Ngày 20/6/2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Công chứng (sửa đổi), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/02/2015. Theo đó, công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng1.
Xuất phát từ khái niệm công chứng nêu trên, có thể thấy, công tác quản lý nhà nước về công chứng đặt ra những yêu cầu đòi hỏi Nhà nước bằng các công cụ, cơ chế của mình, điều hành, tác động vào các tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên trong việc chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch dân sự khác đảm bảo cho hoạt động công chứng diễn ra theo định hướng của Nhà nước.
Như vậy, 02 đối tượng chính, chủ đạo của quản lý nhà nước về công chứng hướng tới gồm: (1) công chứng viên; (2) tổ chức hành nghề công chứng. Trong đó:
- Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật Công chứng, được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng. Công chứng viên có vai trò cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện, nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
- Tổ chức hành nghề công chứng gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Trong công tác quản lý nhà nước về công chứng, Chính phủ, Bộ Tư pháp, các bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp là những chủ thể đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm công chứng hoạt động đúng hướng; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước trong quản lý hoạt động công chứng. Luật Công chứng năm 2014 dành một chương riêng (Điều 69, Điều 70) để quy định nội dung quản lý nhà nước về công chứng của các chủ thể này.
1. Những kết quả đạt được trong triển khai, thi hành Luật Công chứng năm 2014
Sau hơn 08 năm thi hành Luật Công chứng năm 2014, hoạt động công chứng đã có nhiều bước tiến mới. Đội ngũ công chứng viên ngày càng tăng về số lượng, chất lượng được nâng lên; tổ chức hành nghề công chứng lớn mạnh cả về quy mô và phạm vi hoạt động với tính chuyên nghiệp cao, đáp ứng yêu cầu của xã hội và nhu cầu công chứng của người dân, doanh nghiệp. Công tác quản lý về công chứng đã mang lại những kết quả tích cực; Bộ Tư pháp và các bộ, ngành đã rà soát, kịp thời sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; đã chủ trì, phối hợp tham mưu Chính phủ ban hành 02 nghị định, 01 nghị quyết; chủ trì, phối hợp ban hành 05 thông tư hướng dẫn hoạt động công chứng.
Về đội ngũ công chứng viên: Thời điểm tổng kết việc thực hiện Luật Công chứng năm 2006 để đề xuất sửa đổi năm 2013-2014, cả nước chỉ có khoảng 1.180 công chứng viên.
- Theo Báo cáo số 197/BC-BTP ngày 09/8/2022 của Bộ Tư pháp về tổng kết thi hành Luật Công chứng cho thấy: Tính đến ngày 31/12/2021, cả nước có 3.074 công chứng viên tăng 2.681 người so với thời điểm trước khi thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng (ngày 01/01/2007), tăng 1.894 người so với thời điểm sau 5 năm thực hiện Luật Công chứng năm 2006 (năm 2012).
- Tính đến hết ngày 31/12/2022, cả nước có 3.220 công chứng viên, trong đó 390 công chứng viên hành nghề tại Phòng công chứng (chiếm tỷ lệ 12%) và 2.830 công chứng viên hành nghề tại Văn phòng công chứng (chiếm tỷ lệ 88%). Số lượng công chứng viên đã tăng khoảng gần 2,7 lần.
Các công chứng viên được bổ nhiệm theo Luật Công chứng năm 2014 đều có trình độ cử nhân luật trở lên; đều qua đào tạo, bồi dưỡng, tập sự hành nghề công chứng và đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng. Các công chứng viên đều được đăng ký hành nghề và cấp thẻ công chứng viên trước khi ký văn bản công chứng. Hoạt động công chứng của các công chứng viên cơ bản bảo đảm đúng quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về công chứng nói riêng. Đa số công chứng viên có đạo đức nghề nghiệp, tâm huyết và chuyên tâm với nghề.
