Tại Công văn số 224/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 14 tháng 01 năm 2019 của Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời các kiến nghị của cử tri gửi tới Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai như sau:
Câu 1. Cử tri đề nghị nghiên cứu sửa đổi Luật Đất đai theo hướng khuyến khích người nông dân tích tụ ruộng đất để thúc đẩy phát triển nông nghiệp đảm bảo hiệu quả, bảo vệ an ninh lương thực, quyền chủ quyền đất đai, quyền tài sản của người nông dân và hạn chế tối đa việc lợi dụng chính sách tích tụ, tập trung đất đai nhằm đầu cơ, tích trữ đất; xem xét, tiếp tục thực hiện cấp đất giãn dân ở những nơi còn đủ điều kiện, người dân còn nhiều khó khăn có nhu cầu được cấp đất; quy định về chuyển đổi đất xen kẹt trong khu dân cư thành đất ở cho phù hợp với tình hình thực tế (Cử tri thành phố Hà Nội)
a) Về việc khuyến khích nông dân tích tụ ruộng đất để thúc đẩy phát triển nông nghiệp
Việc tích tụ, tập trung ruộng đất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát huy tối đa tiềm năng đất đai thông qua mở rộng quy mô sản xuất là bước đi cần thiết và xu thế tất yếu. Chủ trương này đã được thể chế hóa trong nhiều văn bản và Nghị quyết của Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ. Thực tế hiện nay, tại nhiều địa phương đã có những mô hình tập trung, tích tụ ruộng đất để sản xuất có hiệu quả, đóng góp tích cực cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, song song với mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất nông nghiệp, nhà nước phải bảo đảm hài hoà lợi ích của người sử dụng đất với các mục tiêu về an sinh xã hội (đói nghèo, giải quyết việc làm…). Tại Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31 tháng 10 năm 2012 của Ban Chấp hành trung ương Đảng Khóa XI đã nêu “Nhà nước có chính sách phù hợp để đất nông nghiệp được người trực tiếp sản xuất nông nghiệp sử dụng với hiệu quả cao nhất”. Thể chế hóa quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 19-NQ/TW, để đảm bảo cho người nông dân có đất sản xuất, tránh tình trạng dẫn tới việc bần cùng hóa người nông dân, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định cụ thể về hạn mức giao đất, hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân (Điều 129, 130), quy định về điều kiện chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng quyền sử dụng một số loại đất của hộ gia đình, cá nhân (Điều 191), quy định hạn chế các trường hợp nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư.
Thực hiện chỉ đạo của Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tổ chức sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI về về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; trong đó đánh giá cụ thể những bất cập, vướng mắc trong tích tụ, tập trung đất đai để phục vụ cho việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị đã có kết luận chỉ đạo về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI, trong đó có định hướng chỉ đạo về việc tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng đất nông nghiệp để tạo điều kiện tích tụ, tập trung, sử dụng hiệu quả đất đai.
Để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, ngày 17 tháng 4 năm 2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/2018/NĐ-CP, trong đó đã ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ tập trung đất đai; miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước đối với dự án nông nghiệp ưu đãi đầu tư và khuyến khích đầu tư.
Mặt khác, thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI, hiện nay Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng Đề án thí điểm tích tụ, tập trung đất đai phục vụ thu hút đầu tư sản xuất nông nghiệp tập trung, trong đó dự kiến trình Quốc hội ban hành Nghị quyết cho phép thí điểm một số chính sách sử dụng đất nông nghiệp. Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Đề án thí điểm, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ nghiên cứu, tham mưu sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai để một mặt đáp ứng được quỹ đất để tổ chức sản xuất nông nghiệp, mặt khác cũng phải đảm bảo lợi ích lâu dài cho người nông dân.
