TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP CHIỀU 10/11: QUỐC HỘI BIỂU QUYẾT THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT VỀ PHƯƠNG ÁN PHÂN BỔ NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG NĂM 2024
Xây dựng, phát triển thủ đô văn hiến – văn minh – hiện đại
Trình Quốc hội dự án Luật Thủ đô (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho rằng việc ban hành Luật Thủ đô (sửa đổi) là cần thiết nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển, quản lý, bảo vệ Thủ đô tại các Nghị quyết của Bộ Chính trị như Nghị quyết số 06-NQ/TW, Nghị quyết số 30-NQ/TW, đặc biệt là Nghị quyết số 15-NQ/TW về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó xác định xây dựng, phát triển Thủ đô “Văn hiến - Văn minh - Hiện đại” và khắc phục những tồn tại, hạn chế đã được nhận diện qua hơn 09 năm thi hành Luật Thủ đô năm 2012.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long
Bộ trưởng Lê Thành Long cho biết, dự án Luật gồm 07 chương, 59 điều (tăng 03 chương, 32 điều so với Luật Thủ đô 2012, trong đó giữ nguyên 3 Điều; sửa đổi, bổ sung 18 điều; quy định mới 38 điều). Dự án Luật Thủ đô (sửa đổi) xây dựng dựa trên 05 quan điểm chỉ đạo sau: Thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển Thủ đô; Quy định các cơ chế, chính sách đặc thù cho Thủ đô bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và tuân thủ Hiến pháp năm 2013; Bám sát 09 nhóm chính sách đã được Chính phủ thông qua; Chi tiết, cụ thể hóa tối đa các cơ chế, chính sách đặc thù trong Luật để áp dụng được ngay; Kế thừa, phát triển các quy định đang phát huy tác dụng tốt của Luật Thủ đô 2012 đã được thực tiễn kiểm nghiệm; luật hóa các cơ chế, chính sách đặc thù đang thí điểm cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phù hợp với Thủ đô.
Báo cáo về một số nội dung cơ bản của dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long nêu rõ, về mô hình tổ chức của chính quyền Thủ đô thực hiện mô hình không tổ chức Hội đồng nhân dân phường ở Hà Nội theo Nghị quyết số 97 và bổ sung thành phố thuộc thành phố Hà Nội. Tăng số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân (từ 95 lên 125 đại biểu), tỷ lệ đại biểu chuyên trách (từ 20% lên 25%), số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân (từ 02 lên tối đa 03); mở rộng thành phần Thường trực Hội đồng nhân dân so với Luật Tổ chức chính quyền địa phương nhằm nâng cao năng lực và tăng tính chuyên nghiệp của Hội đồng nhân dân.
Thẩm tra dự án luật này, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho biết, Ủy ban Pháp luật và các cơ quan tham gia thẩm tra đều tán thành với sự cần thiết ban hành, mục đích, quan điểm xây dựng và phạm vi sửa đổi Luật Thủ đô. Hồ sơ dự án Luật Thủ đô (sửa đổi) được Chính phủ chuẩn bị công phu, nghiêm túc, đầy đủ theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng
Về áp dụng Luật Thủ đô (Điều 4), đa số ý kiến trong Ủy ban Pháp luật tán thành với quy định của dự thảo Luật và cho rằng để thực hiện có hiệu quả quy định này, đề nghị xác định rõ cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành với chính quyền thành phố Hà Nội khi xây dựng dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, vai trò của chính quyền thành phố Hà Nội và cơ chế xử lý trong trường hợp giữa Bộ, ngành và chính quyền Thành phố có ý kiến khác nhau về nội dung của chính sách; đối với nội dung Luật Thủ đô giao Chính phủ, HĐND, UBND thành phố Hà Nội quy định chi tiết hoặc giao quy định cơ chế, chính sách đặc thù cho Thành phố thì nội dung trong các văn bản này phải phù hợp với Luật Thủ đô nhưng có thể khác với quy định của các luật khác hoặc văn bản quy phạm pháp luật khác của cơ quan nhà nước cấp trên; bổ sung trách nhiệm của HĐND, UBND thành phố Hà Nội định kỳ hằng năm báo cáo cơ quan có thẩm quyền về việc ban hành các văn bản để bảo đảm cơ chế kiểm tra, giám sát.
Có ý kiến đề nghị bổ sung trách nhiệm của chính quyền thành phố Hà Nội và Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố trong việc theo sát quá trình các cơ quan xây dựng văn bản để có kiến nghị kịp thời. Ý kiến khác đề nghị bổ sung quy định trong trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định việc áp dụng pháp luật đối với các chính sách liên quan đến Thủ đô.
Thể chế hóa Nghị quyết của Trung ương về nhiệm vụ phát triển Hà Nội đến giữa thế kỷ
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nêu rõ, đây là dự án Luật có tầm quan trọng đặc biệt. Hà Nội vừa là một đô thị đặc biệt, vừa là Thủ đô của cả nước. Đô thị đặc biệt thì có thể có nhiều nhưng Thủ đô chỉ có một. Thủ đô được định nghĩa trong Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, xác định Thủ đô là trung tâm đầu não chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, hội nhập quốc tế.
