứng hóa đất bùn nạo vét để sử dụng trong san lấp mặt bằng thay thế cát. Với mục tiêu: Làm chủ công nghệ về vật liệu, thiết bị cứng hóa đất bùn nạo vét kênh mương để san lấp mặt bằng, đắp đê bao, bờ bao thay thế cát xây dựng; làm chủ công nghệ sử dụng cát nhiễm mặn thay thế, kết hợp vật liệu đắp truyền thống sử dụng trong san, đắp nền đường; làm chủ công nghệ sử dụng cát nhiễm mặn thay thế cát thông thường trong bê tông cốt thép xây dựng công trình dân dụng; làm chủ công nghệ sử dụng cát nhiễm mặn thay thế cát thông thường để làm mố trụ cầu, lớp Base, Subbase và lớp mặt đường giao thông.