b) Về việc cấp đất giãn dân và chuyển đổi đất xen kẹt trong khu dân cư
Luật Đất đai đã quy định cụ thể về căn cứ, điều kiện, thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất nói chung, trong đó bao gồm cả trường hợp giao đất ở (Điều 52, 54, 55, 56, 57, 58 và 59); chế độ sử dụng đất ở tại nông thôn và đất ở tại đô thị (Điều 143 và Điều 144). Căn cứ các quy định nêu trên thì thẩm quyền quyết định giao đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân thuộc thẩm quyền quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Mặt khác, Luật Đất đai giao trách nhiệm cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất của địa phương và quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển đô thị và nông thôn để quy định hạn mức đất giao cho mỗi hộ gia đình, cá nhân. Do đó đề nghị chuyển kiến nghị của cử tri về việc cấp đất giãn dân và chuyển đổi đất xen kẹt trong khu dân cư đến Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội để chỉ đạo giải quyết theo thẩm quyền.
Câu 2. Theo Khoản 3 Điều 191 Luật Đất đai 2013 quy định hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho đất trồng lúa và Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ quy định UBND cấp xã có trách nhiệm xác nhận hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi thực hiện thủ tục nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho đất trồng lúa. Theo quy định này thì không phù hợp với quá trình tích tụ đất đai sản xuất nông nghiệp hàng hóa, do đó đề xuất nghiên cứu điều chỉnh quy định về đối tượng trực tiếp sản xuất nông nghiệp mới được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho đất trồng lúa trong Luật Đất đai (Cử tri tỉnh An Giang)
Về kiến nghị của cử tri đối với việc mở rộng cho đối tượng hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp được nhận chuyển nhượng, tặng cho đất trồng lúa, Bộ Tài nguyên và Môi trường xin ghi nhận để tổng hợp, rà soát và nghiên cứu đề xuất trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013.
Hiện nay, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng Đề án thí điểm tích tụ, tập trung đất đai phục vụ thu hút đầu tư sản xuất nông nghiệp tập trung, trong đó dự kiến trình Quốc hội ban hành Nghị quyết cho phép thí điểm hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp được nhận chuyển nhượng, tặng cho đất trồng lúa.
Câu 3. Đề nghị sửa đổi Khoản 3, Điều 191 Luật Đất đai theo hướng tạo điều kiện cho các hộ dân kể cả không phải là hộ nông nghiệp cũng được chuyển nhượng đất sản xuất nông nghiệp (Cử tri tỉnh Trà Vinh)
Khoản 3 Điều 191 Luật Đất đai chỉ quy định hạn chế đối tượng là “hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp” nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa. Pháp luật về đất đai hiện hành không quy định hạn chế hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp thực hiện nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, trừ đất trồng lúa.
Hiện nay, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng Đề án thí điểm tích tụ, tập trung đất đai phục vụ thu hút đầu tư sản xuất nông nghiệp tập trung, trong đó dự kiến trình Quốc hội ban hành Nghị quyết cho phép thí điểm hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp được nhận chuyển nhượng, tặng cho đất trồng lúa.
Câu 4. Cử tri phản ánh, thời gian gần đây tình trạng nông dân bỏ ruộng ngày càng tăng, nguyên nhân là do diện tích đất canh tác manh mún, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất gặp nhiều khó khăn, lực lượng lao động trong nông nghiệp thiếu hụt do dịch chuyển lao động sang lĩnh vực khác, đồng thời hiệu quả sản xuất nông nghiệp không cao... Để sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững thì việc tích tụ ruộng đất là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Tuy nhiên, Luật Đất đai 2013 có một số chính sách không còn phù hợp như: Hạn mức nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân không quá 10 lần hạn mức được giao, dẫn đến hạn chế trong quá trình tích tụ ruộng đất; hộ gia đình cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp sẽ không được nhận chuyển nhượng đất trồng lúa... làm cản trở và không khuyến khích được các cá nhân và doanh nghiệp có điều kiện về vốn, khoa học - kỹ thuật, thị trường đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Cử tri đề nghị nghiên cứu, rà soát vướng mắc, bất cập trong Luật Đất đai đề trình Quốc hội sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. (Cử tri thành phố Hải Phòng)
Kết luận của Bộ Chính trị về sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương XI đã đề ra những định hướng cụ thể để tích tụ, tập trung đất đai, thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Thể chế cụ thể kết luận của Bộ Chính trị, theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng Đề án thí điểm tích tụ, tập trung đất đai phục vụ thu hút đầu tư sản xuất nông nghiệp tập trung, cũng như nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của pháp luật về đất đai cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng, từng địa phương và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong đó dự kiến sẽ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết để thí điểm các chính sách theo như kiến nghị của cử tri.