Bộ Tư pháp cũng đã chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nghề công chứng, tập sự hành nghề công chứng và kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng, thực hiện theo đúng chỉ tiêu kế hoạch được phê duyệt hàng năm và chương trình khung đào tạo, bồi dưỡng nghề công chứng được Bộ phê duyệt. Trong đó, đã tổ chức 04 kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng, cấp giấy chứng nhận kết quả kiểm tra tập sự hành nghề công chứng cho gần 1.100 người vào các năm 2016, 2017, 2019, 2021-2022. Học viên được trang bị kiến thức và thực tiễn để tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng. Công tác bổ nhiệm công chứng viên được thực hiện chặt chẽ, đúng theo quy định của pháp luật. Trong 7 năm thi hành Luật Công chứng năm 2014, Bộ Tư pháp đã bổ nhiệm công chứng viên cho 1.019 người, bổ nhiệm lại công chứng viên cho 128 người, miễn nhiệm công chứng viên cho 179 người3. Chỉ trong giai đoạn 2020-2022, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã bổ nhiệm 507 công chứng viên, bổ nhiệm lại 41 công chứng viên và miễn nhiệm 42 công chứng viên.
Hằng năm, Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Hội công chứng viên các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều tổ chức bồi dưỡng bắt buộc hằng năm đối với đội ngũ công chứng viên hành nghề; cập nhật, bổ sung kiến thức pháp luật về công chứng và các quy định khác có liên quan. Đồng thời, giúp các công chứng viên nâng cao kỹ năng, cách thức giải quyết các vấn đề vướng mắc trong quá trình hành nghề công chứng.
Về Tổ chức hành nghề công chứng: Báo cáo tổng kết thi hành Luật Công chứng của Bộ Tư pháp cho biết: thời điểm thực hiện Luật Công chứng năm 2006, cả nước có 625 tổ chức hành nghề công chứng. Qua 08 năm thi hành Luật Công chứng năm 2014, cả nước đã có 1.298 tổ chức hành nghề công chứng. Số lượng tổ chức hành nghề công chứng đã tăng hơn 02 lần. Các tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện hơn 41 triệu việc công chứng; tổng số phí công chứng thu được hơn 13 nghìn tỷ đồng; tổng số thù lao công chứng thu được hơn 2 nghìn tỷ đồng; tổng số tiền nộp thuế và nộp ngân sách nhà nước hơn 2,3 nghìn tỷ đồng. Các việc công chứng hợp đồng, giao dịch về đất đai, nhà ở, bất động sản và tài sản quan trọng khác chiếm tỷ lệ từ 70-80% số việc công chứng và giá trị phí, thù lao công chứng, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch đối với những tài sản có giá trị lớn, đóng vai trò là phương tiện sản xuất cơ bản trong nền kinh tế. Việc công chứng các hợp đồng, giao dịch về đất đai, nhà ở còn góp phần quan trọng trong công tác quản lý nhà nước đối với quá trình chuyển quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất, tránh thất thoát nguồn thu thuế, giảm gánh nặng cho cơ quan tiến hành tố tụng thông qua việc giảm thiểu số lượng và quy mô tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện các giao dịch liên quan.
(3) Bộ Tư pháp đã ban hành nhiều công văn triển khai, hướng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra, thanh tra, chấn chỉnh những mặt còn tồn tại nhằm nâng cao chất lượng hoạt động công chứng và tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động công chứng tại địa phương. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra theo kế hoạch hàng năm và đột xuất theo thông tin phản ánh của cá nhân, tổ chức, trong đó tập trung vào các địa phương mà qua thông tin quản lý, báo chí phản ánh có nhiều dấu hiệu vi phạm pháp luật, vi phạm Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, qua đó, kịp thời chấn chỉnh, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Trong quá trình thi hành Luật Công chứng, Bộ Tư pháp và các Sở Tư pháp đã thực hiện thanh tra tại hơn 2.000 tổ chức hành nghề công chứng; ban hành hơn 700 quyết định xử phạt tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên; tổng số tiền xử phạt vi phạm hành chính hơn 4 tỷ đồng, tước quyền sử dụng Thẻ công chứng viên 06 trường hợp (01 công chứng viên ở Bến Tre, 04 công chứng viên ở Đồng Nai, 01 công chứng viên ở Thành phố Hồ Chí Minh).
