Đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa
Theo đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh, khái niệm thỏa thuận quốc tế tại dự thảo luật chưa thực sự làm rõ được khả năng phân biệt giữa thỏa thuận quốc tế với hợp đồng dân sự, bởi các lý do sau:
Thứ nhất, tại khoản 1 Điều 2 dự thảo luật định nghĩa thỏa thuận quốc tế có nêu "Là cam kết bằng văn bản về hợp tác quốc tế và giữa bên ký kết Việt Nam và bên ký kết nước ngoài không làm thay đổi, phát sinh, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế”. Tuy nhiên, dự thảo luật không đưa ra định nghĩa cho khái niệm hợp tác quốc tế. Nội dung về hợp tác quốc tế được quy định tại các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật Thể dục, thể thao năm 2006, Luật Hoạt động Chữ thập đỏ năm 2008, nhưng đều không chỉ ra được tính chất đặc trưng của hợp tác quốc tế, để phân biệt với hợp tác quốc tế trong quan hệ dân sự có yếu tố quốc tế. Vì vậy, đại biểu cho rằng dự thảo luật dường như đang định nghĩa một khái niệm dựa trên một khái niệm khác chưa được thống nhất về mặt nội hàm.
Thứ hai, tại khoản 5 Điều 3 dự thảo luật có quy định cơ quan nhà nước ở Trung ương, cơ quan cấp tỉnh, Tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan Trung ương của tổ chức, cơ quan cấp tỉnh của tổ chức không được ký kết thỏa thuận quốc tế ràng buộc Nhà nước, Chính phủ Việt Nam hoặc cơ quan, tổ chức Việt Nam. Theo Tờ trình, quy định này được hiểu là thỏa thuận quốc tế chỉ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên ký kết. Tuy nhiên, trừ một số trường hợp đặc biệt như được quy định tại Điều 415 Bộ luật Dân sự 2015 về thực hiện hợp đồng, vì lợi ích của người thứ ba. Hầu hết các hợp đồng dân sự trên thực tế cũng chỉ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia ký kết. Còn đối với khoản 2 Điều 2 của dự thảo luật về bên ký kết Việt Nam của thỏa thuận quốc tế thì hầu hết các chủ thể này đều có tư cách pháp nhân và đều có thể tham gia quan hệ dân sự thông qua việc ký kết hợp đồng dân sự. Vì vậy, đại biểu đề nghị luật cần quy định chi tiết hơn về khái niệm thỏa thuận quốc tế để phân biệt thỏa thuận quốc tế với hợp đồng dân sự cũng như làm rõ hơn phạm vi điều chỉnh của luật.
Bên cạnh đó, đại biểu đề nghị luật cần bổ sung thêm một số nội dung yêu cầu bắt buộc đối với thỏa thuận quốc tế liên quan đến đầu tư. Thực tế, trong thời gian vừa qua đã phát sinh một số tranh chấp đầu tư giữa Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài. Các tranh chấp này có thể phát sinh do cam kết của các địa phương đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong các thỏa thuận quốc tế được ký kết. Đại biểu nhấn mạnh, thực hiện Nghị quyết số 50 ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 để tăng cường quản lý đối với thỏa thuận quốc tế về đầu tư, cần có quy định chặt chẽ hơn đối với các thỏa thuận quốc tế liên quan đến đầu tư. Bởi lý do trên, so với Pháp lệnh Thỏa thuận quốc tế năm 2007, dự thảo luật đã bổ sung quy định về trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đối với việc ký kết các thỏa thuận quốc tế liên quan đến đầu tư tại khoản 3 Điều 28 của dự thảo luật.
Vì vậy, theo đại biểu để tăng cường hơn nữa công tác quản lý và phòng ngừa rủi ro đối với các thỏa thuận quốc tế liên quan đến đầu tư cần quy định cụ thể một số nội dung yêu cầu bắt buộc trong thỏa thuận quốc tế liên quan đến đầu tư, đặc biệt đối với các thỏa thuận quốc tế là bảo lãnh Chính phủ bao gồm: Điều kiện tiên quyết để được ký thỏa thuận quốc tế; Các trường hợp cho phép bên ký kết Việt Nam được quyền chấm dứt thỏa thuận quốc tế; Tài sản bảo đảm về quyền truy đòi.
Về thủ tục ký kết thỏa thuận quốc tế tại Điều 10, Điều 14, Điều 16, Điều 18, Điều 20 và Điều 25 của dự thảo luật quy định trước khi ký kết thỏa thuận quốc tế, bên ký kết Việt Nam có trách nhiệm lấy ý kiến cơ quan có liên quan đến hoạt động hợp tác quốc tế, thỏa thuận quốc tế. Tuy nhiên, theo đại biểu dự thảo không nêu rõ cơ quan có liên quan đến hoạt động hợp tác thuộc thỏa thuận quốc tế là cơ quan nào cũng như thẩm quyền, cơ chế xác định cơ quan có liên quan. Vì vậy, đại biểu đề nghị cần có giải thích, quy định rõ ràng trong luật nhằm đảm bảo tính khả thi sau khi ban hành.
Ngoài ra, theo đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh, tại Điều 28 dự thảo luật chưa quy định cụ thể thời hạn trả lời của các bộ khi được lấy ý kiến về đề xuất ký kết thỏa thuận quốc tế liên quan đến an ninh, quốc phòng, đầu tư. Đại biểu đề nghị để tạo thuận lợi cho việc thực hiện thủ tục ký kết thỏa thuận quốc tế, dự thảo luật cần bổ sung các quy định để làm rõ nội dung này.
Đại biểu cũng đề nghị dự thảo luật cần mở rộng hơn nữa chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế, đáp ứng nhu cầu thực tiễn hiện nay. Cụ thể, đại biểu nêu, so với Pháp lệnh năm 2007, phạm vi điều chỉnh mở rộng thêm quy định về việc ký kết thực hiện thỏa thuận quốc tế nhân danh Nhà nước, Chính phủ, thỏa thuận quốc tế nhân danh Tổng cục, cục thuộc bộ, cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thỏa thuận quốc tế nhân danh Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã, cơ quan cấp tỉnh của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp nhưng trên thực tế hoạt động thỏa thuận hợp tác quốc tế còn diễn ra phổ biến ở một số cơ quan cấp huyện, như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên thuộc địa bàn biên giới trong các sự kiện giao lưu văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Vì vậy, đại biểu cho rằng cần bổ sung thêm chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế, bao gồm cả các cơ quan cấp huyện của tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp./.