Bộ Tài nguyên và Môi trường xin ghi nhận các kiến nghị của cử tri để tổng hợp, rà soát và nghiên cứu đề xuất trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013.
Câu 5. Hiện nay, các quy định của Luật Đất đai chỉ quy định cho các trường hợp giao đất, cho thuê đất thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất và không thông qua hình thức đấu giá, nhưng không quy định cụ thể đối với trường hợp thông qua hình thức đấu thầu. Đề nghị nghiên cứu, xem xét trình Quốc hội sửa đổi Luật Đất đai theo hướng bổ sung quy định các trường hợp về đấu thầu dự án sử dụng đất, sử dụng quỹ đất để thanh toán cho dự án BT (Cử tri tỉnh Thanh Hóa)
Hiện nay, chưa có sự thống nhất trong quy định về đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai và đấu thầu dự án có sử dụng đất theo quy định của Luật Đấu thầu và văn bản quy định chi tiết thi hành, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện tại các địa phương. Do đó, đối với kiến nghị của cử tri, Bộ Tài nguyên và Môi trường xin ghi nhận để cùng phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, ngành có liên quan tổ chức rà soát, đề xuất hoàn thiện báo cáo Chính phủ, Quốc hội trong quá trình sửa đổi, bổ sung các dự án Luật có liên quan như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Đất đai,… để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất.
Câu 6. Cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất tại Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP củ Chính phủ.
Theo quy định tại khoản 3, Điều 20, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai thì “Trường hợp một hộ gia đình, cá nhân sử dụng nhiều thửa đất có nhà ở có nguồn gốc của ông cha để lại hoặc nhận chuyển quyền sử dụng đất có nguồn gốc của ông cha để lại, được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng đất ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 và không vi phạm pháp Luật Đất đai thì hạn mức đất ở được xác định theo quy định đối với từng thửa đất đó”; Cử tri cho rằng, quy định này là chưa phù hợp và đề nghị phải xác định toàn bộ đất có nguồn gốc của ông cha để lại hoặc nhận chuyển quyền sử dụng đất có nguồn gốc của ông cha để lại là “đất ở” và thời hạn sử dụng là “lâu dài” như đã ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp trước đây (Cử tri thành phố Đà Nẵng)
Khoản 3 Điều 20 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định về hạn mức đất ở trong trường hợp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất và không vi phạm pháp Luật Đất đai. Đối với trường hợp đã có Giấy chứng nhận như cử tri phản ánh thì không áp dụng quy định tại khoản này để xác định hạn mức.
Câu 7. Về việc công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp và xác định giá đất cụ thể.
Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị, đề xuất liên quan đến vướng mắc khi thực hiện Luật Đất đai năm 2013, cụ thể như sau:
- Luật Đất đai quy định: Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hình thức thuê đất của Nhà nước đối với diện tích đất đang sử dụng.
Tuy nhiên, đối với các tỉnh miền núi, đất nông nghiệp (nhất là lâm nghiệp) chiếm tỷ lệ lớn, kinh tế xã hội còn nghèo, cán bộ công nhân viên chức ngoài công việc Nhà nước vẫn tham gia sản xuất nông nghiệp để đảm bảo cuộc sống, nguồn gốc đất đai chủ yếu do ông cha để lại đã sử dụng từ lâu đời, nay theo quy định hộ không trực tiếp sản xuất nông nghiệp mà phải chuyển sang thuê đất nông nghiệp hoặc không được nhận tặng cho đất trồng lúa thì người dân không đồng thuận, sẽ khó thực hiện. Mặt khác, đối với trường hợp tặng cho, nếu bố mẹ còn sống, nhưng không còn khả năng sản xuất mà không được tặng cho con cái thì việc quản lý đất đai đối với trường hợp này rất khó khăn.
