Trước đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận được chất vấn của đại biểu Quốc hội Huỳnh Thanh Phương do Tổng Thư ký Quốc hội chuyển đến tại công văn số 19/GS-PCCV ngày 27/5/2020. Theo đó, đại biểu Huỳnh Thanh Phương có ý kiến đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét, giải quyết đối với đề nghị được thanh toán tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước căn cứ theo lượng nước mặt sử dụng thực tế, hình thức thanh toán là 01 năm 01 lần trước ngày 20/01 của năm tiếp theo tương tự nộp thuế tài nguyên.
Đại biểu Huỳnh Thanh Phương - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh
Trả lời chất vấn của đại biểu Huỳnh Thanh Phương, ngày 06/7/2020, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước quy định trong Luật Tài nguyên nước năm 2012 được xây dựng với chủ trương cụ thể hóa quan điểm tài nguyên nước là tài sản của nhà nước, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, người được quyền khai thác, sử dụng tài sản của Nhà nước cần phải nộp tiền cấp quyền để bảo đảm công bằng trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước và nâng cao ý thức sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn nước. Tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước tương tự như tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, thu tiền cấp quyền sử dụng đất đai.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà nêu rõ, theo quy định của Nghị định số 201/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước (khoản 1 Điều 19) thì một trong những căn cứ cấp phép khai thác tài nguyên nước là phải căn cứ vào khả năng khai thác của nguồn nước. Đối với một nguồn nước cụ thể thì khi tổng lưu lượng đã cấp phép đã đạt đến giới hạn về khả năng khai thác của nguồn nước sẽ không xem xét, cấp phép khai thác thêm nguồn nước đó. Do đó, việc cấp giấy phép, cấp quyền khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho các tổ chức, cá nhân khai thác nguồn nước sẽ làm giảm cơ hội tiếp cận quyền khai thác, sử dụng tài nguyên nước của tổ chức, cá nhân khác trên cùng một nguồn nước. Vì vậy, tiền cấp quyền khai thác được tính trên cơ sở lưu lượng khai thác lớn nhất được cấp phép (như đã quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số 82/2017/NĐ-CP của Chính phủ), không phải tính theo lưu lượng khai thác thực tế của công trình như cách tính thuế tài nguyên nước.
Trong thực tế, trước khi Chính phủ ban hành Nghị định số 82/2017/NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước thì các chủ giấy phép có thể là do các lý do khách quan (dự án đầu tư chậm tiến độ, nhu cầu nước thực tế thấp hơn so với tính toán, dự báo khi xây dựng dự án...) hoặc chủ quan thường “giữ quyền” khai thác tài nguyên nước lớn hơn nhu cầu khai thác nước thực tế do không phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Khi Nghị định số 82/2017/NĐ-CP của Chính phủ được ban hành đã hạn chế tối đa tình trạng “giữ quyền” khai thác tài nguyên nước làm mất cơ hội khai thác nước của tổ chức, cá nhân khác và các chủ giấy phép khai thác tài nguyên nước sẽ phải cân nhắc, tính toán kỹ, đề nghị cấp phép với lưu lượng khai thác sát với nhu cầu khai thác, sử dụng nước thực tế để tránh việc phải nộp tiền nhiều hơn do việc “giữ quyền” cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà phát biểu trước Quốc hội.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà khẳng định, như vậy, phương pháp tính và phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước khác nhau về bản chất với phương pháp tính thuế tài nguyên. Do vậy, trường hợp các chủ giấy phép có nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên nước thấp hơn lưu lượng khai thác đã được cấp phép thì có quyền đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước theo quy định của Nghị định số 201/2013/NĐ-CP và đề nghị điều chỉnh tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước theo quy định của Nghị định số 82/2018/NĐ-CP của Chính phủ đảm bảo phù hợp với công suất khai thác thực tế.
Về hình thức thanh toán, Nghị định số 82/2017/NĐ-CP quy định doanh nghiệp có thể lựa chọn phương án nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước theo tháng, theo quy hoặc theo năm (quy định tại Phụ lục III) và theo quy định của pháp luật về quản lý thuế (khoản 2 Điều 14).