Theo thống kê của Cục Bổ trợ tư pháp, Việt Nam hiện có 3.220 công chức viên và 1.298 tổ chức hành nghề công chứng.
(4) Bộ Ngoại giao đã tích cực phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện công chứng của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng cho viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao được giao thực hiện công chứng. Đã tổ chức 10 khóa bồi dưỡng nghiệp vụ lãnh sự cho 1.800 học viên, cử 03 đoàn công tác đi tư vấn lãnh sự với các nước kết hợp hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ của 13 cơ quan đại diện...4
2. Hạn chế, bất cập
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng vẫn còn những hạn chế, bất cập đó là:
2.1. Số lượng công chứng viên tăng nhanh nhưng chất lượng chưa đồng đều, tập trung chủ yếu ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị lớn. Trong hoạt động hành nghề công chứng, còn tình trạng công chứng viên “non tay”, yếu về nghiệp vụ, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thực hiện công chứng “khống”, công chứng “treo”, tiếp tay cho việc trốn thuế, vi phạm pháp luật. Ngày càng nhiều vụ án tranh chấp hợp đồng, giao dịch do công chứng viên chứng nhận bị Tòa án tuyên hủy và tuyên vô hiệu mà nguyên nhân chủ yếu do sai sót khi thực hiện nghiệp vụ, thậm chí là sai phạm trong quá trình hành nghề của công chứng viên5.
2.2. Các Văn phòng công chứng mặc dù hoạt động theo loại hình công ty hợp danh nhưng thực chất Văn phòng công chứng chỉ có 01 công chứng viên hành nghề, công chứng viên hợp danh còn lại do Văn phòng công chứng thuê để bảo đảm về thủ tục thành lập. Tổ chức của một số Văn phòng công chứng còn thiếu tính ổn định, bền vững. Nhiều trường hợp Văn phòng công chứng cạnh tranh không lành mạnh, chỉ đạo công chứng viên vi phạm các điều cấm tại Luật Công chứng để chạy theo lợi nhuận.
Tổ chức của một số Văn phòng công chứng còn thiếu tính ổn định, bền vững. (ảnh minh họa)
2.3. Việc ứng công nghệ thông tin trong hoạt động công chứng còn ở mức độ thấp, chưa bắt kịp tiến bộ và ứng dụng công nghệ thông tin trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển đổi số. Đây cũng là một trong những khó khăn, hạn chế làm giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về công chứng trong điều kiện công chứng số, công chứng điện tử và việc thúc đẩy trí tuệ nhân tạo (AI) và hoạt động công chứng, nhất là trong quản lý nhà nước.
2.4. Việc bỏ quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng trong cả nước nhưng lại chưa làm tốt chức năng quản lý, quản trị trong hoạt động công chứng khiến các Văn phòng công chứng chủ yếu tập trung tại những tỉnh, thành phố, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển. Các vùng sâu, vùng xa, vùng phát triển khó khăn, người dân rất khó tiếp cận với dịch vụ công chứng.
2.5. Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng chưa toàn diện, chưa có tính liên thông. Bên cạnh đó, vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên còn chưa tốt.
3. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập
Một là, quy định của pháp luật về công chứng và hành nghề công chứng còn thiếu, một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn, đặc thù của nghề công chứng; thiếu công cụ, cơ chế pháp lý để bảo đảm nâng cao chất lượng hoạt động công chứng, hiệu quả quản lý nhà nước; một số quy định về trình tự, thủ tục công chứng còn cứng nhắc, chưa tạo nền tảng pháp lý cho việc chuyển đổi số trong hoạt động công chứng.
