TỔNG HỢP THẨM TRA VIỆC THỰC HIỆN CÁC NGHỊ QUYẾT, KẾT LUẬN CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI VỀ GIÁM SÁT CHUYÊN ĐỀ VÀ CHẤT VẤN

15/08/2019

Sáng 15/8, trong phiên của chất vấn và trả lời chất vấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 36, Tổng Thư ký, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc báo cáo tổng hợp thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội về việc thực hiện các nghị quyết, kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết năm 2018.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn

Tính từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV đến hết năm 2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 4 nghị quyết về giám sát chuyên đề và 4 thông báo kết luận về chất vấn.

Thực hiện Chương trình công tác năm 2019 và Kế hoạch số 377/KH-UBTVQH14 ngày 8/3/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã gửi 10 báo cáo chuyên đề và 1 Báo cáo tổng hợp về việc thực hiện 4 nghị quyết và 4 kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chất vấn và giám sát chuyên đề từ đầu nhiệm kỳ đến hết năm 2018 trên các lĩnh vực: Khoa học và công nghệ; giao thông vận tải; nông nghiệp và phát triển nông thôn; quản lý, sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài; lao động - thương binh và xã hội; thông tin và truyền thông; xây dựng, đô thị; xây dựng pháp luật (thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp); công tác dân tộc; an ninh trật tự (thuộc trách nhiệm của Bộ Công an).

Trên cơ sở các báo cáo Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội đã tiến hành thẩm tra và có đánh giá cụ thể về các nội dung mà Chính phủ thực hiện. Tổng Thư ký Quốc hội báo cáo tóm tắt nội dung thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.

Hành lang pháp lý về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng được hoàn thiện

Thực hiện Nghị quyết số 297/NQ-UBTVQH14 về nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển khoa học, công nghệ nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2015-2020, trong đó chú trọng đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho biết hành lang pháp lý về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng được hoàn thiện.

Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phát triển nhanh. Hạ tầng kỹ thuật, hệ thống phòng thí nghiệm và trang thiết bị nghiên cứu được nâng cấp, hiện đại hóa. Việc triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ ngày càng minh bạch; thị trường công nghệ bước đầu phát huy vai trò cầu nối, gắn kết hoạt động khoa học và công nghệ với sản xuất, kinh doanh. Chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo đã dần phát huy tác dụng. Nhiều sản phẩm, công nghệ mới được tạo ra; số lượng doanh nghiệp hoạt động hiệu quả ngày một tăng, năng lực thiết kế, chế tạo và sản xuất được cải thiện.

Tuy nhiên, sự liên kết giữa các tổ chức khoa học và công nghệ trong các ngành, lĩnh vực từ trung ương đến địa phương, giữa các tổ chức nghiên cứu, phát triển, các trường đại học và doanh nghiệp chưa thực sự chặt chẽ. Thiếu cơ chế để xây dựng các tập thể khoa học mạnh, các viện nghiên cứu, trường đại học đẳng cấp quốc tế. Hoạt động mua, bán công nghệ và chuyển giao kết quả nghiên cứu còn hạn chế. Việc chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp FDI còn hạn chế. Ngành cơ khí vẫn thiếu đồng bộ, tỷ lệ nội địa hóa thấp, phần lớn các vật tư nguyên liệu cho sản xuất cơ khí đều nhập khẩu.

Trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư tại Kỳ họp thứ 8

Đối với việc thực hiện Nghị quyết 437/NQ-UBTVQH14 về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), Tổng Thư ký Quốc hội cho biết, nhiều văn bản liên quan đến hình thức đối tác công tư được sửa đổi, ban hành. Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư đang được nghiên cứu và sẽ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8. Việc lập quy hoạch ngành giao thông vận tải quy định của Luật Quy hoạch được Chính phủ chỉ đạo triển khai. Các Đề án tăng cường kết nối giao thông trong một số khu vực trọng điểm, lựa chọn nhà đầu tư, nhà thầu thông qua hình thức đấu thầu công khai được xây dựng. Quy định việc công khai, minh bạch các thông tin về dự án và các giải pháp xử lý nhằm thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước được ban hành. Khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư được tháo gỡ. Vị trí đặt trạm thu phí BOT được rà soát tổng thể và có các chính sách miễn, giảm giá cho các đối tượng chịu ảnh hưởng.

Tổng Thư ký, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc báo cáo tổng hợp thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội 

Tuy nhiên, kết quả kiểm điểm trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân để xảy ra khuyết điểm, vi phạm chưa được tổng hợp, báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; chưa làm rõ tình hình thực hiện các kết luận của các đoàn kiểm tra, thanh tra, kiểm toán nhà nước; chưa làm rõ tình hình thực hiện của các dự án do địa phương quản lý; chưa ban hành quy định về tiêu chí để đánh giá năng lực tài chính của nhà đầu tư, mức vốn chủ sở hữu.

Việc sửa đổi quy định về quản lý chi phí đầu tư xây dựng vẫn còn chậm. Việc quyết toán các dự án đã hoàn thành vẫn còn một số vướng mắc; những bất cập tại một số trạm thu phí BOT vẫn chưa được xử lý dứt điểm; việc thất thoát doanh thu tại các trạm thu phí vẫn còn tồn tại; việc triển khai thu phí tự động không dừng trên tất cả các trạm còn chậm; tình trạng mất an toàn, an ninh, trật tự tại một số địa phương có dự án đi qua vẫn diễn ra. Một số các công trình giao thông BOT chất lượng còn thấp, chưa được bảo trì, sửa chữa kịp thời khi xuống cấp.  