Do vậy, cử tri đề xuất cấp GCN theo hình thức Công nhận quyền sử dụng đất như giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng ổn định đất nông nghiệp và hộ gia đình, cá nhân có hộ khẩu thường trú trên địa bàn tỉnh được nhận, tặng, cho đất trồng lúa trên địa bàn.
- Đối với giá đất cụ thể, trong các quy định của pháp Luật Đất đai chưa qụy định rõ việc điều tra, tổng hợp, phân tích thông tin về thửa đất, giá đất thị trường, áp dụng phương pháp định giá đất và xây dựng phương án giá đất do cơ quan nào trực tiếp thực hiện trong trường hợp không thuê tư vấn xác định giá.
Mặt khác do điều kiện của tỉnh còn khó khăn nên chưa thể bố trí được kinh phí cho việc tổ chức xác định giá đất cụ thể, cơ chế để bố trí nguồn từ ngân sách nhà nước cho công tác này cũng chưa rõ ràng; trên địa bàn tỉnh cũng chưa có tổ chức hành nghề tư vấn xác định giá đất nào hoạt dộng.
Do vậy cử tri tỉnh Cao Bằng đề xuất cơ chế: Việc Điều tra, tổng hợp, phân tích thông tin về thửa đất, giá đất thị trường áp dụng phương pháp định giá dất và xây dựng phương án giá đất; kiểm tra, đánh giá kết quả việc xác định giá dất và phương án giá đất, lập hồ sơ trình Hội đồng thẩm định giá đất thẩm định do UBND cấp huyện tổ chức và trực tiếp thực hiện trong trường hợp không thuê tư vấn xác định giá (Cử tri tỉnh Cao Bằng)
- Về việc công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp:
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 191 Luật Đất đai thì hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa; theo quy định tại Khoản 4 Điều 191 Luật Đất đai thì hộ gia đình, cá nhân không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ, trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng, nếu không sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đó.
Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 56 của Luật Đất đai thì hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối là một trong các trường hợp được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm hoặc thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 54 của Luật Đất đai thì hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được giao đất nông nghiệp trong hạn mức quy định tại Điều 129 của Luật Đất đai thì được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất.
Theo quy định tại Điểm b Khoản 5 Điều 20 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ thì trường hợp hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo hình thức thuê đất của Nhà nước đối với diện tích đất đang sử dụng; thời hạn thuê đất được thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 126 và Khoản 4 Điều 210 của Luật Đất đai.
Căn cứ các quy định nêu trên thì hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa; hộ gia đình, cá nhân không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ, trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng, nếu không sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đó.
Các quy định như trên nhằm cụ thể chính sách Nhà nước bảo đảm “có chính sách tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối không có đất sản xuất do quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế được đào tạo nghề, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm” tại Khoản 4 Điều 26 Luật Đất đai. Đồng thời, để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, cần có biện pháp quản lý nghiêm ngặt quỹ đất trồng lúa, vì vậy pháp luật về đất đai quy định một số điều kiện nhất định đối với việc sử dụng, quản lý loại đất trên.
- Về việc xác định giá đất cụ thể:
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 114 Luật Đất đai thì Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức việc xác định giá đất cụ thể; trong quá trình thực hiện, Sở Tài nguyên và Môi trường được thuê tổ chức có chức năng tư vấn xác định giá đất để tư vấn xác định giá đất cụ thể. Theo đó, trường hợp không thuê đơn vị tư vấn thực hiện định giá đất cụ thể thì Sở Tài nguyên và Môi trường tổ chức thực hiện việc định giá đất cụ thể theo kế hoạch đã được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt theo quy định tại Điều 17 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về giá đất.
Việc đề xuất giao Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc điều tra, tổng hợp, phân tích thông tin về thửa đất, giá đất thị trường, áp dụng phương pháp định giá đất và xây dựng phương án giá đất đối với trường hợp không thuê đơn vị tư vấn định giá đất là không có cơ sở pháp luật.