Hai là, một bộ phận công chứng viên còn chưa nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của nghề công chứng, thiếu tu dưỡng, rèn luyện về chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, có trường hợp cố ý làm trái, không tuân thủ đúng trình tự, thủ tục công chứng theo quy định của pháp luật, cạnh tranh không lành mạnh, chạy theo lợi nhuận.
Ba là, việc phát triển Văn phòng công chứng chưa căn cứ vào nhu cầu thực tế của xã hội, tập trung tại các khu trung tâm quận, thị xã, thành phố gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước, khó khăn cho người dân tại vùng xa trung tâm trong việc tiếp cận dịch vụ công chứng.
Bốn là, nguồn lực và các điều kiện đảm bảo thực hiện công tác quản lý nhà nước về công chứng còn hạn hẹp (nhiều địa phương, số lượng công chức làm việc ở Phòng Bổ trợ tư pháp chỉ có một đến hai người, trong khi phải triển khai nhiều nhiệm vụ trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp). Cơ sở vật chất, điều kiện trụ sở, phòng làm việc của công chức tại Cục Bổ trợ tư pháp của Bộ Tư pháp và Phòng Bổ trợ tư pháp tại các địa phương còn hạn chế. Kinh phí hỗ trợ cho công tác quản lý còn khó khăn; công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước có lúc, có nơi còn chưa chặt chẽ.
Năm là, tổ chức xã hội - nghề nghiệp còn có lúc, có nơi chưa nhận thức hết vị trí, vai trò, trách nhiệm trong việc phát triển nghề công chứng, công tác phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước, hiệu quả chưa cao. Chưa xác định được sự cần thiết, thẩm quyền, hình thức của việc ban hành Tiêu chí xét duyệt hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng, việc chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng, việc phối hợp quản lý nhà nước về công chứng của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.
Công chứng điện tử là một xu thế chung trong hoạt động công chứng trên toàn thế giới và Việt Nam
Sáu là, việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động công chứng tuy đã được thực hiện nhưng mới chỉ là bước đầu, chưa tương xứng với sự phát triển các nhu cầu giao dịch dân sự, kinh tế và sự chuyển đổi số mạnh mẽ trong các lĩnh vực liên quan. Hiện nay vẫn chưa có cơ sở dữ liệu công chứng quốc gia thống nhất trong cả nước; việc chia sẻ cơ sở dữ liệu công chứng và cơ sở dữ liệu liên quan còn hạn chế.
1. Về công chứng viên
Thứ nhất, nghiên cứu thu hẹp đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng. Trong trường hợp không thu hẹp thì nghiên cứu bổ sung các kiến thức và kỹ năng vào chương trình tham gia khóa bồi dưỡng kỹ năng hành nghề công chứng và quy tắc đạo đức hành nghề công chứng để bảo đảm người tham gia bồi dưỡng có đủ kiến thức, kỹ năng, đạo đức hành nghề công chức.
Thứ hai, đối với tập sự hành nghề, cần có cơ chế bảo đảm tránh việc “đánh trống ghi tên”.
Thứ ba, có cơ chế bảo đảm về điều kiện hành nghề công chứng viên, trong đó, quan tâm, chú trọng điều kiện về sức khỏe hành nghề, độ tuổi tối đa hành nghề và có cơ chế thu hồi thẻ hành nghề trong những trường hợp đã được cấp thẻ nhưng không bảo đảm điều kiện.
Thứ tư, nghiên cứu mở rộng các trường hợp miễn nhiệm công chứng viên phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội cũng như khả năng hành nghề của công chứng viên.
Thứ năm, nghiên cứu bổ sung các quy định về giám sát, xử lý nghiêm và công khai các hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên.