Việc ban hành văn bản hướng dẫn còn chậm

Về Nghị quyết số 459/NQ-UBTVQH14 về tiếp tục nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với cá nhân, tổ chức khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản trong phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, theo Tổng Thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc hệ thống chính sách, pháp luật về khai thác, nuôi trồng hải sản và dịch vụ khai thác hải sản trong phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh ngày càng được hoàn thiện. Chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và thủy sản bước đầu đã phát huy hiệu quả. Đội ngũ tàu khai thác hải sản đã phát triển nhanh cả về số lượng, công suất, chủng loại và từng bước được hiện đại hóa. 

Sự phối hợp giữa các lực lượng trên biển được thực hiện đồng bộ; tàu thuyền khi xuất, nhập bến được kiểm soát chặt chẽ; tàu cá và ngư dân Việt Nam khi gặp sự cố, bị nước ngoài bắt giữ trái phép được hỗ trợ kịp thời; các tàu cá nước ngoài xâm phạm, khai thác hải sản trái phép trên vùng biển Việt Nam bị ngăn chặn và xử lý nghiêm. Thế trận quốc phòng, an ninh trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc được xây dựng từng bước vững chắc. Công tác hợp tác quốc tế được tăng cường và chú trọng. 

Thành viên Chính phủ tham gia phiên chất vấn và trả lời chất vấn

Tuy nhiên, việc ban hành văn bản hướng dẫn còn chậm, chưa đồng bộ. Kết cấu hạ tầng các vùng biển, ven biển, đảo vẫn còn hạn chế; hệ thống cảng biển manh mún, dàn trải, hiệu quả thấp. Các loại tàu thuyền, trang thiết bị còn lạc hậu, chưa đồng bộ; việc đóng tàu cho ngư dân không bảo đảm chất lượng, gây tốn kém, lãng phí.

Việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên biển và ven biển ở một số địa phương còn lãng phí, kém hiệu quả, nguồn thủy sản bị đánh bắt cạn kiệt, hệ sinh thái biển bị suy thoái; việc khai thác chưa gắn với bảo vệ và phát triển nguồn lợi hải sản. Tình trạng ô nhiễm môi trường biển ở nhiều nơi diễn ra nghiêm trọng, ô nhiễm rác thải nhựa đã trở thành vấn đề cấp bách.

Công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, biển xâm thực còn nhiều bất cập. Hiệu quả việc dân sự hóa trên biển, đảo chưa cao, chưa thu hút được người dân sinh sống, làm ăn lâu dài trên đảo.

Dịch vụ hoạt động nghề cá chưa tốt, công tác đào tạo, huấn luyện kỹ năng hoạt động trên biển cho ngư dân còn hạn chế. Việc ứng dụng khoa học công nghệ còn gặp nhiều khó khăn; chưa có chính sách hiệu quả thu hút nguồn lực xã hội tổ chức lại sản xuất theo mô hình liên kết chuỗi giá trị.

Chưa có chuyển biến mạnh mẽ trong công tác quản lý và sử dụng vốn ODA

Về thực Nghị quyết số 582/NQ-UBTVQH14 về một số nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý và sử dụng vốn vay nước ngoài, Tổng Thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc nêu rõ, Luật Đầu tư công đã được sửa đổi và định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2018 - 2020, tầm nhìn 2021 – 2025 được ban hành. Việc huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội với chi phí thấp và mức độ rủi ro hợp lý được thực hiện cơ bản là tốt. Mức dư nợ công thấp hơn quy định trong kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm giai đoạn 2016 – 2020; quy mô, danh mục nợ Chính phủ được kiểm soát. Đã trình Quốc hội cho phép tăng tổng mức vốn nước ngoài để bố trí vốn cho các dự án được ký kết hiệp định nhưng chưa có trong danh mục Kế hoạch đầu tư công trung hạn.

Tuy nhiên, những hạn chế, bất cập trong công tác quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài chưa có chuyển biến mạnh mẽ; vẫn tồn tại những dự án sử dụng vốn vay ODA chưa hiệu quả, từ khâu huy động (đàm phán hiệp định, điều kiện vay), đến việc thực hiện, sử dụng vốn. Công tác phân bổ, giao kế hoạch cho từng dự án cụ thể chưa được thực hiện kịp thời. Mức giải ngân vốn ODA, vốn vay ưu đãi cấp phát từ ngân sách trung ương rất thấp.

Tại phiên chất vấn, Tổng Thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cũng nêu rõ những nhận định, đánh giá cụ thể về việc thực hiện các kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chất vấn đối với các lĩnh vực: Quản lý và sử dụng vốn vay nước ngoài; Lao động – Thương binh và Xã hội; Thông tin và Truyền thông; Xây dựng; lĩnh vực thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp; Khoa học – Công nghệ; Dân tộc; lĩnh vực thuộc trách nhiệm của Bộ Công an./.

Bảo Yến

Các bài viết khác