Khác với Nghị quyết 11-NQ/TW trước đây đã xác định Thủ đô là trung tâm đầu não chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn văn hóa, giáo dục và đào tạo, kinh tế…Nghị quyết số 15-NQ/TW đặt kinh tế lên trước, bởi quy mô kinh tế của Thủ đô ngày càng lớn, đến nay về quy mô chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh. Thu ngân sách của Hà Nội cũng đã gần với tổng thu của Thành phố Hồ Chí Minh, trong khi Thành phố Hồ Chí Minh có cảng biển. Tính riêng về thu nội địa thì Hà Nội đứng đầu cả nước. Với quy mô như vậy nên trong Nghị quyết lần này đã có định vị lại.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ
Cùng với đó, Hà Nội cũng được xác định là đầu não chính trị, hành chính quốc gia, vừa là bộ mặt và là trái tim của cả nước, là tất cả những gì tinh túy nhất. Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến và anh hùng, Thành phố vì hòa bình là những danh hiệu được thế giới trao tặng. Gần đây UNESCO trao tặng cho Hà Nội danh hiệu Thành phố thiết kế sáng tạo trong mạng lưới thành phố sáng tạo trên thế giới.
Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, với nhiều nội dung như vậy, Luật Thủ đô (sửa đổi) lần này phải thể chế hóa được Nghị quyết của Trung ương về vị trí, vai trò, định hướng và nhiệm vụ phát triển của Hà Nội cho đến tận giữa thế kỉ để thúc đẩy, tạo động lực dẫn dắt cho cả vùng và cả nước. Như nhiều đại biểu đã nói: Xây dựng Luật Thủ đô không phải chỉ riêng của Hà Nội mà thực chất là cho cả nước theo tinh thần “Hà Nội vì cả nước và cùng cả nước”. Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XVII Đảng bộ thành phố Hà Nội thì nêu tinh thần “Hà Nội vì cả nước, cùng cả Nhà nước”. Nghị quyết số 15-NQ/TW của Bộ Chính trị nhấn mạnh “Hà Nội vì cả nước, cả nước vì Hà Nội”.
Chủ tịch Quốc hội cho biết, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Thủ đô là đầu tư rất lớn công sức cho dự án luật này, khởi động từ sớm ngay từ khi Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XVII Đảng bộ thành phố Hà Nội ngay từ đầu nhiệm kỳ.
Cần chú trọng vấn đề bố trí quỹ đất xây dựng nhà ở xã hội tại thủ đô
Chia sẻ ý kiến về dự án luật này, PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến - Phó Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng, trải qua thời gian thi hành Luật Thủ đô cho thấy đạo luật này đã góp phần quan trọng vào việc phát triển Hà Nội. Qua 10 năm thực hiện, Luật Thủ đô và các văn bản quy định chi tiết đã góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của chính quyền các cấp và nhân dân về vị trí, vai trò, nhiệm vụ xây dựng, phát triển Thủ đô; các chính sách, cơ chế quy định trong Luật đã góp phần giúp thành phố đạt được một số thành tựu quan trọng trong nhiều lĩnh vực như: y tế, văn hóa, giáo dục, an sinh xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế như việc triển khai lập Chương trình phát triển đô thị còn chậm; còn thiếu giải pháp huy động nguồn lực trong cải tạo, chỉnh trang tại các khu vực đô thị cũ (về hạ tầng kỹ thuật, công trình kiến trúc, nhà ở…).
Bên cạnh đó, việc bố trí quỹ đất để xây dựng nhà ở xã hội trong các dự án nhà ở thương mại tại Thủ đô còn chưa đáp ứng nhu cầu thực tế, không đạt mục tiêu đề ra. Cùng với đó là công tác di dời và quản lý quỹ đất sau khi di dời của một số cơ quan, tổ chức chưa được thực hiện đầy đủ, hoàn thành theo Quyết định số 130/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến - Phó Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Luật Hà Nội
Điều này đặt ra yêu cầu cần thiết phải sửa đổi Luật Thủ đô để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước nhanh, bền vững góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Nghị quyết số 15/NQ-TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đề ra.
Tại Điều 30 dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) có nội dung Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội quy định “Hỗ trợ, ưu đãi cho phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao; các hoạt động xử lý, tái chế sử dụng phụ phẩm, chất thải nông nghiệp”. PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến cho rằng, cụm từ “nông nghiệp công nghệ cao” là thuật ngữ mà một bộ phận người dân hạn chế về trình độ dân trí; đặc biệt là người dân sinh sống ở vùng sâu, vùng xa hoặc một số người dân tộc thiểu số dường như còn chưa hiểu rõ, hiểu chính xác về nội hàm.
Mặt khác, thuật ngữ này có nhiều cách giải thích khác nhau và cách hiểu không giống nhau. Để xác định cách hiểu thống nhất làm cơ sở áp dụng thống nhất trong triển khai thực hiện khi Dự thảo Luật Thủ đô (sửa đổi) có hiệu lực thi hành, PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến cho rằng cần bổ sung một khoản giải nghĩa về nội hàm thuật ngữ “nông nghiệp công nghệ cao” (trong nội hàm khái niệm này cần đưa ra một số tiêu chí cơ bản để nhận diện về nông nghiệp công nghệ cao) tại Điều 3. Giải thích từ ngữ của Dự thảo Luật, bên cạnh việc giải nghĩa khái niệm “nông nghiệp sinh thái”.