2. Về tổ chức hành nghề công chứng
Công chứng là một nghề đặc biệt, cần sự điều tiết và quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Kinh nghiệm của các nước về mô hình công chứng nội dung thì vai trò của tổ chức hành nghề công chứng chỉ là nơi để công chứng viên hành nghề chứ không phải nơi quản lý công chứng viên như Việt Nam hiện nay.
Trong bối cảnh ứng dụng các thành quả của khoa học kỹ thuật, giao dịch điện tử đã được triển khai thực hiện trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là các lĩnh vực quan trọng của đất nước như thuế thì lĩnh vực công chứng cũng cần có sự đổi mới. Cần xác định chữ ký của công chứng viên hay con dấu của Tổ chức hành nghề công chứng có giá trị pháp lý trong giao dịch để từ đó sửa đổi các quy định về Tổ chức hành nghề công chứng cho phù hợp.
Công chứng là một nghề đặc biệt, cần sự điều tiết và quản lý chặt chẽ của Nhà nước.
3. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về công chứng
Để bảo đảm việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về công chứng giảm thiểu các khó khăn về thời gian, nguồn lực cũng như việc chuyển đổi dữ liệu, cần xem xét, đề xuất bổ sung quy định việc Chính phủ (hoặc giao Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Thông tin và truyền thông, các bộ, ngành liên quan) quy định chuẩn kết nối và xây dựng công cụ kết nối để các địa phương kết nối và chia sẻ cơ sở dữ liệu đã có của mình vào cơ sở dữ liệu chung quốc gia như kết nối, liên thông với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hộ tịch, Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai; Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật, Cơ sở dữ liệu quốc gia hộ tịch điện tử, Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm trực tuyến, Cơ sở dữ liệu quốc gia điện tử về thi hành án dân sự, từng bước chia sẻ dữ liệu của các cơ quan nhà nước để cung cấp dịch vụ công kịp thời, phục vụ người dân và phát triển kinh tế - xã hội.
4. Về thực hiện hoạt động công chứng trên môi trường điện tử
Văn bản công chứng là một thành phần của nhiều thủ tục hành chính. Để thực hiện công chứng trên môi trường điện tử đòi hỏi hồ sơ yêu cầu công chứng phải có nhiều loại giấy tờ do các cơ quan khác cấp. Việc quy định về công chứng trên môi trường điện tử nhưng chưa giải quyết được bài toán kết nối, liên thông được với các cơ sở dữ liệu khác (như dữ liệu đất đai, hộ tịch...) hoặc không công nhận giá trị thông tin giữa các cơ sở dữ liệu thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình công nghệ hóa hoạt động công chứng, thậm chí còn gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng. Do đó, yêu cầu đặt ra là cần bảo đảm sự liên thông giữa các cơ sở dữ liệu quốc gia trong hệ thống các cơ sở dữ liệu đã và đang được xây dựng. Đồng thời, cấp quyền cho công chứng viên được khai thác, sử dụng các cơ sở dữ liệu quốc gia, bảo đảm hoạt động hiệu quả trên môi trường mạng.
5. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công chứng, phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên
Đầu tư thỏa đáng về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất cho đội ngũ cán bộ tư pháp ở Trung ương và địa phương thực hiện công tác quản lý nhà nước về công chứng. Từ phía cơ quan quản lý nhà nước, cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động công chứng như: thường xuyên phối hợp, cung cấp thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước về công chứng ở Trung ương với địa phương; giữa cơ quan quản lý nhà nước về công chứng với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan.
Hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng của 63 địa phương, tiến tới xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về công chứng để tăng cường tính chuyên nghiệp, hiệu quả và an toàn của hoạt động công chứng.
1. Nghiên cứu sửa đổi quy định về điều kiện của công chứng viên theo hướng bổ sung độ tuổi hoạt động của công chứng viên. Theo quy định của pháp luật lao động thì tuổi nghỉ hưu với nam là 62 tuổi, tuổi nghỉ hưu với nữ là 60 tuổi. Đây là độ tuổi đã được khoa học pháp lý và khoa học thực tiễn chứng minh về khả năng lao động và đáp ứng yêu cầu công việc, nhất là trong bối cảnh ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện nghiệp vụ. Đối với những người quá tuổi 62 đối với nam và 60 tuổi đối với nữ làm việc trong hoạt động công chứng sẽ phần nào làm giảm hiệu suất; đồng thời, với độ tuổi này thì việc thực hiện công chứng điện tử cũng bị ảnh hưởng bởi khả năng ứng dụng công nghệ sẽ giảm dần khi tuổi tăng. Việc quy định độ tuổi với công chứng viên là cần thiết bởi hoạt động công chứng đòi hỏi sự tỉ mỉ, chính xác và trách nhiệm pháp lý tương đối cao. Do đó, Luật Công chứng nên quy định độ tuổi tối đa để hành nghề công chứng tương tự như độ tuổi lao động, đồng thời, có thể nghiên cứu cho phép kéo dài tuổi hành nghề đối với một số trường hợp đặc thù tương tự như quy định tại khoản 4 Điều 169 Bộ luật Lao động.
Thường trực Ủy ban Pháp luật họp phiên mở rộng thẩm tra sơ bộ dự án Luật Công chứng (sửa đổi).
2. Đối với tập sự hành nghề, cần quy định rõ về trình tự, nội dung tập sự để tránh việc “đánh trống ghi tên”. Bên cạnh đó, Luật Công chứng (sửa đổi) có thể tính đến cả việc quy định về điều kiện sức khỏe; bổ sung quy định thu hồi thẻ công chứng viên đối với trường hợp đã được cấp thẻ hành nghề nhưng không làm việc trong một khoảng thời gian nhất định.
3. Nghiên cứu bổ sung quy định về nguyên tắc việc công chứng viên có thể sử dụng thông tin trong các cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai, hộ tịch, dân cư... được chia sẻ để thay thế cho giấy tờ bản giấy khi tiếp nhận yêu cầu công chứng.
4. Nghiên cứu bổ sung quy định tại dự thảo Luật về nguyên tắc các cơ quan tiếp nhận văn bản công chứng (như cơ quan thuế, đăng ký đất đai, công an, đăng ký giao dịch bảo đảm...) phải có phương án tiếp nhận văn bản công chứng điện tử thay văn bản công chứng giấy.
5. Nghiên cứu bổ sung quy định về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong cung cấp thông tin, chia sẻ thông tin bảo đảm tính liên thông trong hoạt động công chứng. Có thể quy định mang tính nguyên tắc theo hướng giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước ban hành Quy chế phối hợp trong hoạt động công chứng; giao Bộ Tư pháp ban hành Quy chế mẫu về phối hợp giữa Sở Tư pháp, các sở, ngành khác, các Văn phòng công chứng và Hội công chứng viên tại địa phương.
(1). Khoản 1 Điều 2 của Luật Công chứng năm 2014.
(2). Thời điểm tổng kết thi hành Luật Công chứng năm 2014 là năm 2022, tương ứng với hơn 08 năm thực hiện Luật Công chứng năm 2014.
(3). Báo cáo số 197/BC-BTP ngày 09/8/2022 của Bộ Tư pháp về tổng kết thi hành Luật Công chứng.
(4). Báo cáo số 197/BC-BTP ngày 09/8/2022 của Bộ Tư pháp về tổng kết thi hành Luật Công chứng.
(5). Năm 2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra tỉnh Bình Thuận ra quyết định khởi tố bị can đối với ông Nguyễn Dần (nguyên Trưởng Văn phòng công chứng Nguyễn Dần, TP. Phan Thiết) về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Năm 2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương khởi tố bị can, bắt tạm giam công chứng viên Hồ Văn Ngọc (61 tuổi, ngụ Tân Uyên, Bình Dương) để điều tra hành vi "lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ".
|
ThS.Chu Thị Thanh Hương
Chuyên viên Vụ Pháp luật, Văn phòng Quốc hội
|